Trời có âm dương ; cho nên mùa xuân
mộc, mùa hạ hỏa, mùa thu kim, mùa đông thủy, tứ quý thổ vậy; tùy theo
thời lệnh
mà hiển hiện sinh sát; trong mệnh có trời đất người tức lý tam nguyên,
mọi thứ
căn bản đều như thế cả.
Kiền
vi thiên nguyên, chi vi địa nguyên, chi trung sở tàng vi nhân nguyên.
Nhân chi
bẩm mệnh, vạn hữu bất tề, tổng bất việt thử tam nguyên chi lý, sở vị vạn
pháp
tông dã. Âm dương bổn hồ thái cực, thị vị đế tái, ngũ hành bá vu tứ thì,
thị vị
thần công, nãi tam tài chi thống hệ, vạn vật chi bản nguyên. ”Tích Thiên
Tủy”
thủ minh Thiên đạo như thử.
Dịch nghĩa:
Can là thiên nguyên, chi là địa nguyên, trong chi
tàng chứa nhân nguyên. Con người thụ mệnh, các khí không đồng đều, chung
quy
không vượt khỏi cái lý tam nguyên, nó chính là phương pháp tông vậy. Âm
dương
vốn là thái cực, mệnh danh vua nâng đỡ, ngũ hành đi khắp bốn mùa, là
thần
sinh sát, thống quản hệ tam tài, vạn vật bắt nguồn từ đó . “Trích thiên
tủy” Chương
Thiên đạo tỏ rõ như thế.
Lời người dịch:
Lời nói của người xưa
thường ngắn gọn, súc tích đôi khi khó hiểu. Chương Thiên đạo này, cổ
nhân muốn
bàn đến cái nguồn gốc âm dương mà kinh dịch đã nói đến. Hai khí âm dương
này cọ
xát nhau mà có bốn mùa, mùa xuân mộc, mùa hạ hỏa, mùa thu kim, mùa đông
thủy và
bốn tháng cuối của bốn mùa là thổ khí (tháng 3, 6, 9, 12). Năm cái khí
này tư
lệnh bốn mùa, thuận thì sinh nghịch thì sát.
Con người bẩm thụ cái
thiên khí âm dương, ngũ hành mà thành hình tượng. Tuy thụ mệnh không
đồng như
nhau, nhưng tựu trung lại thì không vượt ra khỏi lý tam nguyên thiên địa
nhân
vậy. Mệnh bẩm thụ khác nhau thì cát hung cũng không giống nhau, thế gian
có vạn
vật tất có vạn sự.
Thế cho nên người học
đoán mệnh cái cần yếu nhất là hiểu được cái cơ động tịnh của âm dương,
cái sinh
vượng của ngũ hành trong tứ trụ có trong thiên can và địa chi được mệnh
danh là
tam tài thiên địa nhân. Cứ theo cái lẻ ấy mà luận đoán cát hung, đó là
phương
pháp chính tông vậy. Vì vậy mà cổ nhân mới khuyên chúng ta: muốn biết
được lý tam nguyên thí trước phải xem sự động tịnh của âm dương sau đó
mới xét
đến cái lý của ngũ hành (Dục thức tam nguyên vạn pháp tông, tiên quan đế
tái dữ
thần công) là như thế đó.
__________________ Cố ý nài hoa hoa chẳng chịu
Vô tình ép liễu liễu ok!
Đã tham gia: 17 May 2010 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 331
Msg 3 of 20: Đã gửi: 17 May 2010 lúc 10:50pm | Đã lưu IP
Chương 2:
Địa Đạo
Khôn nguyên hợp đức cơ giam thông, ngũ
khí thiên toàn định cát hung
Nguyên chú:
Địa
hữu cương
nhu, cố ngũ hành sanh vu đông nam tây bắc trung, dữ thiên hợp đức, nhi
cảm kì
cơ giam chi diệu. Phú vu nhân giả, hữu thiên toàn chi bất nhất, cố cát
hung
định vu thử.
Dịch nghĩa:
Đất có
cương
nhu, mà ngũ hành sinh ở đông nam tây bắc và trung ương, trời đất giao
cảm nhau
mà sinh ra cái khí diệu dụng. Con người do bẩm thụ cái thiên khí không
đồng đều
nhau , cũng vì vậy mà cát hung theo đó cũng khác nhau như thế.
Nhâm thị viết:
“Đại tai kiền nguyên, vạn vật tư thủy ”, “chí
tai khôn nguyên, vạn vật tư sanh ”, kiền chủ kiện, khôn chủ thuận. Thuận
dĩ
thừa thiên, đức dữ thiên hợp; hú uẩn phúc dục, cơ giam lưu thông. Đặc
ngũ hành
chi khí hữu thiên toàn, cố vạn vật chi mệnh hữu cát hung.
Dịch nghĩa:
“cao
lớn thay
đức của kiền, vạn vật từ đó”, “cao lớn thay đức của khôn, vạn vật được
sinh”,
kiền chủ cương cứng, khôn chủ chủ nhu thuận. Cương nhu theo nhau, mạnh
yếu trợ
nhau; đắp đổi nhau, qua lại đóng mở. Chỉ do cái khí ngũ hành thiên lệch,
mà cát
hung của mệnhnhân đó mới phát sinh vậy.
Lời người dịch:
Âm
dương cọ sát
nhau mà sinh ra tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Đứng đầu quẻ dương là
kiền,
đứng đầu quẻ âm là khôn. Kiền chủ cương kiện là cái tượng ban đầu của sự
vật,
nên thánh nhân mới bảo “đại tai kiền nguyên”. Khôn chủ nhu thuận là cái
hình
của sự vật, nên thánh nhân mới bảo”chí tai khôn nguyên”.
Hai
khí kiền
khôn này một cái cương một cái nhu cùng theo nhau, tương trợ nhau, cùng
giao
cảm nhau mà sinh ra sáu quẻ chấn tốn ly khảm cấn đoài. Vạn vật cũng từ
đó mà
tương sinh tương diệt.Thông cũng tượng cho quẻ Thái là thời mà âm dương
tương
giao tư sinh vạn vật. Giam cũng tượng cho quẻ Bĩ là thời mà hai khí âm
dương
bất tương giao vạn vật tất tương diệt.
Nhân
sinh bẩm
thụ mệnh, khí ngũ hành thiên lệch bất toàn mà họa phúc, cát hung cũng từ
đó mà
sinh ra. Vì thế cho nên, thánh nhân khuyên người học đoán mệnh cần hết
sức quan
tâm sự thông thuận của hai khí âm dương, sự lệch lạc của ngũ hành mà
quyết định
cát hay hung, thành hay bại, thọ yểu cùng thông (Khôn nguyên hợp đức cơ
giam
thông, ngũ khí thiên toàn định cát hung) ý là như vậy đó.
__________________ Cố ý nài hoa hoa chẳng chịu
Vô tình ép liễu liễu ok!
Vạn vật sinh ra trong trời đất không
có giống nào mà chẳng thụ cái khí ngũ hành, duy chỉ con người thụ được
cái khí
ngũ hành toàn mà quý vậy. Nhưng cát hung chẳng đồng nhau là do ngũ hành
đi
thuận hay nghịch đó vậy.
duy nhân chúc
thổ, thổ cư trung ương, nãi mộc hỏa kim
thủy trung khí sở thành, độc thị ngũ hành chi toàn, vi quý. Thị dĩ
nhân chi bát tựtối nghi tứ trụ lưu thong, ngũ hành sinh hóa,
đại kị tứ trụ khuyết hãm, ngũ hành thiên khô.Ngụy thư vọng ngôn tứ mậu
ngọ giả,
thị thánh đế chi tạo, tứ quý hợi giả, thị trương hòan hầu chi tạo, cứu
kỳ lý
giai hậu nhân ngoa truyền. dư hành đạo dĩ lai, thôi quá tứ mậu ngọ, tứ
đinh
mùi, tứ quý hợi, tứ ất dậu, tứ tân mão, tứ canh thìn, tứ giáp tuất giả
thậm đa,
giai tác thiên khô luận, vô bất ứng nghiệm.
đồng ấp sử tính
giả tứ nhâm dần giả, dần trung hỏa thổ trường sinh, thực thần lộc vượng,
thượng
hữu sinh hóa chi cấp, nhi thê tài tử lộc, bất năng toàn mỹ, chích nhân
dần
trung hỏa thổ chi khí, vô tòng dẫn xuất, dĩ chí ấu tao cô khổ, trung thụ
cơ
hàn; chí tam tuần ngoại, vận chuyển nam phương, dẫn xuất dần trung hỏa
khí, đắc
tế ngộ , kinh doanh phát tài, hậu cánh vô tử, gia nghệip phân đoạt nhất
không.
Khả tri nhưng tác thiên khô luận dã. Do thử quan tri,mệnh quý trung hòa,
thiên
khô chung vu hữu tổn; lý cầu bình chánh, kì dị bất túc vi bằng.
Dịch nghĩa:
Con người sống giửa trời đất, đầu tiếp giáp trời
chân tiếp giáp đất, bát tự cần nhất là thiên can và địa chi thông thuận
chớ nên
nghịch thường. Thuận thì được tương sinh, nghịch thì bị khắc hại, thế
cho nên
cát hung cũng từ đó mà phân rẻ vậy.
Như thiên can khí nhược, được địa chi sinh,
địa chi khí suy, được thiên can trợ chi, tức can chi thông thuận tất
cát; giả
như thiên can suy nhược mà còn bị địa chi ức chế, địa chi khí nhược mà
còn bị
thiên can khắc chế, tức can chi nghịch thường hung nguy vậy.
Thí như thiên can mộc rất sợ hành kim khắc thiên
can mộc, địa chi có tý hợi hóa kim sinh can; nếu địa chi không có tý
hợi, mà
thiên can có nhâm quý có thể hóa kim sinh mộc; còn như thiên can không
có nhâm
quý mà địa chi có dần mão mộc, tức thiên can thông gốc (thông căn); bằng
như
địa chi không có dần mão mộc, thiên can có bính đinh hỏa khắc chế kim,
thiên
can mộc có sinh cơ, sự cát có thể biết được.
Nhược bằng thiên can không có nhâm quý, mà trái
lại trên can còn hiển lộ can mậu kỷ; còn địa chi không có hợi tý dần
mão, mà
trái lại còn thấy xuất hiện thìn tuất sửu mùi thân dậu, thổ kim trùng
trùng
sinh trợ kim, thiên can mộc bị khắc vô sinh trợ, hung nguy có thể biết
được
vậy. Dư lại các loại cứ thế mà suy.
Đại phàm vạn vật không vật nào mà chẳng mang
thuộc tính ngũ hành, trên tiếp giáp với trời dưới tiếp giáp với đất, như
loài
chim bay trên trời cá bơi dưới nước, cỏ cây muôn thú chạy trên bờ đều
mang thuộc tính ngũ hành khí chuyên sinh của nó, như loài mang bộ lông
vũ thuộc
hỏa, loài cỏ cây thuộc mộc, loài cá bơi lội dưới nước thuộc kim, duy con
người
thụ đắc khí thuộc thổ, cư trung ương gồm nắm cả kim mộc thủy hỏa, kim
mộc thủy
hỏa thành từ thổ, vì vậy tuy ngũ hành nhất khí nhưng rất tôn quý. Thế
cho nên
bát tự tối cần tứ trụ lưu thông, ngũ hành sinh hóa hữu tình, đại kỵ tứ
trụ
khuyết hãm, ngũ hành thiên khô. Ngụy thư vọng ngôn cho rằng tứ trụ tứ
mậu ngọ
là mệnh thánh đế, tứ quý hợi là mệnh của hầu bá, nghiên cứu cận lý mới
biết hậu
nhân ngoa truyền.
Ta trong quá trình hành đạo, đã xem qua những tứ
trụ có tứ mậu ngọ, tứ đinh mùi, tứ quý hợi, tứ ất dậu, tứ tân mão, tứ
canh
thìn, tứ giáp tuất và nhiếu hơn thế nửa, đều luận mệnh theo lẻ thiên
khô, chẳng
cái nào mà không ứng nghiệm.
Thí như Càn tạo mệnh tứ trụ tứ nhâm dần, địa chi
dần tàng chứa hỏa thổ trường sinh, thực thần lộc vượng, trên có nhâm
thủy sinh
cho, mặc dù thê tài tử tôn ngộ lộc, nhưng chẳng toàn mỹ, nguyên nhân là
do hỏa
thố trong dần không có chi dẫn xuất, cho nên tuổi thơ cô khổ, trung vận
cơ hàn,
mãi quá 30 tuổi, hạn hành phương nam dẫn xuất hỏa trong dần, kinh doanh
phát
tài, tuổi già không con, gia nghiệp bị phân chia tranh đoạt, có thể biết
được
như vậy nhờ luận theo cách cục thiên khô. Do vậy nghiệm ra rằng, mệnh
cục quý
trung hòa, thiên khô chung quy có tổn hại; mệnh cục cần ngũ hành cân
bằng đầy
đủ, mệnh cục kỳ dị bất túc lấy chi nương tựa vậy.
Lời người dịch:
Trời đất có âm dương ngũ hành, nhị khí giao cảm nhau mà
sinh ra vạn vật. Thế cho nên, dưới thế gian không có giống loài nào mà
không
thụ đắc cái khí âm dương ngũ hành của trời đất.
Con người là động vật chí linh, do bẩm thụ khí âm dương
ngũ hành toàn vẹn. Nhưng do sự thụ khí bất đồng và sự lưu hành của khí
âm dương
ngũ hành thuận nghịch mà cát hung họa phúc không đồng nhau vậy.
Âm dương ngũ hành trong bản mệnh chính là can chi, cần
nhất là trung hòa, bất túc, khiếm khuyết dù có phú quý chăng nữa cũng
bất toàn.
Thế cho nên, thánh nhân khảo mệnh cần sự trung hòa đầy đủ theo thường
lý, chớ
nên kỳ dị khác lạ nghịch thường chung cuộc hung hại (Đớithiênphúcđịanhânviquý, thuậntắccáthềhungtắc bội).
__________________ Cố ý nài hoa hoa chẳng chịu
Vô tình ép liễu liễu ok!
Đã tham gia: 17 May 2010 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 331
Msg 5 of 20: Đã gửi: 17 May 2010 lúc 10:52pm | Đã lưu IP
Chương 4:
Tri
Mệnh
Yếu dữ nhân gian khai
lung hội, thuận nghịch chi cơ tu
lý hội
Nguyên
chú: bất tri mệnh giả như lung hội, tri mệnh vu thuận nghịch chi cơ năng
lý hội
chi, thứ khả dĩ khai thiên hạ chi lung hội.
Nhâm
thị viết: thử ngôn hữu chí lý, duy khủng hậu nhân học mệnh, bất cứu
thuận nghịch
chi cơ. Vọng đàm nhân mệnh, di ngộ bất thiển, hổn khan kì cách dị cục,
nhất
thiết thần sát, hoang đường thủ dụng, đào hoa hàm trì, chuyên luận nữ
mệnh tà
dâm, thụ trách quỷ thần; kim tỏa thiết xà, mậu chỉ tiểu nhi quan sát, ưu
nhân
phụ mẫu; bất luận nhật chủ chi suy vượng, tổng dĩ tài quan vi hỉ, thương
sát vi
tăng, định nhân chung thân; bất quản nhật chủ chi cường nhược, tẫn thực
ấn vi
phúc, kiêu kiếp vi ương, bất tri tài đẳng danh, vi lục thân thủ dụngnhi
liệt,
cánh nhân tác tài khả dưởng mệnh, quan khả vinh thân, hà kì ngu dã! Như
taì khả
dưởng mệnh, tắc tài đa thân nhược giả, bất chí yêu tiên, nhi thành hiển
quý.
Dư
tường khảo cổ thư, tử bình chi pháp, toàn tại tứ trụ ngũ hành. Sát kì
suy
vượng, cứu kì thuận bội, thẩm kì tiến thối, luận kì hỉ kị, thị vi lý
hội. chí
vu kì cách dị cục, thần sát nạp ạm chư danh mục, nãi hảo sự vong tạo,
phi quan
mệnh lý hưu cữu. nhược cư thủ luận mệnh, tất chí dĩ chính vi mậu, dĩ thị
vi
phi, ngoa dĩ truyền ngoa, toại sử cát hung chi lý, hôn muội nan minh hỉ.
thư
vân:” dụng chi vi tài bất khả kiếp, dụng chi vi quan bất khảthương, dụng
chi vi
ấn bất khả phối, dụng chi vi thực thần bất khả đoạt”. thử tứ cú nguyên
hữu chí
lý, kì yếu tại nhất “dụng” tự. vô tri học mệnh giả, bất cứu “dụng” tự
căn
nguyên, chuyên dĩ tài quanvi trọng, bất tri bất dụng tài tinh tẫn khả
kiếp, bất
dụng quan tinh tẫn khả thương, bất dụng ấn thụ tẫn khả phối, bất dụng
thực thần
tẫn khả đoạt. thuận bội chi cơ bất lý hội, dữ lung hội hà dị khởi năng
luận cát
hung, biện hiền phủ, nhi hữu công vu thế tai! Phản ngộ thế hoặc nhân giả
đa hĩ!
Thiên
can canh tân bính đinh, chánh phối hỏa luyện thu kim; địa chi tý ngọ mão
dậu, hựu
phối khảm ly chấn đoài. Chi toàn tứ chính, khí quán bát phương, nhiên
ngũ hành
vô thổ, tuy đản thu lệnh, bất tác vượng luận. tối hỉ tý ngọ phùng xung,
thủy
khắc hỏa, sử ngọ hỏa bất phá dậu kim, túc dĩ phu chủ; canh diệu mão dậu
phùng
xung, kim khắc mộc, tắc mão mộc bất trợ ngọ hỏa, chế phục đắc nghi. Mão
dậu vi
chấn đoài, chủ nhân nghĩa chi nhân cực; tý ngọ vi khảm ly, tể thiên địa
chi
trung khí. Thả khảm ly đắc nhật nguyệt chi chính thể, vô tiêu vô diệt,
nhất
thuận nhất nguyên, tọa hạ đoan môn, thủy hỏa ký tế. sở dĩ bát phương tân
phục,
tứ hải du đồng, kim mã chu diên, tinh hải bản đồ chi nội, bạch lang
huyền thố,
hàm quy phúc trù chi trung, thiên hạ hi trữ dã.
Đổng
trung đường tạo, nhậ can mậu thổ, sinh vu quý xuân ngọ thời, tự hồ vượng
tướng,
đệ xuân thời hư thổ, phi bỉ lục cửu nguyệt chi nhật dã. Thả lưỡng thần
súc thủy
vi thấp, túc dĩ tiết hỏa sinh kim, can thấu lưỡng canh, chi hội than
thìn, nhật
chủ quá tiết, dụng thần tất tại ngọ hỏa. hỉ thủy mộc bất kiến, nhật chủ
ấn thụ
bất thương, tinh thần vượng túc, thunầ túy trung hòa. Nhất sinh hoạn hải
vô ba,
tam thập dư niên thái bình tương nghiệp, trực chí tử vậnhội thủy cục bất
lộc,
thọ dĩ bát tuần hĩ.
thử
tạo dữ thượng tạo dị khúc đồng công chi diệu, nhật can kỷ thổ, tuy đản
sửu
nguyệt, nhiên đông thổ hàn thấp, phi bỉ lục cửu nguyệt chi ôn hú. Thả
sửu trung
súc thủy hàm kim, can thấu lưỡng tân, chi hội sửu dậu, nhật chủ quá
tiết, dụng
thần tất tại bính hỏa. hỉ thời trung dần mộc, cửu hàn hồi dương, bính
hỏa hữu
căn. Nhân cực tiêm mĩ linh tú, tảo vận nhâm quý, thư hương hữu trở,
tương lai
tỵ ngọ mùi nam hỏa địa, tiền trình vị khả hạn lượng.(tân tăng).
Càn
tạo mệnh:
&nbs p;
&n bsp;
NhâmThầnNhâmDầnGiápDầnCanhNgọ ĐạiVận:QuýMãoGiápThầnấtTịBínhNgọĐinhVịMậuThânKỷDậuCanhTuất đồng ấp vuong tính tạo. tục dĩ thân cường sát
thiển
luận, thủ canh kim vi dụng, vị xuân mộc phùng kim, tất tác đóng lương
chi khí,
khuyến kì độc thư tất phát; chí tam tuần ngoại, bất đản độc thư vị thu,
nhi thả
gia nghiệp tiệm tiêu, chúc dư thôi chi. Quan kì chi tọa lưỡng dần, thừa
quyền
đương lệnh, can thấu lưỡng nhâm, sinh trợ vượng thần, niên chi chi thìn
thổ,
nãi thủy chi khố, mộc chi dư khí, năng súc thủy dưởng mộc, bất năng sinh
kim,
nhất điểm canh kim, hưu tù dĩ cực, thả ngọ hỏa địch chi, nhâm thủy tiết
chi,
bất duy vô dụng, phản vi sinh thủy chi bệnh. Đại phàm vượng chi cực giả,
nghi
tiết nhi bất nghi khắc, nghi thuận kì khí thế, phất bôi kì tính dã. Dĩ
ngọ hỏa
vi dụng, tương lai vạn chí hỏa địa, tuy bất quý vu danh, định đương phú
vu lợi,
như tái thủ vân song, chung thân ngộ hỉ. bỉ tức khí nho tựu kinh doanh,
chí
bính ngọ vận, khắc tẫn canh kim chi bệnh, bất mãn thập niên , phát tài
thập dư
vạn, tắc canh kim vi bệnh minh hĩ.
thử
phúc kiến nhân bất tri tính thị, canh ngọ đông, dư thôi chi, đại thủ kim
thủy
vận, bất thủ hỏa thổ.bỉ viết: kim thủy vượng cực, hà dĩ hựu thủ kim
thủy?tắc
mệnh thư bất túc bằng hồ? thư viết:” vượng tắc nghi tiết nghi thương”,
kim mãn
cục kim thủy, phản thủ kim thủy, thị mệnh thư vô bằng hĩ. Dư viết: mệnh
thư hà
vi vô bằng? giai nhân bất năng thức mệnh trung ngũ hành chi áo diệu nhĩ.
Thử
tạo thủy vượng phùng kim, kì thế trùng bôn, nhất điểm giáp mộc khô phù,
nan
tiết thủy khí như chỉ kì lưu, phản thành thủy hoạn, bất nhược thuận kì
lưu vi
mĩ. Sơ vận quý hợi, trợ kì vượng thần, ấm tý hữu dư; nhất giao nhâm
tuất, thủy
bất thong căn, nghịch kì khí thế, hình háo tịnh kiến; tân dậu canh thân,
đinh
tài tịnh vượng; kỷ mùi mậu ngọ, nghịch kì tính, bán sinh sự nghiệp, tẫn
phó
đông lưu, hình thê khắc tử, cô khổ vô y. thử sở vị “côn lôn chi thủy,
khả thuận
nhi bất khả nghịch dã”. thuận nghịch chi cơ, bất khả bất tri dã.
nhược
tư án, thượng tạo “tích thiên tủy” tác quý dậu/giáp tý/ quý hợi/ tân
dậu, đản
căn cư thôi toán, tư hồ yếu đáo đệ nhị thiên đích giáp tý nhật thần
thơpì hậu
phương tài giao tiết, na yêu kì bát tựu ứng cai vi quý dậu quý hợi quý
hợi tân
dậu . bỉ giác nhi ngôn, lưỡng tạo đô thị thủy thế vượng cực, cách cục
pha vi
tương cận, đại vận diệc tương soa bất quá sổ thập thiên, nhân thử tích
thiên
tủy đích luận đoán thị chính xác đích.
Hựu
dĩ nhâm thiết tiều thị đích học lực, đương bất hội hữu thử chủng giác
ngộ, tòng
thượng diện đích văn tự khan, mệnh chủ bổn nhân diệc thong hiểumệnh ký
học, đại
khái thử bát tự nãi chúc tự báo, phi nhâm sư thôi đắc. hành văn chí thử,
diêu
tư đương thời, bất cấm tâm khoáng thần di, vi chi khuynh đảo.
Dịch nghĩa:
&nbs p;
Câu nói trên thật chí lý, chỉ sợ người
học mệnh sau này chẳng nghiên cứu tường tận cái cơ thuận nghịch. Vội
vàng đàm
luận nhân mệnh, làm mê hoặc không ít, xem tạp cách hay cục lạ, hết thảy
thần
sát đem ra dùng một cách rất hoang đường, đào hoa hàm trì chuyên luận nữ
mệnh
tà dâm, cầu thọ quỷ thần, kim xà thiết tỏa sai lầm tiểu nhi quan sát,
làm rối
lòng cha mẹ; chẳng cần biết nhật chủ cường nhược đều cho ấn thực là
phúc, kiêu
kiếp là tai ương, mà không biết rằng tài quan ngang nhau, lấy lục thần
ngang
nhau, lại cho rằng nguồn tài có thể dưởng mệnh, quan có thể vinh thân
thật là
ngu muội quá thay!
Ví như
nguồn tài có thể dưởng mệnh mà tài nhiều
thân nhược chẳng là nhà giàu có ma bần tiện đó sao, quan có thể vinh
thân mà
thân suy quan vượng chỉ lá quý hiển mà chết yểu, đê tiện đó. Ta từng
khảo xét
cổ thư, phương phương pháp tử bình, họa phúc cát hung thọ yểu toàn tại
tứ trụ
ngũ hành. Xem xét sự suy vượng, nghiên cứu sự thuận nghịch, xét đoán sự
tiến
thoái mà luận hỉ kỵ, ấy thế mà lỉnh hội được. đến như cách hay cục lạ,
lấy đó
làm chính lý tất sai lầm lớn, ngoa dĩ truyền ngoa, nhân đó làm lý cho sự
cát
hung, thật là hôm muội khó sáng vậy. thư vân:”dụng thần tài tinh không
nên gặp
kiếp tài, dụng thần quan tinh không nên gặp thương quan, dụng thần ấn
tinh
không nên gặp tài, dụng thần thương thực không nên gặp kiêu”, bốn câu
trên thật
chí lý, cốt yếu ở một chử “dụng”. người học mệnh không hiểu biết, không
nghiên
cứu căn nguyên cho tường tận, chuyên lấy tài quan làm trọng, mà không
biết
rắng:”dụng thần tài tinh có thể dụng kiếp, dụng thần quan tinh có thể
dụng
thương quan, dụng thần ấn tinh có thể dụng tài, dụng thần thương thực có
thể
dụng kiêu”. Cái cơ thuận nghịch không lĩnh hội được, mômg muội đến thế
làm sao
có thể luận cát hung, biện hiền ngu, làm mê hoặc kẻ hậu học như thế thật
quá
lắm vậy!
Thiên
can canh tân bính đinh, chính phối hỏa luyện thu kim; địa chi tý ngọ mão
dậu,
cư ở bốn cung khảm ly chấn đoài. Cả bốn chi đều ở tứ chính, khí quán tám
phương, nhưng ngũ hành thiếu thổ, tuy sinh vào mùa thu đương lệnh, chẳng
luận
vượng. rất cần tý ngọ gặp xung , thủy khắc hỏa, khiến cho ngọ hỏa chẳng
khắc
phá dậu kim, mà sinh phù nhật chủ; đổi lại mão dậu gặp xung, kim khắc
mộc, tắc
mão mộc không thể sinh trợ ngọ hỏa, chế phục đắc cách, sinh hóa hữu
tình. Mão
dậu tức chấn đoài chủ nhân nghĩa hơn người; tý ngọ tức khảm ly, là khí
đứng đầu
trong trời đất. Với lại khảm ly đắc nhật nguyệt chi chính thể, vô tiêu
vô diệt,
một tươi nhuận một ấm áp, tọa tại đoan môn, thủy hỏa ký tế. Cho nên tám
phương
qui phục, bốn biển cùng về, thiên hạ thái bình thịnh thế vậy(Thanh cao
tông-càn
long. Trích trong ái tân giác la mệnh phổ).
Nhật
can mậu thổ, sinh vào tiết Quý xuân vào giờ ngọ, tựa như vượng tướng,
tháng mùa
xuân thổ hư khí, không như thổ tháng 6, 9 là thực thổ. Vả lại hai chi
Thìn thấp
thổ mộ khố của thủy, có thể tiết khí hỏa sinh kim, can thấu lưởng canh,
chi hội
thân Thìn, nhật chủ bị tiết chế quá độ, nên chọn dụng thần là đinh hỏa
tàng
trong chi ngọ sinh phù. Rất cần không thấy thủy mộc, nhật chủ ấn thụ
không bị
thương, tinh thần sung túc, thuần túy trung ḥa. Một đời chẳng gặp hoạn
nạn,
hơn ba mươi năm hưởng thái b́nh sự nghiệp, măi đến vận mậu tư hội thân
tư Thìn
thủy cục vượng thất lộc, hưởng thọ 80 tuổi vậy.
Giống
như cách tạo mệnh trên tuy có khác nhau về tiểu tiết nhưng đại loại th́
cũng
như thế, nhật can kỷ thổ, tuy sinh vào tháng sửu thổ vượng, nhưng thổ
mùa đông
hàn thấp, sao bằng thổ tháng 6, 9 ôn táo. Với lại, nguyệt lệnh sửu hàm
chứa kim
thủy, can thấu hai tân, chi bán hội sửu dậu kim cục, nhật can bị tiết
chế quá
độ, dụng thần tất chọn bính hỏa. Rất may thời trụ dần mộc, hàn cực sinh
dương,
bính hỏa hữu căn. Tướng người nhân đức, tuấn tú, hành vận nhâm Quý thủy
thi
hương trắc trở, sang vận tỵ ngọ mùi hỏa địa, tiền tŕnh tốt đẹp không
thể nói
hết(Tân Tăng).
Họ
vương tạo mệnh, luận theo lẻ thường cho rằng thân cường sát thiển, lấy
canh kim
thất sát làm dụng thần, mùa xuân mộc vượng gặp kim, tất là khí lương
đóng, cố
gắng độc thư tất sau nên danh; măi quá ba mươi không thấy ứng nghiệm,
gia
nghiệp tiêu hết dần, nên nhờ ta suy đoán. Ta thấy rằng chi tọa lưỡng
dần,
nguyệt lệnh đương quyền, can thấu hai nhâm, sinh trợ vượng thần, chi năm
Thìn
thổ là thủy khố, chứa thủy dưởng mộc, không thể sinh kim, một canh kim
vừa hưu
tù vô khí, vừa bị ngọ hỏa chế khắc, nhâm thủy tiết khí, không chỉ vô
dụng mà
c̣n trở lại sinh thủy. Đại phàm vượng cực, nên tiết khí không nên bị
khắc, nên
thuận theo thế thịnh, chẳng nên nghịch thế. Lấy ngọ hỏa làm dụng thần,
tương lai vận hành hỏa địa, tuy chẳng hiển Quý, nhất định giàu có, bằng
như chờ
đợi vận hội, tất có ngày như thỏa nguyện. Rời bỏ nho học chuyển sang
kinh
doanh, tới vận bính ngọ, khắc mất canh kim, không quá mười năm, phát tài
hơn
mười vạn, cho nên canh kim là khắc thần vậy.
Một
người ở phúc kiến không tính danh, mùa đông năm canh ngọ, ta suy luận,
đại loại
lấy kim thủy làm dụng thần, chẳnng nên lấy hỏa thổ làm dụng. người ấy
nói: kim
thủy vượng cực, cớ ǵ lấy kim thủy làm dụng thần? Hay sách mệnh có thiếu
sót gi
chăng? Sách xưa thường viết:”vượng nên tiết nên thương”, kim vượng đầy
tức cục
kim thủy, trái lại lấy kim thủy làm dụng thần, tức mệnh thư không có
khiếm
khuyết hay sao? Ta nói: sách xưa không sai. Bởi do người học mệnh không
thể
hiểu hết cái ngũ hành ảo diệu trong mệnh cục. Thử tạo thủy vượng gặp
kim, tất
thành thế thủy thịnh, khô mộc bị trôi dạt, không tiết được thủy sinh mộc
thủy
vượng không nơi phát tiết tất thành thủy lưu, phản thành họa thủy, chẳng
là
điềm xấu hay sao. Sơ vận Quý hợi, Quý thủy sinh trợ dụng thần thủy
vượng, sinh
trợ có thừa; bước sang đại vận nhâm tuất thủy bất thông căn, khí thế
nghịch
hành, thủy bị h́nh phạt hao tán; tân dậu canh thân, đinh tài lưỡng
vượng; kỷ
mùi mậu ngọ nghịch khắc dụng thần, sự nghiệp trôi theo ḍng nước chảy,
h́nh thê
khắc tử, cô khổ bần hàn. Ví như “ nước sông Côn Lôn, thuận chảy xuôi
ḍng,
không nên nghịch ḍng mà gây họa”. Thế cho nên, cái cơ thuận nghịch
không nên
không biết tường tận vậy.
Theo
“Trích Thiên Tủy” chép cách tạo mệnh trên như Quý Dậu/Giáp Tý/Quý
Hợi/Tân Dậu,
căn cứ vào sự suy tính, tựa hồ sau ngày Giáp Tý mới là ngày giao tiết,
những
chi tiết nhỏ ấy nên suy ứng tựu chung ngày Quý hợi, bát tự như trên. Ta
so
sánh, cả hai cách tạo mệnh trên đại khái thủy cục đều vượng, cách cục
tương
đồng, đại vận sai lệch không quá mười ngày, nhân đó mà sách luận mệnh
luận đoán
chính xác. Với lại, họ nhâm thiết tiều sở đắc học mệnh, chẳng lẻ không
biết
được những điều ấy sao, về phương diện văn tự mà thấy đựơc, mệnh chủ vốn
người
thông hiểu mệnh lư, đại khái bát tự thuộc loại h́nh dự báo tự nhiên,
chẳng cần
phải dụng tâm nhiều mới thấu hiểu được. Cách hành văn cao siêu, ư tứ sâu
xa
vựơt thời đại, chẳng kiềm hăm cái tâm sáng thần minh, làm nghiêng ngữa
ḷng
người vậy.
Lời người dịch:
Âm dương thuận nghịch luân chuyển không ngừng, thuận tiến tức
khí vượng,
nghịch thoái tức khí suy. Ví như hỏa mùa hạ sinh vượng khí tức hành khí
thuận
tiến, cũng là khí tử tuyệt nghịch thoái của mùa đông vậy. Thế cho nên
người học
mệnh cần nên lĩnh hội được cái cơ ảo diệu thuận nghịch tiến thoái của âm
dương
ngũ hành. Thế cho nên thánh nhân mới bảo “thuận nghịch chi cơ tu lư hội”
vậy.
__________________ Cố ý nài hoa hoa chẳng chịu
Vô tình ép liễu liễu ok!
Đã tham gia: 17 May 2010 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 331
Msg 6 of 20: Đã gửi: 17 May 2010 lúc 10:56pm | Đã lưu IP
Chương
5: Lư Khí
Lư thừa hành khởi hữu thường,
tiến hề thoái hề nghi ức
dương
Nguyên chú: hạp quan văng lai giai thị khí, nhi lư hành hồ kỳ
gian.
Hành chi thủy nhi tiến, tiến chi cực tắc vi thoái chi cơ, như tam nguyệt
chi
giáp mộc thị dă; hành chi thịnh nhi thoái, thoái chi cự tắcc vi tiến chi
cơ,
như cửu nguyệt chi giáp mộc thị dă. học giả nghi ức dương kỳ thiển thâm,
tư khả
dĩ ngôn mệnh dă.
Dịch nghĩa:
Cái khí đóng mở qua lại, lưu hành trong khoảng trời đất. Cái khí đó khi
ban đầu
th́ nó tiến, tiến măi cùng cực th́ nó thoái, như giáp mộc vào tháng 3;
một khi
cái khí này tiến đến cực thịnh th́ nó thoái, như giáp mộc sinh vào tháng
9 vậy.
Người học mệnh nên b́nh lặng mà ḍ xét nông sâu, ấy có thể là ngôn mệnh
vậy.
Nhâm
thị viết: tiến thoái chi cơ, bất khả bất tri dă. phi trường sinh vi
vượng, tư
tuyệt vi suy, tất đương thẩm minh lư khí chi tiến thoái, thứ đắc suy
vượng chi
chân cơ hĩ. Phàm ngũ hành vượng tướng hưu tù, án tứ Quý nhi định chi.
Tương lai
giả tiến, thị vi tương; tiến nhi đương lệnh, thị vi vượng; công thành
giả
thoái, thị vị hưu; thoái nhi vô khí, thị hưu tù. Tu biện kỳ vượng tướng
hưu tù,
dĩ tri kỳ tiến thoái chi cơ. Vi nhật chủ, vi hỉ thần, nghi vượng tướng,
bất
nghi hưu tù; vi hung sát, vi kị thần, nghi hưu tù, bất nghi vượng tướng.
Nhiên
tương diệu vu vượng, vượng tắc cực thịnh chi vật, kỳ thoái phản tốc,
tương tắc
phương trường chi khí, kỳ tiến vô nhai dă. hưu thậm hồ tù, tù tắc kư cực
chi
thế, tất tương tiệm sanh; hưu tắc phương thoái chi khí, vị năng cự phục
dă. thử
lư khí tiến thoái chi chính luận dă, viên cử lưỡng tạo vi lệ.
Giáp
mộc hưu khốn dĩ cực, canh kim lộc vượng khắc chi, nhất điểm đinh hỏa,
nan dĩ
tương đối, gia chi lưỡng tài sinh sát, tự hồ sát trọng thân khinh, bất
tri cửu
nguyệt giáp mộctiến khí, nhâm thủy thiếp thân tương sinh, bất thương
đinh hỏa.
đinh hỏa tuy nhược, thông căn thân khố, tuất năi táo thổ, hỏa chi bổn
căn, Thìn
năi thấp thổ, mộc chi dư khí. Thiên can nhất sinh nhất chế, địa chi hựu
ngộ
trường sinh, tứ trụ sinh hóa hữu t́nh, ngũ hành bất tranh bất đố. Chí
đinh vận
khoa giáp liên đăng, dụng hỏa địch sát minh hĩ. Tuy cửu nhâm kinh quan,
nhi
hoạn tư phong tồn, giai nhất lộ quan phương vận dă.
Nhược
tư án, thử sơ khán tự yếu dụng ấn, nhiên cục hữu ấn, tắc thân dĩ tư, tất
dụng
thương quan chế sát dă. diệu tại giáp mộc tiến khí, tắc túc dĩ nhâm tiết
nhâm
chế, phủ tắc bất kham.
thử
dữ tiền đại đồng tiểu dị. dĩ tục luận chi, “giáp dĩ ất muội thê canh,
hung vi
cát triệu”, hàm hợp vong trùng, giác chi tiền tạo canh giai, hà bỉ tắc
hàn
uyển, thử tắc hàn thấp? bất tri ất canh hợp nhi hóa kim, phản trợ kỳ
bạo. bỉ
tắc giáp Thìn, Thìn năi thấp thổ, năng sinh mộc, thử tắc giáp tuất, tuất
táo
thổ bất năng sinh mộc; bỉ tắc thân Thìn củng hóa, thử tắc thân tuất sinh
sát;
bỉ tắc giáp mộc tiến khí, nhi canh kim thoái, thử tắc canh kim tiến khí,
nhi
giáp mộc thoái. Suy thử lưỡng tạo, thiên uyên chi cách, tiến thoái chi
cơ, bất
khả bất tri dă.
Dịch
nghĩa:
Cái cơ tiến thoái, không thể không biết. Trường sinh thì sinh vượng tử
tuyệt thì suy, cần nên biện rỏ cái lý tiến thoái, sau đến xem xét cái
chân suy
vượng vậy. Đại phàm ngũ hành vượng tướng hưu tù, dựa theo tứ quý mà
định. Tương
lai giả tiến, tức vượng tướng; tiến mà đương lệnh nắm quyền tức vượng
cực; sau
khi khí vượng cực tức hưu; thoái mãi vô khí tức tù. Cho nên, cần biện rỏ
hưu tù
vượng tướng, biết được cái cơ tiến thoái vậy. Là nhật chủ, là dụng thần
tối cần
vượng tướng, chẳng nên hưu tù vô khí; là hung sát, là kỵ thần chẳng nên
vượng
tướng, mà nên hưu tù tử tuyệt. Như cái khí ban đầu hành vượng, khí vượng
vật
tất thịnh, vượng thịnh khí chậm thoái, tướng là phương hướng khí trường
sinh,
hành khí cấp mạnh mẽ vô cùng tận. Hưu quá tức tù khí, khí tù là cái khí
đã cực
vượng, nên khí sinh chậm; cư nơi phương vị thoái khí, đang tiềm ẩn chưa
hiển
lộ. Vì vậy luận khí tiến thoái là phương pháp luận chính mà học giả cần
phải
chú tâm vậy.
Giáp
mộc cực hưu tù, canh kim lộc vượng chắc can giáp mộc, can năm đinh hỏa
khả dĩ
chế sát hộ thân, tối hiềm thìn tuất hai chi tài sinh sát khắc thân, mệnh
cục
tựa chừng như sát trọng thân khinh, người thường không biết rằng giáp
mộc sinh
tháng 3 khí đang tiến, nhâm thủy cùng với thân kim tương sinh nhật chủ,
bất thương
đinh hỏa. Đinh hỏa tuy nhược nhưng thộng căn tuất thổ, thìn thuộc thấp
thổ, mộc
thuộc dư khí. Thiên can nhật chủ nhất sinh nhất chế, địa chi gặp trường
sinh,
tứ trụ sinh hóa hữu tình, ngũ hành bất tranh bất kị. hạn hành đinh hỏa
vận khoa
giáp liên đăng, dụng thần hỏa chế sát quá tỏ rỏ.
kính thưa các
Chú, Bác trên diễn đàn. vì do dịch sai ý nên vnn1269 xin sửa lại đoạn
sau ở Chương
4: TRI MỆNH.
Người
học
mệnh không hiểu biết, không nghiên cứu căn nguyên cho tường tận, chuyên
lấy tài
quan làm trọng, mà không biết rắng:”dụng thần tài tinh có thể dụng kiếp,
dụng
thần quan tinh có thể dụng thương quan, dụng thần ấn tinh có thể dụng
tài, dụng
thần thương thực có thể dụng kiêu”.
xin sửa
lại là:
Người
học
mệnh không hiểu biết, không nghiên cứu căn nguyên cho tường tận, chuyên
lấy tài
quan làm trọng, mà không biết rắng:”chẳng dụng tài tinh có thể dụng
kiếp, chẳng
dụng quan tinh có thể dụng thương quan, chẳng dụng ấn tinh có thể dụng
tài,
chẳng dụng thương thực có thể dụng kiêu”.
Cũng
như cách tạo mệnh trên có khác đôi chút nhưng không lớn. Người thường
luận”giáp
là anh trai của ất, ất lấy canh làm chồng, biến hung thành cát”, tham
hợp quên
xung, tức canh kim làm cách cục tốt đẹp, văn Chương quý hiển, cớ sao
mệnh gặp
cơ hàn? Do không biết rằng ất canh hợp hóa kim trở lại phù trợ khắc
thần.
Trên nhật chủ giáp thìn(tức mệnh của họ Viên trên-ND), thìn thuộc thấp
thổ có
thể sinh mộc, còn mệnh này nhật chủ giáp tuất, tuất thuộc táo thổ không
thể
sinh giáp mộc; trên thân thìn củng hóa, còn tạo mệnh dưới thân tuất bán
hội kim
cục sinh sát khắc thân. Trên giáp mộc đang tiến khí, tức canh kim thoái
khí,
còn dưới canh kim tiến khí, giáp mộc thoái khí. Chọn lấy hai cách tạo
mệnh trên
, cách cục tự nhiên, cái cơ tiến thoái, không thể không biết vậy.
Lời người dịch:
Ở
Chương tri mệnh này, thánh nhân muốn nói đến cái dụng của tạo mệnh.
Con người sống giửa trời đất, không hiểu mệnh như người lạc lối không
phương
hướng, hiểu biết và vận dụng được nó không những có thể giúp cho mình
sang suốt
không lầm lạc mà còn giúp cho mọi người hay cho cả thiên hạ thoát khỏi
mông
muội vậy. Đồng thời người cũng nhấn mạnh đến cái lý tiến thoái của âm
dương ngũ
hành, tiến tức sinh vượng, thoái tức hưu tù. Thế cho nên,” Lý thừa hành
khởi
hữu thường, tiến hề thoái hề nghi ức dương” vậy.
__________________ Cố ý nài hoa hoa chẳng chịu
Vô tình ép liễu liễu ok!
Đã tham gia: 17 May 2010 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 331
Msg 7 of 20: Đã gửi: 17 May 2010 lúc 10:57pm | Đã lưu IP
Chương
6:
Phối Hợp
Phối hợp chi cơ tử tế tường, đinh
nhân phúc họa dữ tai
tường
Nguyên
chú: thiên can địa chi, tương vi phối hợp, tử tế suy tường kỳ tiến thoái
chi
cơ, tắc khả dĩ đoán nhân chi họa phúc tai tường hĩ.
Dịch
nghĩa:
Thiên can địa chi tương phối tương hợp, người học mệnh cần phải tế tâm
suy tường cái cơ tiến thoái, mà có thể đoán định được họa phúc tai ương
vậy.
Nhâm
thị viết: thử Chương nãi tích chi mậu chi yếu lĩnh dã. Phối hợp can chi,
tất tu
chính lý sưu tầm tường suy, dữ suy vượng hỉ kỵ chi lý, bất khả tương tứ
trụ can
chi phất luận, chuyên tòng kỳ cách, dị cục, thần sát đẳng loại vọng đàm,
dĩ trí
họa phúc vô bằng, cát hung bất nghiệm. Mệnh trung chí lý, chích tồn dụng
thần,
bất câu tài , quan, ấn thụ, bỉ kiếp, thực thương, kiêu kiếp, giai khả vi
dụng,
vật dĩ danh chi mỹ giả vi giai, ác giả vi tăng. Quả năng thẩm nhật chủ
chi suy
vượng, dụng thần chi hỉ kị, đương ức tắc ức, đương phù tắc phù, sở vị
khứ lưu
thư phối, thủ tài xác đương, tắc vận đồ phủ thái, hiển nhiên minh bạch,
họa
phúc tai tường, vô bất nghiệm hĩ.
Thử
tạo dĩ luận tục chi, can thấu tam kỳ chi mỹ, chi phùng củng quý chi
vinh, thả
hữu hội cục bất trùng, quan tinh đắc dụng, chủ danh lợi song thu. Nhiên
canh
thân sinh vu quý xuân, thủy bản hưu tù, nguyên khả dụng quan, hiềm kỳ
chi hội
thủy cục, tắc khảm tăng kỳ thế, nhi ly thất kỳ uy, quan tinh tất thương,
bất
túc vi dụng. dục dĩ cường chúng địch quả nhi dụng nhâm thủy, canh hiềm
tam kỳ
thấu mậu, kiêu thâm đoạt thực, diệc nan tác dụng. giáp mộc chi tài, bản
khả tá
dụng, sơ thổ vệ thủy, tiết thương sinh quan, tự hồ hữu tình, bất tri
giáp mộc
thoái khí, mậu thổ đương quyền, nan dĩ sơ thông. Túng dụng giáp mộc,
diệc thị
giả thần, bất quá dong lục chi nhân. Huống vận tẩu tây nam giáp mộc hưu
tù chi
địa, tuy hữu tổ nghiệp, diệc nhất bại nhi tẫn, thả bất miễn hình thê
khắc tử,
cô khổ bất kham. Dĩ tam kỳ củng quý đẳng cách luận mệnh, nhi bất khán
dụng thần
giả, giai hư mậu nhĩ.
Thử
sơ tạo khán, nhất vô khả thủ, thiên can nhâm bính nhất khắc, địa chi tý
ngọ
diêu trùng, thả hàn mộc hỉ dương, chính ngọ thủy thế phiếm lạm, hỏa khí
khắc
tuyệt, tự hồ sdanh lợi vô thành. Dư tế thôi chi, tam thủy nhị thổ nhị
hỏa, thủy
thế tuy vượng, hỉ vô kim; hỏa bản hưu tù, hỉ hữu thổ vệ, vị nhân năng
cứu mẫu;
huong61 thiên can nhâm thủy sinh ất mộc, bính hỏasinh kỷ thổ, các lập
môn hộ,
tương xinh hữu tình, tất vô tranh vô khắc chi ý. Địa chi tuy bắc phương,
nhiên
hỉ kỷ thổ nguyên thầmn thấu xuất, thông căn lộc vượng, hổ tương tư hộ,
kỳ thế
túc dĩ chỉ thủy vệ hỏa, chính vị hữu bệnh đắc dược. thả nhất dương hậu
vạn vật
hoài thai, mộc hỏa tiến khí, dĩ thương quan tú khí vi dụng. trung niên
vận tẩu
đông nam, dụng thần sinh vượng, tất thị giáp đệ trung nhân. Giao dần,
hỏa sinh
mộc vượng,vận đăng giáp bản, nhập hàn uyển, thị dĩ thanh vân trực
thượng. do
thử lưởng tạo quan chi, phối hợp can chi chi lý, kỳ khả hốt hồ?
Dịch
nghĩa:
Nhâm thị viết: Chương này cốt làm sáng tỏ những sai lầm ngụy tạo. Phối
hợp
can chi, cần sưu tầm nghiệm suy chính lý, cùng vượng suy hỉ kị của ngũ
hành,
không thể không luận can chi tứ trụ, chuyên lấy kỳ cách dị cục, thần sát
các
loậi mà vọng đàm, mới biết họa phúc lấy chi làm bằng cớ, cát hung không
nghiệm.
cái lý của mệnh, tồn đọng ở dụng thần, chẳng nên phân biệt câu nệ tài,
quan, ấn thụ, kiêu kiếp, thương thực, mà điều có thể làm dụng thần, cho
rằng
đẹp thì tốt cát lợi, ác tức xấu, tăng đạo. Nên cần nhất xem xét nhật chủ
cường
vượng, dụng thần hỉ kị, cần đè nén, ức chế thì đè nén ức chế, cần sinh
phù thì
sinh phù, do cái sự phối hợp qua lại mà xác định nên bỏ hay nên lấy, từ
đó biết
được vận đồ bỉ thái, họa phúc tai ương, chẳng không ứng nghiệm vậy.
Luận
theo thói
thường, thiên can thấu tam kỳ thì cát, địa chi quý nhân củng hợp là
vinh, vả
lại, thân tý thìn tam hợp hội cục không gặp xung, quan tinh đắc dụng,
chủ danh
lợi song toàn. Tuy nhiên canh kim sinh vào trọng xuân, thủy vốn hưu tù,
nguyên
có thể lấy quan tinh làm dụng thần, hiềm vì chi hội thủy cục, tất khảm
thủy khí
thế cường vượng, tức ly hỏa khí thế suy nhược, quan tinh thụ thương,
không thể
dùng làm dụng thần được. muốn lấy nhâm thủy vượng cực đối địch khắc
thần, chỉ
hiềm canh kim đắc tam kỳ thấu mậu, kiêu vượng đoạt thực, cũng không thể
lấy làm
dụng thần. giáp mộc tài tinh vốn có thể phù trợ dụng thần, làm thông thổ
bảo vệ
thủy, tiết thương sinh quan, tứ trụ dường như hữu tình, mà không biết
rằng giáp
mộc thoái khí, mậu thổ đưong quyền, không thể thông thổ. Lấy giáp mộc
làm dụng
thần, cũng là giả dụng thần, chẳng qua cũng chỉ là người bình thường mà
thôi.
Huống chi đại vận hành phương tây nam, giáp mộc ở đất hưu tù, tuy được
của cải
tổ nghiệp truyền lại, cũng bằng không, còn hình thê khắc tử, cô khổ bần
hàn.
Lấy cách tam kỳ củng quý nhân luận mệnh, chẳng xem dụng thần sinh vượng,
thật hư ngụy quá lắm.
Thiên
can nhâm
thủy khắc bính hỏa, địa chi tý thủy xung khắc ngọ hỏa, hàn mộc hỉ dương,
chính
ngọ hỏa thủy thế vượng thịnh, tất hỏa khí bị khắc tuyệt, tựa hồ danh lợi
không
thành. Ta suy nghĩ, ba thủy hai thổ hai hỏa, thủy thế tuy vượng, không
có
nguồn; hỏa vốn hưu tù cần thổ bảo vệ che chở, nhân đó mà dược cứu; huống
chi
thiên can nhâm thủy sinh ất mộc, bính hỏa sinh kỷ thổ, đều lập nên môn
hộ,
tương sinh hữu tình, không có cái ý tương tranh tương khắc. Địa chi tuy
cư bắc
phương, nhưng hỉ kỷ thổ nguyên thần thấu xuất, thông căn lộc vượng, hổ
tương
che chở giúp đở, cần nên ngăn thủy bảo vệ hỏa, chính là có bệnh mà được
cứu
vậy. Với lại khí nhất dương vạn vật bắt đầu sinh sôi, mộc hỏa tiến khí,
do đó
thương quan dụng thần tú khí. Trung niên vận tẩu đông nam, dụng thần
sinh
vượng, tuổi trung niên thi đậu. Giao vận dần, hỏa sinh mộc vựơng, đăng
khoa
giáp bản, nhập cung vua, thanh vân đắc lộ vận trình tiến tới. Từ hai
cách tạo
mệnh trên cho thấy, phối hợp can chi có lý, có thể xem xét qua loa được
ư?
__________________ Cố ý nài hoa hoa chẳng chịu
Vô tình ép liễu liễu ok!
Đã tham gia: 17 May 2010 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 331
Msg 8 of 20: Đã gửi: 17 May 2010 lúc 10:59pm | Đã lưu IP
Chương 7:
Thiên Can
Ngũ dương giai dương bính vi tối,
ngũ âm giai âm quý vi
chí
Nguyên
chú: giáp, bính, mậu, canh, nhâm vi dương, độc bính hỏa bỉnh dương chi
tinh,
nhi vi dương trung chi dương; ất, đinh, kỷ, tân, quý vi âm, độc quý thủy
bỉnh
âm chi tinh, nhi vi âm trung chi âm.
Dịch
nghĩa:
Giáp, bính, mậu, canh, nhâm thuộc dương, duy chỉ bính hỏa mang khí
thuần
dương, dương trong dương; ất, đinh, kỷ, tân, quý thuộc âm, duy chỉ quý
thủy
mang khí thuần âm, âm trong âm.
Nhâm thị viết:
bính nãi thuần dương chi hỏa, vạn vật mạc bất do thử nhi phát, đắc thử
nhi
liễm; quý nãi thuần âm chi thủy, vạn vật mạc bất đắcdo thử nhi sinh, đắc
thử
nhi mậu.
Dương cực tắc
âm sinh, cố bính tân hóa thủy; âm cực tắc âm sinh, cố mậu quý hóa hỏa.
âm dương
tương tể, vạn vật hữu sinh sinh chi diệu. Phu thập can chi khí, dĩ tiên
thiên
ngôn chi, cố nhất nguyên đồng xuất, dĩ hậu thiên ngôn chi, diệc nhất khí
tương
bao. Giáp ất nhất mộc dã, bính đinh nhất hỏa dã, mậu kỷ nhất thổ dã,
canh tân
nhất kim dã, nhâm quý nhất thủy dã, tức phân biệt sở dụng, bất quá dương
cương
âm nhu, dương kiện ạm thuận nhi dĩ. Thiết quái mệnh gia tác ca vi phú,
bỉ nghĩ
thất luận, cánh dĩ giáp mộc vi lương đống, ất mộc vi hoa quả; bính tác
thái
dương, đinh tác đăng chúc; mậu tác thành tường, kỷ tác điền viên; canh
vi ngoan
thiết, tân tác châu ngọc; nhâm vi giang hà, quý nhi vũ lộ. tương duyên
dĩ
cửu, lao bất khả phá, dụng chi luận mệnh, thành đại mậu dã. như vị giáp
vi vô
căn tử mộc, ất vị hữu căn hoạt mộc, đồng thị mộc nhi phân sinh , khởi
dương mộc
độc bẩm tử khí, âm mộc độc bẩm sinh khí hồ? luận đoán chư can, như thử
chi
loại, bất nhất nhi túc, đương tẫn tị chi, dĩ tuyệt tương lai chi mậu.
Dịch
nghĩa:
Bính thuộc hỏa khí thuần dương, vạn vật không thứ nào mà chẳng do nó mà
phát triển, thu liễm; quý thuộc thủy khí thuần âm, vạn vật không thứ nào
mà
chẳng do nó mà sinh ra, tươi tốt. Dương cực thì âm sinh, do vậy bính tân
hợp
hóa thủy; âm cực thì dương sinh, do vậy mậu quý hợp hóa hỏa. Âm dương
tương
giao, vạn vật khéo sinh sôi vậy. Đến như khí của mười can, theo tiên
thiên mà
nói thì khí đó đồng nhất khí (tức là do âm dương nhị khí sinh ra
vậy-ND), theo
hậu thiên mà luận thì khí đó cũng do hai khí tương hợp nhau mà thành.
Giáp ất
thuộc mộc, bính đinh thuộc hỏa, mậu kỷ thuộc thổ, canh tân thuộc kim,
nhâm quý
thuộc thủy cũng do phân biệt thể dụng mà ra, nhưng cũng không ngoài cái
khí âm
nhu thuận, cái dương khí cương kiện đó. Các mệnh gia nông cạn, làm ra
các
bài phú tạo mệnh, với cách nghĩ sai lệch, cho rằng giáp mộc làm lương
đóng, ất
mộc làm hoa quả; bính hỏa thuộc thái dương, đinh hỏa thuộc đèn đuốc; mậu
thổ
làm thành quách, kỷ thổ tức điền viên; canh kim thuộc sắt cứng, tận kim
thuộc
châu ngọc; nhâm thủy thuộc sông ngòi, quý thủy thuộc mưa móc. Luận theo
đó đã
lâu, bền chắc không thể phá được. Ví như giáp dương mộc không gốc rể gọi
là tử
mộc, ất âm mộc có gốc rể gọi là hoạt mộc, cũng đồng một thứ mộc mà phân
ra sinh
tử, chẳng là dương mộc chỉ thụ khí tử tuyệt, còn âm mộc chỉ độc thụ khí
sinh
vượng hay sao? Luận đoán thiên can các loại thiếu sót, bất nhất,xa vời
thực tế
như thế, làm sai lầm cho người sau vậy.
Ngũ dương tòng khí bất
tòng thế, ngũ âm tòng thế vô tình
nghĩa
Nguyên
chú: ngũ dương đắc dương chi khí, tức năng thành hồ dương cương chi thế,
bất úy
tài sát chi thế; ngũ âm đắc âm chi thế, tức năng thành hồ âm thuận chi
nghĩa,
cố mộc thịnh tất tòng mộc, hỏa thịnh tất tòng hỏa, thổ thịnh tất tòng
thổ, kim
thịnh tất tòng kim, thủy thịnh tất tòng thủy. vu tình nghĩa chi sở tại
giả,
kiến kỳ thế suy, tất kị chi hĩ, cái phụ nhân chi tình dã. như thử, nhược
đắc
khí thuận lý chính giả, diệc vị tất tòng thế nhi vong nghĩa, tuy tòng
diệc tất
chính hĩ.
Dịch
nghĩa:
Ngũ dương do thụ cái khí dương, mà thành thế dương cương, chẳng sợ tài
sát; ngũ âm do thụ cái khí âm, mà thành thế âm thuận, thế cho nên mộc
thịnh thì
tòng mộc, hỏa thịnh thì tòng hỏa, thổ thịnh thì tòng thổ, kim thịnh thì
tòng
kim, thủy thịnh thì tòng thủy. Do theo tình nghĩa mà nương náu, gặp thế
suy yếu
thời hung kị, như người con gái theo chồng vậy. Thế cho nên, khi đặng
cái khí
thuận chính, mà tòng thế bỏ nghĩa, tuy tòng nhưng cũng thuận chính đó.
Nhâm
thị viết: ngũ dương khí tỵ, quang hanh chi tượng dịch quan; ngũ âm khí
hấp, bao
hàm chi uẩn nan trắc. ngũ dương chi tính cương kiện, cố bất úy tài sát
nhi hữu
trắc ẩn chi tâm, kỳ xử thế bất cẩu thả; ngũ ạm nhi tính nhu thuận, cố
kiến thế
vong nghĩa, nhi hữu bỉ lận chi tâm, kỳ xử thế đa kiêu siểm. thị dĩ nhu
năng
khắc chế cương, cương bất năng chế khắc nhu dã. đại để xu lợi vong nghĩa
chi đồ;
giai âm khí chi vi lệ dã; hào hiệp khẳng khái chi nhân, giai dương khí
chi độc
chung. Nhiên thượng hữu dương trung chi âm, âm trung chi dương, hựu hữu
dương
ngoậi âm nội, âm ngoại dương nội, diệc đương biện chi. Dương trung chi
âm,
ngoại nhân nghĩa nhi nội gian trá; âm trung chi dương, ngoại âm hiển nhi
nội
nhân từ; dương ngoại âm nội giả, bao tàng họa tâm; âm ngoại dương nội
giả
bỉnh trì trực đạo. thử nhân phẩm chi đoan tà? Cố bất khả dĩ bất biện.
yếu tại
khí thế thuận chính, tứ trụ ngũ hành đình quân, thứ bất thiên ỷ, tự vô
tổn nhân
lợi kỷ chi tâm. Phàm trì thân thiệp thề chi đạo, xu tỵ tất tiên tri
nhân, cố
vân”trạch kỳ thiện giả nhi tòng chi”, tức thử ý dã.
Dịch nghĩa:
Ngũ dương khí tán, có cái tượng sáng sủa hanh thông; ngũ âm khí
hợp,
bao hàm ẩn dấu khó lường. Khí ngũ dương tính cương kiện, chẳng sợ tài
sát
nên có lóng trắc ẩn, xử thế không cẩu thả; khí ngũ âm tính nhu thuận,
theo lợi
quên nghĩa, nên có cái lòng bỉ lận, xử thế nhiều kiêu căng nịnh nọt. Cái
khí âm
nhu này có thể khắc chế cái khí dương cương, chứ cái khí dương cương đó
không
thể khắc chế cái khí âm nhu được. Nói chung lệ là: “âm khí là hạng
người
thấy lợi quên nghĩa; còn dương khí là hạng người hào hiệp khẳng khái”.
Như trên
trong dương có âm, trong âm có dương, lại có ngoài dương mà trong âm,
ngoài âm
mà trong dương, theo đó mà luận bàn. Như ngoài thì dương mà bên trong
thì âm
tức hạng người ngoài thì nhân nghĩa mà lòng thì gian trá, tất có cái họa
ần
chứa bên trong; còn ngoài thì âm nhu mà trong thì dương cương tức hạng
người
ngoài thì trông có vẻ gian trá nhưng lòng thì nhân nghĩa bao dung cương
trực.
Cứ theo đó chẳng lẻ nào mà không biết được nhân phẩm đoan chính hay gian
tà
sao? Cho nên không thể không biện biệt cho tường tận vậy. Thiết yếu tại
khí thế thuận chính, tứ trụ ngũ hành bình hòa, không nên thiên lệch
không có
chổ nương tựa, không làm lợi mình hại người. Phàm con người muốn giử
được cái
đạo thiệp thế, xu cát tỵ hung trước hết phải biết người, xưa có câu”nên
phân
biệt được cái thiện để mà theo”, là như vậy đó.
Giáp mộc sâm thiên, thoát thai yếu
hỏa. xuân bất dung
kim, thu bất dung thổ. Hỏa sí thừa long, thủy đãng kị hổ. Địa nhuận
thiên hòa,
thực lập thiên cổ.
Nguyên
chú: thuần dương chi mộc, tham thiên hùng tráng. Hỏa giả mộc chi tử dã,
vượng
mộc đắc hỏa nhi dũ phu vinh. Sinh vu xuân tắc khi kim, nhi bất năng dung
kim
dã; sinh vu thu tắc trợ kim, nhi bất năng dung thổ dã. dần ngọ tuất,
bính đinh
đa kiến nhi tọa thìn, tắc năng quy; thân tý thìn, nhâm quý đa kiến nhi
tọa dần,
tắc năng nạp. Sử thổ khí bất can, thủy khí bất tiêu, tắc năng trường
sinh hĩ.
Dịch
nghĩa:
Giáp vốn là mộc thuần dương, [trên trời thuộc địa phận sao Sâm] khí thế
rất ư hùng tráng. Hỏa nhiều mộc bị chết cháy, vượng mộc mà đắc hỏa càng
phú quý
trọn đầy. Sinh vào mùa xuân mộc vượng kim suy mà không thể dung kim
được; sinh
vào mùa thu mộc suy kim vượng đi trợ kim không thể dung thổ được. Thấy
dần ngọ
tuất, bính đinh nhiều nhật chủ tọa chi thìn thổ có thể quy về; thấy thân
tý
thìn, nhâm quý nhiều nhật chủ tọa dần có thể thu nạp. Gía khiến không có
thiên
can khí thổ, cái thủy khí không nơi nào tiêu đi, tức năng trường sinh
vậy.
Nhâm
thị viết: giáp vi thuần dương chi mộc, thể bản kiên cố, tham thiên chi
thế, hựu
cực hùng tráng. Sinh vu xuân sơ, mộc nộn khí hàn, đắc hỏa nhi phát vinh;
sinh
vu trọng xuân, vượng cực chi thế, nghi tiết kỳ tinh anh. Sở vị cường mộc
đắc
hỏa, phương hóa kỳ ngoan. Khắc chi giả kim, nhiên kim chúc hưu tù, dĩ
suy kim
nhi khắc vượng mộc, mộc kiên kim khuyết, thế sở tất nhiên, cố xuân bất
dung kim
dã. sinh vu thu, thất thời tựu suy, đãn chi diệp tuy điêu lạc tiệm hi,
căn khí
khước thu liễm hạ đạt, thụ khắc giả thổ. thu thổ sinh kim tiết khí, tối
vi hư
bạc. dĩ hư khí chi thổ, ngộ hạ công chi mộc, bất năng hồi mộc chi căn,
tất phản
tao kỳ khuynh hãm, cố thu bất dung thổ dã. trụ trung dần ngọ tuất tòan,
hựu
thấu bính đinh, bất duy tiết khí thái quá, nhi mộc thả bị phần, nghi tọa
thìn,
thìn vi thủy khố, kỳ thổ thấp, thấp thổ năng sinh mộc tiết hỏa, sở v ị
hỏa khí
thừa long dã. thân tý thìn toàn hựu thấu nhâm quý, thủy phiếm mộc phù,
nghi tọa
dần, dần nãi hỏa thổ sinh địa, mộc chi lộc vượng, năng nạp thủy khí, bất
trí
phù phiếm, sở vị thủy đãng kị hổi dã. như quả kim bất duệ, thổ bất táo,
hoả bất
liệt, thủy bất cuồng, phi thực lập thiên cổ nhi đắc trường sinh giả tai!
Dịch nghĩa:
Giáp mộc thuộc khí thuần dương, thế vốn kiên cố, [ trên trời thuộc
địa phận sao Sâm] khí thế rất hùng tráng. Sinh vào tháng sơ xuân (tháng
dần-ND), khí mộc còn non yếu hàn lạnh, đắc hỏa mà phát quý; sinh vào
tháng
trọng xuân (tháng mão-ND), mộc khí vượng cực, cần nên tiết khí vượng đắc
dụng.
Sở dĩ mộc vượng đắc hỏa, mà kim trở nên cứng dòn. Kim khí hưu tù khắc
mộc sinh
vượng, mộc cứng kim bị khuyết, lý lẻ đương nhiên là thế, cho nên mới nói
mộc
mùa xuân không dung kim được vậy. Sinh vào mùa thu, giáp mộc khí suy,
cành khô lá rụng, nguyên khí thu tàng thông suốt, mà khắc chế được thổ
khí. Thổ
mùa thu sinh kim tiết khí nhiều nên rất bạc nhược. do cái thổ khí hư
nhược mà
còn bị khí mộc ở dưới công phá, chẳng những không thể tài bồi cho khí
mộc suy
được, mà còn trở lại che lấp cái mộc khí suy đó nữa, cho nên giáp mộc
mùa thu
không thể dung thổ vậy. trong trụ dần ngọ tuất đầy đủ, trên can lại thấu
bính
đinh, chẳng là do mộc tiết khí thái quá, nên mộc bị cháy khô, như nhật
chủ tọa
thìn, thìn thuộc thủy khố, khí thuộc thấp thổ, mà có khả năng sinh mộc
tiết khí
hỏa vượng nên mộc được cứu, thế nên hỏa khí thừa long là vậy. thân tý
thìn đầy
đủ trên can lại thấu nhâm quý, thủy nhiều mộc bị trôi dạt, như nhật chủ
tọa dần,
địa chi dần tàng chứa can hỏa thổ là đất trường sinh, giáp lộc tại dần,
nên có
thể dung nạp được thủy dư, mà mộc không còn phù phiếm nữa, thế nên thủy
đãng kị
hổ là vậy. ví như kim không bén nhọn, thổ không khô cứng, hỏa không mãnh
liệt,
thủy không cuồng thịnh, thì cái vốn có nghìn năm không thể lâu dài được!
ất mộc tuy nhu, khuê dương giải
ngưu. Hoài đinh bão bính,
khóa phượng thừa hầu. hư thấp chi địa, kị mã diệc ưu. Đằng la hệ giáp,
khả xuân
khả thu.
Nguyên
chú: ất mộc giả, sinh vu xuân như đào lí, hạ như hòa giá, thu như đồng
quế,
đông như kỳ ba. Tọa sửu mùi năng chế nhu thổ, như cát tể dương, giải cát
ngưu
nhiên, chích yếu hữu nhất bính đinh, tắc tuy sinh thân dậu nguyệt, diệc
bất vị
chi; sinh vu tý nguyệt, nhi hựu nhâm quý phát thấu giả, tắc tuy tọa ngọ,
diệc
năng phát sinh. Cố ích tri tọa sửu mùi nguyệt tri vi mỹ. Giáp dữ dần tự
đa
kiến, đệ tòng huynh nghĩa, thí chi đằng la phụ kiều mộc, bất úy chước
phạt dã.
Dịch
nghĩa:
Can ất thuộc mộc, sinh vào mùa thu như đào lý, mùa hạ như lúa mạ, mùa
thu như cây đồng cây quế, mùa đông như hoa thơm cỏ lạ. Tọa sửu mùi có
thể chế
khắc nhu thổ, dể như giết dê mổ trâu, chủ yếu là có can bính đinh, tức
tuy sinh
vào tháng thân dậu, cũng chẳng lo chi; sinh vào tháng tý mà trên can lại
thấu
xuất nhâm quý thủy, mặc dù nhật chủ tọa ngọ cũng không có thể phát sinh
được.
Cho nên biết rằng tọa tháng sửu mùi thật là tốt đẹp vậy. Can giáp cùng
chi dần
xuất hiện nhiều trong trụ, thuận tòng theo huynh đệ, lấy dây cột vào
cây
cầu mà làm thí dụ, chẳng sợ bị chặt vậy.
Nhâm
thị viết: ất mộc giả, giáp chi chất, nhi thừa giáp chi sinh khí dã. xuân
như
đào lí, kim khắc tắc điêu; hạ như hòa gia, thủy tư đắc sinh; thu như
đồng quế,
kim vượng hỏa chế; đông như kỳ ba, hỏa thấp thổ bồi. Sinh vu xuân nghi
hỏa giả,
hỉ kỳ phát vinh dã; sinh vu hạ nghi thủy giả, nhuận địa chi táo dã; sinh
vu thu
nghi hỏa giả, sử kì khắc kim dã; sinh vu đông nghi hỏa giả, giải thiên
chi đống
dả. cát dương giải ngưu giả, sinh vu sửu mùi nguyệt, hoặc ất mùi ất sửu
nhật,
mùi nãi mộc khố, đắc dĩ bàn căn, sửu nãi thấp thổ, khả dĩ thụ khí dã.
hoài đinh
bão bính, khóa phượng thừa hầu giả, sinh vu thân dậu nguyệt, hoặc ất dậu
nhật,
đắc bính đinh thấu xuất thiên can, hữu thủy bất tương tranh khắc, chế
hóa đắc
nghi, bất úy kim cường. hư thấp chi địa, kị mã diệc ưu giả, sinh vu hợi
tý
nguyệt, tứ trụ vô bính đinh, hựu vô tuất mùi táo thổ, tức sử niên chi
hữu ngọ,
diệc nan phát sinh dã. thiên can thâu giáp, điậ chi dần tàng, thử vị
thiên la
hệ tùng bách, xuân cố đắc trợ, thu diệc hợp phù, cố khả xuân khả thu,
ngôn tứ
quý giai khả dã.
Dịch
nghĩa:
Can ất thuộc mộc, là chất của giáp, do khí của giáp mà thành. Mùa xuân
như đào lý, gặp kim được điêu khắc; mùa hạ như lúa mạ, gặp thủy tức được
sinh;
mùa thu như cây đồng cây quế, kim vượng được hỏa chế mộc được cứu; mùa
đông như
hoa thơm cỏ lạ, hỏa thấp thổ bồi. Sinh vào mùa xuân gặp hỏa, tức phát
quý vinh;
sinh vào mùa hạ gặp thủy, đất được tươi nhuận khô ráo; sinh vào mùa thu
gặp
hỏa, khiến hỏa chế khắc kim khí mà không khắc mộc; sinh vào mùa đông gặp
hỏa,
giải bớt khí hàn lạnh. Cát dương giải ngưu, sinh vào tháng sửu mùi
(tháng 12,
6-ND), hoặc ngày ất sửu ất mùi, mùi thuộc mộc khố, ất mộc có gốc, sửu
thuộc
thấp thổ, có thể nuôi dưỡng khí mộc. Hoài đinh bão bính, khóa phượng
thừa hầu,
như sinh vào tháng thân dậu(tháng 7, 8-ND), hoặc ngày ất dậu, mà trên
can thấu
xuất bính đinh, có thủy cũng không tương tranh, chế khắc đắc nghi, chẳng
sợ kim
cứng. Hư thấp chi địa, kị mã diệc ưu, như sinh vào tháng hợi tý(tháng
10,
11-ND), tứ trụ không bính đinh, lại chẳng có chi tuất mùi táo thổ, ngay
khiến như chi năm có chi ngọ, cũng không phát sinh được. Thiên can thấu
giáp,
địa chi tàng dần, gọi là mộc rừng cây tùng cây bách, mùa xuân được trợ
giúp,
mùa thu được hợp phù, cho nênnóixuân
thu không sợ, bốn mùa chẳng kiêng vậy.
Ngũ dương tòng khí bất
tòng thế, ngũ âm tòng thế vô tình
nghĩa
Nguyên
chú: ngũ dương đắc dương chi khí, tức năng thành hồ dương cương chi thế,
bất úy
tài sát chi thế; ngũ âm đắc âm chi thế, tức năng thành hồ âm thuận chi
nghĩa,
cố mộc thịnh tất tòng mộc, hỏa thịnh tất tòng hỏa, thổ thịnh tất tòng
thổ, kim
thịnh tất tòng kim, thủy thịnh tất tòng thủy. vu tình nghĩa chi sở tại
giả,
kiến kỳ thế suy, tất kị chi hĩ, cái phụ nhân chi tình dã. như thử, nhược
đắc
khí thuận lý chính giả, diệc vị tất tòng thế nhi vong nghĩa, tuy tòng
diệc tất
chính hĩ.
Dịch
nghĩa:
Ngũ dương do thụ cái khí dương, mà thành thế dương cương, chẳng sợ tài
sát; ngũ âm do thụ cái khí âm, mà thành thế âm thuận, thế cho nên mộc
thịnh thì
tòng mộc, hỏa thịnh thì tòng hỏa, thổ thịnh thì tòng thổ, kim thịnh thì
tòng
kim, thủy thịnh thì tòng thủy. Do theo tình nghĩa mà nương náu, gặp thế
suy yếu
thời hung kị, như người con gái theo chồng vậy. Thế cho nên, khi đặng
cái khí
thuận chính, mà tòng thế bỏ nghĩa, tuy tòng nhưng cũng thuận chính đó.
Nhâm
thị viết: ngũ dương khí tỵ, quang hanh chi tượng dịch quan; ngũ âm khí
hấp, bao
hàm chi uẩn nan trắc. ngũ dương chi tính cương kiện, cố bất úy tài sát
nhi hữu
trắc ẩn chi tâm, kỳ xử thế bất cẩu thả; ngũ ạm nhi tính nhu thuận, cố
kiến thế
vong nghĩa, nhi hữu bỉ lận chi tâm, kỳ xử thế đa kiêu siểm. thị dĩ nhu
năng
khắc chế cương, cương bất năng chế khắc nhu dã. đại để xu lợi vong nghĩa
chi
đồ; giai âm khí chi vi lệ dã; hào hiệp khẳng khái chi nhân, giai dương
khí chi
độc chung. Nhiên thượng hữu dương trung chi âm, âm trung chi dương, hựu
hữu
dương ngoậi âm nội, âm ngoại dương nội, diệc đương biện chi. Dương trung
chi
âm, ngoại nhân nghĩa nhi nội gian trá; âm trung chi dương, ngoại âm hiển
nhi
nội nhân từ; dương ngoại âm nội giả, bao tàng họa tâm; âm ngoại dương
nội
giả bỉnh trì trực đạo. thử nhân phẩm chi đoan tà? Cố bất khả dĩ bất
biện.
yếu tại khí thế thuận chính, tứ trụ ngũ hành đình quân, thứ bất thiên ỷ,
tự vô
tổn nhân lợi kỷ chi tâm. Phàm trì thân thiệp thề chi đạo, xu tỵ tất tiên
tri
nhân, cố vân”trạch kỳ thiện giả nhi tòng chi”, tức thử ý dã.
Dịch nghĩa:
Ngũ dương khí tán, có cái tượng sáng sủa hanh thông; ngũ âm khí
hợp,
bao hàm ẩn dấu khó lường. Khí ngũ dương tính cương kiện, chẳng sợ tài
sát
nên có lóng trắc ẩn, xử thế không cẩu thả; khí ngũ âm tính nhu thuận,
theo lợi
quên nghĩa, nên có cái lòng bỉ lận, xử thế nhiều kiêu căng nịnh nọt. Cái
khí âm
nhu này có thể khắc chế cái khí dương cương, chứ cái khí dương cương đó
không
thể khắc chế cái khí âm nhu được. Nói chung lệ là: “âm khí là hạng
người
thấy lợi quên nghĩa; còn dương khí là hạng người hào hiệp khẳng khái”.
Như trên
trong dương có âm, trong âm có dương, lại có ngoài dương mà trong âm,
ngoài âm
mà trong dương, theo đó mà luận bàn. Như ngoài thì dương mà bên trong
thì âm
tức hạng người ngoài thì nhân nghĩa mà lòng thì gian trá, tất có cái họa
ần
chứa bên trong; còn ngoài thì âm nhu mà trong thì dương cương tức hạng
người
ngoài thì trông có vẻ gian trá nhưng lòng thì nhân nghĩa bao dung cương
trực.
Cứ theo đó chẳng lẻ nào mà không biết được nhân phẩm đoan chính hay gian
tà
sao? Cho nên không thể không biện biệt cho tường tận vậy. Thiết yếu tại
khí thế thuận chính, tứ trụ ngũ hành bình hòa, không nên thiên lệch
không có
chổ nương tựa, không làm lợi mình hại người. Phàm con người muốn giử
được cái
đạo thiệp thế, xu cát tỵ hung trước hết phải biết người, xưa có câu”nên
phân
biệt được cái thiện để mà theo”, là như vậy đó.
Giáp mộc sâm thiên, thoát thai yếu
hỏa. xuân bất dung
kim, thu bất dung thổ. Hỏa sí thừa long, thủy đãng kị hổ. Địa nhuận
thiên hòa,
thực lập thiên cổ.
Nguyên
chú: thuần dương chi mộc, tham thiên hùng tráng. Hỏa giả mộc chi tử dã,
vượng
mộc đắc hỏa nhi dũ phu vinh. Sinh vu xuân tắc khi kim, nhi bất năng dung
kim
dã; sinh vu thu tắc trợ kim, nhi bất năng dung thổ dã. dần ngọ tuất,
bính đinh
đa kiến nhi tọa thìn, tắc năng quy; thân tý thìn, nhâm quý đa kiến nhi
tọa dần,
tắc năng nạp. Sử thổ khí bất can, thủy khí bất tiêu, tắc năng trường
sinh hĩ.
Dịch
nghĩa:
Giáp vốn là mộc thuần dương, [trên trời thuộc địa phận sao Sâm] khí thế
rất ư hùng tráng. Hỏa nhiều mộc bị chết cháy, vượng mộc mà đắc hỏa càng
phú quý
trọn đầy. Sinh vào mùa xuân mộc vượng kim suy mà không thể dung kim
được; sinh
vào mùa thu mộc suy kim vượng đi trợ kim không thể dung thổ được. Thấy
dần ngọ
tuất, bính đinh nhiều nhật chủ tọa chi thìn thổ có thể quy về; thấy thân
tý
thìn, nhâm quý nhiều nhật chủ tọa dần có thể thu nạp. Gía khiến không có
thiên
can khí thổ, cái thủy khí không nơi nào tiêu đi, tức năng trường sinh
vậy.
Nhâm
thị viết: giáp vi thuần dương chi mộc, thể bản kiên cố, tham thiên chi
thế, hựu
cực hùng tráng. Sinh vu xuân sơ, mộc nộn khí hàn, đắc hỏa nhi phát vinh;
sinh
vu trọng xuân, vượng cực chi thế, nghi tiết kỳ tinh anh. Sở vị cường mộc
đắc
hỏa, phương hóa kỳ ngoan. Khắc chi giả kim, nhiên kim chúc hưu tù, dĩ
suy kim
nhi khắc vượng mộc, mộc kiên kim khuyết, thế sở tất nhiên, cố xuân bất
dung kim
dã. sinh vu thu, thất thời tựu suy, đãn chi diệp tuy điêu lạc tiệm hi,
căn khí
khước thu liễm hạ đạt, thụ khắc giả thổ. thu thổ sinh kim tiết khí, tối
vi hư
bạc. dĩ hư khí chi thổ, ngộ hạ công chi mộc, bất năng hồi mộc chi căn,
tất phản
tao kỳ khuynh hãm, cố thu bất dung thổ dã. trụ trung dần ngọ tuất tòan,
hựu
thấu bính đinh, bất duy tiết khí thái quá, nhi mộc thả bị phần, nghi tọa
thìn,
thìn vi thủy khố, kỳ thổ thấp, thấp thổ năng sinh mộc tiết hỏa, sở v ị
hỏa khí
thừa long dã. thân tý thìn toàn hựu thấu nhâm quý, thủy phiếm mộc phù,
nghi tọa
dần, dần nãi hỏa thổ sinh địa, mộc chi lộc vượng, năng nạp thủy khí, bất
trí
phù phiếm, sở vị thủy đãng kị hổi dã. như quả kim bất duệ, thổ bất táo,
hoả bất
liệt, thủy bất cuồng, phi thực lập thiên cổ nhi đắc trường sinh giả tai!
Dịch nghĩa:
Giáp mộc thuộc khí thuần dương, thế vốn kiên cố, [ trên trời thuộc
địa phận sao Sâm] khí thế rất hùng tráng. Sinh vào tháng sơ xuân (tháng
dần-ND), khí mộc còn non yếu hàn lạnh, đắc hỏa mà phát quý; sinh vào
tháng
trọng xuân (tháng mão-ND), mộc khí vượng cực, cần nên tiết khí vượng đắc
dụng. Sở
dĩ mộc vượng đắc hỏa, mà kim trở nên cứng dòn. Kim khí hưu tù khắc mộc
sinh
vượng, mộc cứng kim bị khuyết, lý lẻ đương nhiên là thế, cho nên mới nói
mộc
mùa xuân không dung kim được vậy. Sinh vào mùa thu, giáp mộc khí suy,
cành khô lá rụng, nguyên khí thu tàng thông suốt, mà khắc chế được thổ
khí. Thổ
mùa thu sinh kim tiết khí nhiều nên rất bạc nhược. do cái thổ khí hư
nhược mà
còn bị khí mộc ở dưới công phá, chẳng những không thể tài bồi cho khí
mộc suy
được, mà còn trở lại che lấp cái mộc khí suy đó nữa, cho nên giáp mộc
mùa thu
không thể dung thổ vậy. trong trụ dần ngọ tuất đầy đủ, trên can lại thấu
bính
đinh, chẳng là do mộc tiết khí thái quá, nên mộc bị cháy khô, như nhật
chủ tọa
thìn, thìn thuộc thủy khố, khí thuộc thấp thổ, mà có khả năng sinh mộc
tiết khí
hỏa vượng nên mộc được cứu, thế nên hỏa khí thừa long là vậy. thân tý
thìn đầy
đủ trên can lại thấu nhâm quý, thủy nhiều mộc bị trôi dạt, như nhật chủ
tọa
dần, địa chi dần tàng chứa can hỏa thổ là đất trường sinh, giáp lộc tại
dần,
nên có thể dung nạp được thủy dư, mà mộc không còn phù phiếm nữa, thế
nên thủy
đãng kị hổ là vậy. ví như kim không bén nhọn, thổ không khô cứng, hỏa
không
mãnh liệt, thủy không cuồng thịnh, thì cái vốn có nghìn năm không thể
lâu dài
được!
ất mộc tuy nhu, khuê dương giải
ngưu. Hoài đinh bão bính,
khóa phượng thừa hầu. hư thấp chi địa, kị mã diệc ưu. Đằng la hệ giáp,
khả xuân
khả thu.
Nguyên
chú: ất mộc giả, sinh vu xuân như đào lí, hạ như hòa giá, thu như đồng
quế,
đông như kỳ ba. Tọa sửu mùi năng chế nhu thổ, như cát tể dương, giải cát
ngưu
nhiên, chích yếu hữu nhất bính đinh, tắc tuy sinh thân dậu nguyệt, diệc
bất vị
chi; sinh vu tý nguyệt, nhi hựu nhâm quý phát thấu giả, tắc tuy tọa ngọ,
diệc
năng phát sinh. Cố ích tri tọa sửu mùi nguyệt tri vi mỹ. Giáp dữ dần tự
đa
kiến, đệ tòng huynh nghĩa, thí chi đằng la phụ kiều mộc, bất úy chước
phạt dã.
Dịch
nghĩa:
Can ất thuộc mộc, sinh vào mùa thu như đào lý, mùa hạ như lúa mạ, mùa
thu như cây đồng cây quế, mùa đông như hoa thơm cỏ lạ. Tọa sửu mùi có
thể chế
khắc nhu thổ, dể như giết dê mổ trâu, chủ yếu là có can bính đinh, tức
tuy sinh
vào tháng thân dậu, cũng chẳng lo chi; sinh vào tháng tý mà trên can lại
thấu
xuất nhâm quý thủy, mặc dù nhật chủ tọa ngọ cũng không có thể phát sinh
được.
Cho nên biết rằng tọa tháng sửu mùi thật là tốt đẹp vậy. Can giáp cùng
chi dần
xuất hiện nhiều trong trụ, thuận tòng theo huynh đệ, lấy dây cột vào
cây
cầu mà làm thí dụ, chẳng sợ bị chặt vậy.
Nhâm
thị viết: ất mộc giả, giáp chi chất, nhi thừa giáp chi sinh khí dã. xuân
như
đào lí, kim khắc tắc điêu; hạ như hòa gia, thủy tư đắc sinh; thu như
đồng quế,
kim vượng hỏa chế; đông như kỳ ba, hỏa thấp thổ bồi. Sinh vu xuân nghi
hỏa giả,
hỉ kỳ phát vinh dã; sinh vu hạ nghi thủy giả, nhuận địa chi táo dã; sinh
vu thu
nghi hỏa giả, sử kì khắc kim dã; sinh vu đông nghi hỏa giả, giải thiên
chi đống
dả. cát dương giải ngưu giả, sinh vu sửu mùi nguyệt, hoặc ất mùi ất sửu
nhật,
mùi nãi mộc khố, đắc dĩ bàn căn, sửu nãi thấp thổ, khả dĩ thụ khí dã.
hoài đinh
bão bính, khóa phượng thừa hầu giả, sinh vu thân dậu nguyệt, hoặc ất dậu
nhật,
đắc bính đinh thấu xuất thiên can, hữu thủy bất tương tranh khắc, chế
hóa đắc
nghi, bất úy kim cường. hư thấp chi địa, kị mã diệc ưu giả, sinh vu hợi
tý
nguyệt, tứ trụ vô bính đinh, hựu vô tuất mùi táo thổ, tức sử niên chi
hữu ngọ,
diệc nan phát sinh dã. thiên can thâu giáp, điậ chi dần tàng, thử vị
thiên la
hệ tùng bách, xuân cố đắc trợ, thu diệc hợp phù, cố khả xuân khả thu,
ngôn tứ
quý giai khả dã.
Dịch
nghĩa:
Can ất thuộc mộc, là chất của giáp, do khí của giáp mà thành. Mùa xuân
như đào lý, gặp kim được điêu khắc; mùa hạ như lúa mạ, gặp thủy tức được
sinh;
mùa thu như cây đồng cây quế, kim vượng được hỏa chế mộc được cứu; mùa
đông như
hoa thơm cỏ lạ, hỏa thấp thổ bồi. Sinh vào mùa xuân gặp hỏa, tức phát
quý vinh;
sinh vào mùa hạ gặp thủy, đất được tươi nhuận khô ráo; sinh vào mùa thu
gặp
hỏa, khiến hỏa chế khắc kim khí mà không khắc mộc; sinh vào mùa đông gặp
hỏa,
giải bớt khí hàn lạnh. Cát dương giải ngưu, sinh vào tháng sửu mùi
(tháng 12,
6-ND), hoặc ngày ất sửu ất mùi, mùi thuộc mộc khố, ất mộc có gốc, sửu
thuộc
thấp thổ, có thể nuôi dưỡng khí mộc. Hoài đinh bão bính, khóa phượng
thừa hầu,
như sinh vào tháng thân dậu(tháng 7, 8-ND), hoặc ngày ất dậu, mà trên
can thấu xuất
bính đinh, có thủy cũng không tương tranh, chế khắc đắc nghi, chẳng sợ
kim
cứng. Hư thấp chi địa, kị mã diệc ưu, như sinh vào tháng hợi tý(tháng
10,
11-ND), tứ trụ không bính đinh, lại chẳng có chi tuất mùi táo thổ, ngay
khiến như chi năm có chi ngọ, cũng không phát sinh được. Thiên can thấu
giáp,
địa chi tàng dần, gọi là mộc rừng cây tùng cây bách, mùa xuân được trợ
giúp,
mùa thu được hợp phù, cho nênnóixuân
thu không sợ, bốn mùa chẳng kiêng vậy.
Bính hỏa mãnh liệt, khi sương vũ
tuyết. năng đoán canh
kim, phùng tân phản khiếp. thổ chúng thành từ, thủy xương hiển tiết. hổ
mã
khiển hương, giáp mộc nhược lai, tất đương phần diệt(nhất bản tác hổ mã
khuyển
hương, giáp lai thành diệt).
Nguyên
chú: hỏa dương tinh dã, bính hỏa chước dương chi chí, cố mãnh liệt, bất
úy thu
nhi khi sương, bất úy đông nhi vũ tuyết. canh kim tuy ngoan, lực năng
đoán chi,
tân kim bản nhu, hợp nhi phản nhựơc. Thổ kỳ tử dã, kiến mậu kỷ đa nhi
thành từ
ái chi đức; thủy kỳ quân dã, ngộ nhâm quý vượng nhi hiển trung tiết chi
phong.
Chí vu vị toại viêm thượng chi tính, nhi ngộ dần ngọ tuất tam vị giả, lộ
giáp
mộc tắc táo nhi phần diệt dã.
Dịch
nghĩa:
Bính hỏa thuộc khí dương trong suốt, sáng tỏ, có cái khí thế mãnh liệt,
không sợ khí sát của mùa thu và chẳng sợ tiết sương giáng, chẳng sợ khí
mùa
đông và vũ tuyết. Canh kim tuy cứng, nhưng không khắc chế bính hỏa được,
tân
kim vốn mền yếu, nhưng hợp bính hỏa
mà thành nhu nhược. Thổ là con của bính, nên tứ trụ thấy nhiều
mậu kỷ mà trở nên đức từ ái; thủy là vua của vạn vật, gặp nhâm quý vượng
mà
hiển hiện trung nghĩa tiết tháo vậy. Bính hỏa có tính cháy lớn mãnh liệt
bốc
lên cao, lại thêm địa chi gặp dần ngọ tuất, mà trên thiên can lộ giáp
mộc tức
mộc bị đốt cháy vậy.
Nhâm
thị viết: bình nãi thuần dương chi hỏa, kỳ thế mãnh liệt, khi sương vũ
tuyết,
hữu trừ hàn giải đống chi công. Năng đoán canh kim, ngộ cường bạo nhi
thi khắc
phạt dã; phủng tân phản khiếp, hợp nhu thuận nhi ngụ hòa bình dã. thổ
chúng
thành từ, bất lăng hạ dã; thủy xương hiển tiết , bất viên thượng dã. hổ
mã khuyển
hương giả, chi tọa dần ngọ tuất, hỏa thế dĩ quá vu mãnh liệt, nhược tái
kiến giáp mộc lai sinh, chuyển trí phần diệt dã. do thử luận chi, tiết
kỳ uy,
tu dụng kỷ thổ; át kỳ diễm, tất yếu nhâm thủy; thuận kỳ tính, hoàn tu
tân kim.
Kỷ thổ ti thấp chi thế, năng thu nguyên dương chi khí; mậu thổ cao táo,
kiến
bính hỏa nhi tiêu sách hĩ. Nhâm thủy cương trung chi đức, năng chế bạo
liệt chi
hỏa; quý thủy âm nhu, phùng bình hỏa nhi hạc kiến hĩ. Tân kim nhu nhuyễn
chi
vật, minh tác hợp nhi tương thân, ám hóa thủy nhi tương tể; canh kim
cương
kiện, cương hựu phùng cương, thế bất lưỡng lập. thử tuy cử nhi luận,
nhiên thế
sự nhân tình, hà mạc bất nhiên!
Dịch
nghĩa:
Bính thuộc hỏa khí thuần dương, khí thế mãnh liệt, không sợ khí sương
giáng vũ tuyết, có công năng trừ hàn sưởi ấm. Có thể khắc chế canh kim,
giống
như gặp cường bạo mà ra tay trừ diệt, gặp tân kim lại trở nên nhu hòa,
bính tân
hợp hóa nhu thuận có ý hòa hợp vậy. Thổ nhiều trở nên từ ái, mà không đè
xuống
dưới; thủy cuồng vượng hiển hiện, mà không vượt lên trên. Dần ngọ tuất
là nơi
hỏa địa, địa chi trong tứ trụ có dần ngọ tuất tức khí hỏa mãnh liệt,
trong trụ
còn có giáp mộc tư sinh tức mộc bị hỏa khí vượng thịnh đốt cháy vậy.
Theo đó mà
luận, để tiết chế bớt khí hỏa thịnh thì cần dụng thổ; để ngăn cản khí
hỏa mãnh
liệt thì cần dụng thủy; để làm cho khí hỏa nhu thuận thì cần dụng tân
kim hợp
hóa. Kỷ thổ khí thế ti thấp, có thể thu nguyên khí tư sinh của bính hỏa;
mậu
thổ khí thế khô táo, gặp bính hỏa mà trở nên khô cứng nứt nẻ vậy. Nhâm
thủy có
cái đức trung chính cương kiện, có thể chế khắc hỏa mãnh liệt; quý thủy
âm nhu,
gặp bính hỏa mãnh liệt mà bị cạn kiệt. Tân kim thể tính nhu nhuyễn, hợp
hóa
bính hỏa tương thân hóa thành thủy mà thành việc; canh kim cương cứng,
cương
gặp cương đều không thể toàn vẹn. Thế nên tuy đơn cứ mà luận mọi thế sự
nhân tình, há chẳng phải là như vậy hay sao!
Đề
nghị sửa
"nhưng hợp Bính hỏa mà thành nhu nhược" thành "nhưng Bính hỏa
(vì) hợp mà thành nhu nhược" vì cái nhu nhược ở đây ám chỉ đặc tính của
Bính hỏa khi bị Tân hợp.
Bính hỏa mãnh liệt, khi sương vũ
tuyết. năng đoán canh
kim, phùng tân phản khiếp. thổ chúng thành từ, thủy xương hiển tiết. hổ
mã
khiển hương, giáp mộc nhược lai, tất đương phần diệt(nhất bản tác hổ mã
khuyển
hương, giáp lai thành diệt).
Nguyên
chú: hỏa dương tinh dã, bính hỏa chước dương chi chí, cố mãnh liệt, bất
úy thu
nhi khi sương, bất úy đông nhi vũ tuyết. canh kim tuy ngoan, lực năng
đoán chi,
tân kim bản nhu, hợp nhi phản nhựơc. Thổ kỳ tử dã, kiến mậu kỷ đa nhi
thành từ
ái chi đức; thủy kỳ quân dã, ngộ nhâm quý vượng nhi hiển trung tiết chi
phong.
Chí vu vị toại viêm thượng chi tính, nhi ngộ dần ngọ tuất tam vị giả, lộ
giáp
mộc tắc táo nhi phần diệt dã.
Dịch
nghĩa:
Bính hỏa thuộc khí dương trong suốt, sáng tỏ, có cái khí thế mãnh liệt,
không sợ khí sát của mùa thu và chẳng sợ tiết sương giáng, chẳng sợ khí
mùa
đông và vũ tuyết. Canh kim tuy cứng, nhưng không khắc chế bính hỏa được,
tân
kim vốn mền yếu, liệt bính hỏa hợp tân kim mà trở nên nhu nhược vậy. Thổ
là con
của bính, nên tứ trụ thấy nhiều mậu kỷ mà trở nên đức từ ái; thủy là
vua
của vạn vật, gặp nhâm quý vượng mà hiển hiện trung nghĩa tiết tháo vậy.
Bính
hỏa có tính cháy lớn mãnh liệt bốc lên cao, lại thêm địa chi gặp dần ngọ
tuất,
mà trên thiên can lộ giáp mộc tức mộc bị đốt cháy vậy.
Nhâm
thị viết: bình nãi thuần dương chi hỏa, kỳ thế mãnh liệt, khi sương vũ
tuyết,
hữu trừ hàn giải đống chi công. Năng đoán canh kim, ngộ cường bạo nhi
thi khắc
phạt dã; phủng tân phản khiếp, hợp nhu thuận nhi ngụ hòa bình dã. thổ
chúng
thành từ, bất lăng hạ dã; thủy xương hiển tiết , bất viên thượng dã. hổ
mã
khuyển hương giả, chi tọa dần ngọ tuất, hỏa thế dĩ quá vu mãnh liệt,
nhược tái kiến giáp mộc lai sinh, chuyển trí phần diệt dã. do thử luận
chi,
tiết kỳ uy, tu dụng kỷ thổ; át kỳ diễm, tất yếu nhâm thủy; thuận kỳ
tính, hoàn
tu tân kim. Kỷ thổ ti thấp chi thế, năng thu nguyên dương chi khí; mậu
thổ cao
táo, kiến bính hỏa nhi tiêu sách hĩ. Nhâm thủy cương trung chi đức, năng
chế
bạo liệt chi hỏa; quý thủy âm nhu, phùng bình hỏa nhi hạc kiến hĩ. Tân
kim nhu
nhuyễn chi vật, minh tác hợp nhi tương thân, ám hóa thủy nhi tương tể;
canh kim
cương kiện, cương hựu phùng cương, thế bất lưỡng lập. thử tuy cử nhi
luận,
nhiên thế sự nhân tình, hà mạc bất nhiên!
Dịch
nghĩa:
Bính thuộc hỏa khí thuần dương, khí thế mãnh liệt, không sợ khí sương
giáng vũ tuyết, có công năng trừ hàn sưởi ấm. Có thể khắc chế canh kim,
giống
như gặp cường bạo mà ra tay trừ diệt, gặp tân kim lại trở nên nhu hòa,
bính tân
hợp hóa nhu thuận có ý hòa hợp vậy. Thổ nhiều trở nên từ ái, mà không đè
xuống
dưới; thủy cuồng vượng hiển hiện, mà không vượt lên trên. Dần ngọ tuất
là nơi
hỏa địa, địa chi trong tứ trụ có dần ngọ tuất tức khí hỏa mãnh liệt,
trong trụ
lại còn có giáp mộc tư sinh tức mộc bị hỏa khí vượng thịnh đốt cháy vậy.
Theo
đó mà luận, để tiết chế bớt khí hỏa thịnh thì cần dụng thổ; để ngăn cản
khí hỏa
mãnh liệt thì cần dụng thủy; để làm cho khí hỏa nhu thuận thì cần dụng
tân kim
hợp hóa. Kỷ thổ khí thế ti thấp, có thể thu nguyên khí tư sinh của bính
hỏa;
mậu thổ khí thế khô táo, gặp bính hỏa mà trở nên khô cứng nứt nẻ vậy.
Nhâm thủy
có cái đức trung chính cương kiện, có thể chế khắc hỏa mãnh liệt; quý
thủy âm
nhu, gặp bính hỏa mãnh liệt mà bị cạn kiệt. Tân kim thể tính nhu nhuyễn,
hợp
hóa bính hỏa tương thân hóa thành thủy mà thành việc; canh kim cương
cứng,
cương gặp cương đều không thể toàn vẹn. Thế nên tuy đơn cứ mà luận mọi
thế sự nhân tình, há chẳng phải là như vậy hay sao!
Nguyên
chú: đinh can chúc âm, hỏa tính tuy âm, nhu nhi đắc kỳ trung hĩ. Ngoại
nhu
thuận nhi nội văn minh, nội tính khởi bất chiêu dung hồ? ất phi đinh chi
đích
mẫu dã, ất úy tân nhi tân bảo chi, bầt nhược bính bảo giáp nhi phản năng
phần
giáp mộc dã, bất nhược ất bảo đinh nhi phản năng hối đinh hỏa dã, kỳ
hiếu dị hồ
nhân hĩ. Nhâm vi đinh chi chánh quân dã, nhâm úy mậu nhi đinh hợp chi ,
ngoại
tắc phủ tuất mậu thổ, năng sử mậu thổ bất khi nhâm dã, nội tắc ám hóa
mộc thần,
nhi sử mậu thổ bất cảm kháng hồnhâm dã, kỳ trung dị hồ nhân hĩ. Sinh vu
thu
đông, đất nhất giáp mộc, tắc ỷ chi bất diệt, nhi diễm chí vô cũng dã, cố
viết
khả thu khả đông. Giai nhu chi đạo dã.
Dịch
nghĩa:
Đinh thuộc can âm, hỏa tính tuy âm nhu nhưng được khí trung chính. Bên
ngoài tuy nhu thuận nhưng bên trong rất sáng đẹp, cái tính bên trong há
chẳng
sáng rỏ hay sao? ất mộc không sinh được đinh hỏa, ất mộc tối úy tân kim
nhờ có
đinh hỏa khắc chế tân kim mà cứu ất, không giống như bính hỏa khắc chế
canh kim
bảo vệ giáp mộc mà còn trở lại đốt cháy mộc, cũng như ất mộc bảo vệ đinh
hỏa mà
trở ngược lại làm cho đinh hỏa mờ ám tối tăm, đó chẳng phải là trái với
đạo
hiếu thường sao. Nhâm là vua của đinh, nhâm thủy rất sợ mậu thổ mà đi
hợp với
đinh, cái đinh hỏa này bề ngoài có vẻ như sinh trợ mậu thổ, nhưng bên
trong
ngầm hợp với nhâm thủy hóa mộc khắc chế thổ, khiến cho thổ không thể
khắc thủy
được, điều đó chẳng là trái với cái đạo trung quân sao. Sinh vào mùa thu
mùa
đông, thiên can trong tứ trụ có một giáp mộc, tức hỏa có nguồn nên sáng
đẹp vô
cùng không lo sợ phải bị tắt ngấm, cho nên mới nói khả thu khả đông. Đó
là cái
đạo nhu vậy.
Nhâm
thị viết: đinh phi đăng chúc chi vị, giác bính hỏa tắc nhu trung nhĩ.
Nội tính
chiêu dung giả, văn minh chi tượng dã. bảo ất nhi hiêú, minh sử tân kim
bất
thương ất mộc dã; hợp nhâm nhi trung, ám sử mậu thổ bất thương nhâm thủy
dã.
duy kỳ nhu trung, cố vô thái qúa bất cập chi lệ, tuy thời đương thừa
vượng, nhi
bất chí hách viêm; tức thời trị tựu suy, nhi bất chí vu tức diệt. can
thấu giáp
ất, thu sinh bất úy kim; chi tàng dần mão, đông sản bất kỵ thủy.
Dịch
nghĩa:
Đinh chẳng phải là đèn đuốc, so với bính đinh hỏa thuộc khí nhu thuận
trung chính vậy. Bên trong sáng đẹp, có cái tượng văn minh. Khắc chế tân
kim
bảo vệ ất mộc, tân kim không thể khắc ất mộc do đó mà ất mộc được cứu;
hợp nhâm
thủy hóa mộc bảo vệ thủy, mậu thổ không thể khắc được nhâm thủy cho nên
nhâm
thủy được cứu. Do tính nhu thuận trung chính, mà không đi đến thái quá
hay bất
cập, tuy thời khí đang thừa vượng cũng không cháy rực; gặp lúc thất thời
khí
suy cũng không tận diệt. Thiên can trong tứ trụ thấu giáp ất mộc, sinh
mùa thu
chẳng sợ kim cường, địa chi trong tứ trụ tang chứa dần mão mộc, sinh vào
mùa
đông giá rét không sợ thủy vượng.
Mậu thổ cố trọng, ký trung thả
chính.Tĩnh hấp đông tích,
vạn vật ty mệnh. Thủy nhuận vật sinh, hỏa táo vật bệnh. Nhược tại cấn
khôn, phạ
trùng nghi tĩnh.
Nguyên
chú: mậu thổ phi thành tường đê ngạn chi vị dã, giác kỷ đặc cao hậu
cương táo,
nãi kỷ thổ phát nguyên chi địa, đắc hồ trung khí nhi thả chính đại hĩ.
Xuân hạ
tắc khí tích nhi sinh vạn vật, thu đông tắc khí hấp nhi thành vạn vật,
cố vi
vạn vật chi ty mệnh dã. kỳ khí chúc dương, hỉ nhuận bất hỉ táo, tỏa dần
phạ
thân, tọa thân phạ dần. cài trùng tắc căn động, phi địa đạo chi chính
dã, cố
nghi tĩnh.
Dịch
nghĩa:
Mậu thổ chẳng là tường vách, so với kỷ thổ mậu thổ có tính chất khô
cứng
cao hậu, cùng kỷ thổ là nơi phát nguyên đại địa, nên đắc được cái khí
trung
chính to lớn vậy. Mùa xuân mùa hạ thì khí phát tích mà sinh vạn vật, mùa
thu
mùa đông thì khí thu vào mà thành vạn vật, do vậy mà làm chủ vạn vật.
Mậu thổ
có tính khí thuộc dương, nên ưa thích nhuận trạch không thích khô táo,
tọa dần
sợ thân xung, tọa thân sợ dần xung. Nếu bị xung tức căn gốc bị động,
chẳng là
mất đi cái khí trung chính cho nên cần tĩnh không nên động vậy.
Nhâm
thị viết: mậu vi dương thổ, kỳ khí cố trọng, cư trung đắc chính. Xuân hạ
khí
động nhi tỵ, tắc phát sinh, thu đông khí tĩnh nhi hấp, tắc thu tàng, cố
vi vạn
vật chi ty mệnh dã. kỳ khí cao hậu, sinh vu xuận hạ, hỏa vượng nhi thủy
nhuận
chi, tắc vạn vật phát sinh, táo tắc vật khô; sinh vu thu đông, thủy đa
nghi hỏa
noãn chi, tắc vạn vật hóa thành, thấp tắc vật bệnh. Cấn khôn giả, dần
thân chi
nguyệt dã. xuân tắc thụ khắc, khí hư nghi tĩnh; thu tắc đa tiết, thể bạc
phạ
trùng. Hoặc tạo dần thân nhật, diệc hỉ tĩnh kỵ trùng. Hựu sinh tứ quý
nguỵêt
giả, tối hỉ canh thân tân dậu chi kim, tú khí lưu hành, định vi quý
cách, kỷ thổ
diệc nhiên. Như trụ kiến mộc hỏa, hoặc hành vận ngộ chi, tắc phá hĩ.
Dịch
nghĩa:
Mậu thuộc dương thổ, khí thế cố trọng, cư nơi trung chính. Mùa xuân mùa
hạ khí động nên phát ra, tức khí phát sinh, mùa thu mùa đông khí tĩnh
nên thu
vào, tức khí thu tàng, do vậy mà làm chủ vạn vật. Có cái khí cao hậu,
nên sinh
vào mùa xuân mùa hạ hỏa khí thời vượng cần có thủy làm nhuận thổ, tắc
vạn vật
sinh sôi, khô táo tắc vạn vật chết khô; sinh vào mùa thu mùa đông, thủy
nhiều
cần hỏa sưởi ấm, tắc vạn vật hóa thành, thấp tắc vạn vật thụ bệnh. Sinh
vào
tháng dần nguyệt tọa cung cấn sinh vào tháng thân nguyệt tọa cung khôn.
Thổ mùa
xuân bị mộc khắc khí chất hư nhược cần nên tĩnh; thổ mùa thu bị tiết khí
nhiều
quá thể chất bạc nhược không nên gặp xung. Tứ trụ, nhật chủ tọa dần thân
ưa
thích yên tĩnh tối kỵ gặp xung. Như sinh vào bốn tháng tứ quý (thìn,
tuất, sửu,
mùi), tối hỷ nhật chủ canh thân tân dậu khí kim, tú khí lưu hành bất tận
tắc
đoán định quý cách, kỷ thổ cũng đồng như thế. Bằng như tứ trụ gặp mộc
hỏa, hay
vận hành hỏa mộc tắc phá cách vậy.
Kỷ thổ ty thấp, trung chính súc
tàng. Bất sấu mộc thịnh,
bất úy thủy cuồng. hỏa thiểu hỏa hối, kim đa kim quang. Nhược yếu vật
vượng,
nghi trợ nghi bang.
Nguyên
chú: kỷ thổ ty bạc nhuyễn thấp, nãi mậu thổ chi diệp chi địa, , diệc chủ
trung
chính nhi năng súc tàng vạn vật. Nhu thổ năng sinh mộc, phi mộc sở năng
khắc,
cố bất sầu mộc thịnh; thổ thâm nhi năng nạp thủy, phi thủy sở năng đãng,
cố bất
úy thủy cuồng. vô căn chi hỏa, bất năng sinh thấp thổ, cố hỏa thiểu nhi
hỏa
phản hối; thấp thổ năng nhuận kim khí, cố kim đa nhi kim quang thải,
phản thanh
oánh khả quan. Thử kỳ vộ vi nhi hữu vi chi diệu dụng. nhược yếu vạn vật
sung
thịnh trường vượng, duy thổ thế thâm cố, hựu đắc hỏa khí nõan hòa phương
khả.
Dịch
nghĩa:
Kỷ thổ khí chất ẩm thấp mỏng manh, cùng mậu thổ là chổ phát nguyên đại
địa, cũng có tính trung chính mà có khả năng nuôi dưỡng vạn vật. Nhu thổ
có khả
năng sinh mộc, chứ mộc không thể khắc được nhu thổ, do đó mà không lo
mộc
vượng; thổ sâu có thể chứa thủy, thủy không thể nhiều đồng đãng, do vậy
mà
không sợ thủy cuồng. Hỏa yếu không gốc chẳng những không thể sinh thấp
thổ, mà
ngược lại còn bị thổ làm cho mất sáng; thấp thổ có thể làm tươi nhuận
khí kim,
cho nên kim nhiều kim sáng, mà trở nên trong suốt ưa nhìn. Đó là vô vi
lấy hữu
vi làm diệu dụng vậy. Nhược bằng vạn vật sung thịnh cường vượng, chỉ có
thổ thế
thâm sâu, được hỏa khí sưởi ấm tắc bốn phương thuận hòa vậy.
Nhâm
thị
viết: kỷ thổ vi âm thấp chi địa, trung chính súc tàng, quán bát phương
nhi
vượng tứ quý, hữu tư sinh bất tức chi diệu dụng yên. Bất sầu mộc thịnh
giả, kỳ
tính nhu hòa, mộc tạ dĩ bồi dưỡng, mộc bất khắc dã. bất úy thủy cuồng
giả, kỳ
thể đoan ngưng, thủy đắc dĩ nạp tàng, thủy bất trùng dã. thủy thiểu hỏa
hối
giả, đinh hỏa dã, âm thổ năng liễm hỏa, hối hỏa dã. kim đa kim quang
giả, tân
kim dã, thấp thổ năng sinh kim, nhuận kim dã. trụ trung thổ khí thâm cố,
hựu
đắc bính hỏa khứ kỳ âm thấp chi khí, canh túc dĩ tư sinh vạn vật, sở vị
nghi
trợ nghi bang giả dã.
Dịch
nghĩa:
Kỷ thổ thuộc đất ẩm ướt, khí thế trung chính tàng chứa, khí quán tám
phương mà vượng bốn mùa, có cái công tư sinh diệu dụng không ngừng nghĩ
vậy. Chẳng lo mộc thịnh, có tính nhu thuận cho
nên tài bồi dưỡng mộc mà không khắc mộc. Chẳng sợ thủy cuồng, có
tính chất
ngưng đọng cho nên thủy có thể được dung nạp mà không xung khắc vậy.
Thủy ít
hỏa tối, đinh hỏa chẳng sinh âm thổ mà còn bị thấp thổ làm cho che lấp
mất
sáng. Kim nhiều kim sáng, thấp thổ có thể sinh kim, làm nhuận kim. Trong
trụ
thổ nhiều tức thổ dầy, lại còn được bính hỏa xua đẩy khí ẩm ướt, đủ để
tư sinh
vạn vật. Cho nên nói nghi trợ nghi bang là như thế.
viết nhầm
"Chẳng lo mộc thịnh, có tính nhu
thuận cho nên tài bồi dưỡng mộc mà không khắc mộc".
xin
chua
lại:"Chẳng lo mộc thịnh, có tính nhu thuận cho nên tài bồi dưỡng mộc mà
không bị mộc khắc".
Canh kim đái sát, cương kiện vi
tối. đắc thủy nhi thanh,
đắc hỏa nhi duệ. Thổ thuận tắc sinh, thổ can tắc thúy. Năng doanh giáp
huynh,
thâu vu ất muội.
Nguyên
chú: canh kim nãi thiên thượng chi thái bạch, đái sát nhi cương kiện.
kiện nhi
đắc thủy, tắc khí lưu nhi thanh; cương nhi đắc hỏa, tắc khí thuần nhi
duệ. Hữu
thủy chi thổ, năng tòan kỳ sinh; hữu hỏa chi thổ, năng sử kỳ thúy. Giáp
mộc tuy
cường, lực túc phạt chi; ất mộc tuy nhu, hợp nhi phản nhược.
Dịch
nghĩa:
Canh kim trên trời là thái bạch kim tinh, tính cương kiện lại hay sát,
kim vượng gặp thủy, tắc kim bạch thủy thanh dòng chảy không ngừng; kim
cứng gặp
hỏa, tắc khí tinh thuần mà sắc bén. Có thổ có thủy có thể tương sinh
liên tục;
có thổ có hỏa làm cho kim trở nên giòn yếu. Giáp mộc tuy cứng, nhưng có
đủ sức
khắc phạt; ất mộc tuy nhu nhưng hợp canh, canh kim trở nên nhu nhược.
Nhâm
thị viết: canh nãi thu thiên túc sát chi khí, cương kiện vi tối. đắc
thủy nhi
thanh giả, nhâm thủy dã, nhâm thủy phat`1 sinh, dẫn thông cương sát chi
tính,
tiện giác thối lệ tinh oánh. Đắc hỏa nhi duệ giả, đinh hỏa dã, đinh hỏa
âm nhu,
bất dữ canh kim vi địch, lương dã tiêu dong, toại thành kiếm kích, hồng
lô đoán
luyện, thời lộ phong châm. Sinh vu xuân hạ, kỳ khí sảo nhược, ngộ sửu
thìn chi
thấp thổ tắc sinh, phùng mùi tuất chi táo thổ tắc thúy. Giáp mộc chính
địch,
lực năng phạt chi; dữ ất tương hợp, chuyển giác hữu tình. Ất phi tẫn hợp
canh
nhi trợ bạo, canh diệc phi tẫn hợp ất nhi phản nhược dã, nghi cường biện
chi.
Dịch
nghĩa:
Canh kim thuộc khí túc sát mùa thu, tính rất cương kiện.
thủy được kim thì xanh trong, nhâm thủy có thể dẫn xuất canh kim sinh
xuất thủy
tinh anh. Canh kim được hỏa thì trở nên sắc bén, đinh hỏa khí âm nhu,
không
cùng với canh kim thù địch, mà còn đi trợ kim biến thành lò luyện nung
nấu kiếm
kích bén nhọn. sinh vào mùa xuân mùa hạ khí thế còn non yếu, gặp được
chi sửu
thìn thấp thổ tức được sinh, gặp chi mùi tuất táo thổ bị giòn yếu. canh
kim
đích thị là cừu địch của giáp mộc, có thể khắc phạt giáp mộc; cùng với
ất mộc
tương hợp mà trở nên hữu tình. Ất mộc không cùng canh hợp hóa đi trợ
bạo, canh
kim cũng chẳng phải cùng ất hợp hóa thành nhu nhược, cần nên tỏ tường
biện bạch
cho rỏ ràng vậy.
Tân kim nhuyễn
nhược, ôn nhuận nhi thanh. úy thổ
chi diệp, nhạc thủy chi doanh. Năng phù xã
tắc, năng cứu sinh linh. Nhiệt tắc hỷ mẫu, hàn tắc hỷ đinh.
Nguyên
chú: tân nãi âm kim, phi châu ngọc chi vị dã. phàm ôn nhuyễn thanh nhuận
giả,
giai tân kim giả. Mậu kỷ thổ đa nhi năng mai, cố úy chi; nhâm quý thủy
đa nhi
tất tú, cố nhạc chi. Tân vi bính chi thần dã, hợp bính hóa thủy, sử bính
hỏa
thần phục nhâm thủy, nhi an phù xã tắc; tân vi giáp chi quân dã, hợp
bính hóa
thủy, sử bính hỏa bất phần giáp mộc, nhi cứu viên sinh linh. sinh vưu
cữu hạ
nhi đắc kỷ thổ, tắc năng hối hỏa nhi tồn chi; sinh vưu long đông nhi đắc
đinh
hỏa, tắc năng địch hàn nhi dưỡng chi. Cố tân kim sinh vưu đông nguyệt,
kiến
bính hỏa tắc nam mệnh bất quý, tuy quý diệc bất trung; nữ mệnh khắc phu,
bất
khắc diệc bất hòa. Kiến đinh nam nữ giai quý thả thuận.
Dịch
nghĩa:
Tân thuộc âm kim, chẳng phải là châu ngọc. Đại phàm vật nhu nhuyễn
thanh
nhuận điều thuộc tân kim. Mậu kỷ thổ nhiều có thể bị chôn lấp, cho nên
cũng
không hay; nhâm quý thủy nhiều thì đẹp đẻ, cho nên mừng gặp. Tân kim lấy
bính
hỏa làm thần, hợp bính hỏa hóa thủy, khiến bính hỏa đi thần phục nhâm
thủy mà
phò trợ xã tắc; tân kim lấy bính hỏa làm vua, hợp bính hỏa hóa thành
thủy sinh
giáp, khiến cho bính hỏa không thể đốt cháy giáp mộc, mà cứu giúp sinh
linh.
Sinh vào cuối hạ còn gặp thổ tức có thể làm cho hỏa yếu tối mà bảo tồn
tân kim;
sinh vào cuối đông còn gặp đinh hỏa tức đinh hỏa có thể xua hàn sưởi ấm
tân
kim. Cho nên tân kim sinh vào tháng mùa đông gặp bính hỏa tắc nam mệnh
không
hiển quý, dù có hiển quý cũng không bền; nữ mệnh khắc phu, không thì
cũng bất
hòa. Gặp đinh hỏa nam nữ mệnh thải điều quý hiển vậy.
Nhâm
thị viết: tân kim nãi nhân gian ngũ kim chi chất, cố thanh nhuận khả
quan. Úy
thổ chi diệp giả, mậu thổ thái trọng, nhi hạc thủy mai kim; nhạc thủy
chi doanh
giả, nhâm thủy hữu dư, nhi nhuận thổ dưỡng kim dã. tân vi giáp chi quân
dã,
bính hỏa năng phần giáp mộc, hợp nhi hóa thủy, sử bính hỏa bất phần giáp
mộc,
phản hữu tương sinhchi tượng; tân vi bính chi thần dã, bính hỏa năng
sinh mậu
thổ, hợp bính hóa thủy, sử bính hỏa bất sinh mậu thổ, phản hữu tương trợ
chi
mỹ. khởi phi phù xã tắc cứu sinh linh hồ? sinh vưu hạ nhi hỏa đa, hữu kỷ
thổ
tắc hối hỏa nhi sinh kim; sinh vưu đông nhi thủy vượng, hữu đinh hỏa tắc
ôn
thủy nhi dưỡng kim. Sở vị nhiệt tắc hỷ mẫu, hàn đắc hỷ đinh dã.
Dịch
nghĩa:
Tân thuộc khí kim ở chốn nhân gian, cho nên thanh nhuận dễ nhìn. Sợ
thổ
nhiều, thổ trọng mà thủy cạn kiệt kim bị chôn lấp; thủy đẹp đủ đầy, nhâm
thủy
có dư thừa mà có thể nhuận thổ dưỡng kim. Tân kim lấy giáp làm vua, bính
hỏa có
thể đốt cháy giáp mộc, may nhờ tân hợp bính hóa thủy khắc hỏa, khiến cho
bính
hỏa không thể đốt cháy giáp mộc, trở nên tương sinh; tân lấy bính làm
thần,
bính hỏa có thể sinh mậu thổ, tân hợp bính hóa thủy, khiến cho không thể
sinh
mậu thổ, trở nên tương trợ. Há không phải phò trợ xã tắc cứu sinh linh
sao?
Sinh vào mùa hạ mà gặp nhiều hỏa, tứ trụ có kỷ thổ tức hỏa yếu tối kỷ
thổ có
thể sinh kim; sinh vào mùa đông gặp lúc thủy vượng, gặp hỏa tức hỏa làm
ấm thủy
mà dưỡng kim. Vì vậy mà nói nhiệt tắc hỷ mẫu, hàn tắc hỷ đinh là như
thế.
Nhâm thủy thông hà, năng tiết kim
khí, cương trung chi
đức, chu lưu bất trệ. Thông căn thấu quý, xung thiên bôn địa. hóa tắc
hữu tình,
tòng tắc tương tể.
Nguyên
chú: nhâm thủy tức quý thủy chi phát nguyên, côn lôn chi thủy dã; quý
thủy tức
nhâm thủy chi quy túc, phù tang chi thủy dã. hữu phân hữu hợp, vận hành
bất
tức, sở dĩ vi bách xuyên giả thử dã, diệc vi vũ lộ giả thử dã, thị bất
khả kỳ
nhi nhị chi. Thân vi thiên quan, nãi thiên hà chi khẩu, nhâm thủy trường
sinh
vu thử, năng tiết tây phương kim khí. Chu
lưu
chi tính, trùng tiến bất trệ, cương trung chi đức do nhiên dã. nhược
thân tý
thìn toàn nhi hựu thấu quý, tắc kỳ thế trùng bôn, bất khả át dã. như
đông hải
bản phát đoan vu thiên hà, phục thành thủy họan, mệnh trung ngộ chi,
nhược vô
tài quan giả, kỳ họa đương hà như tai! Hợp đinh hóa mộc, hựu sinh đinh
hỏa, tắc
khả vị hữu tình; năng chế bính hỏa, bất sử kỳ đoạt đinh chi ái, cố vi
phu nghĩa
nhi vi quân nhân. Sinh vu cửu hạ, tắc tỵ, ngọ, mùi, thân hỏa thổ chi
khí, đắc
nhâm thủy huân chưng nhi thành vũ lộ, cố tuy tòng hỏa thổ, vị thường bất
tương
tể dã.
Dịch
nghĩa:
Nhâm thủy tức là phát nguyên của quý thủy, là nước song côn lôn; quý
thủy tức
là nới quy về của nhâm thủy, là nước biển đông. Có phân có hợp, lưu chảy
không
ngừng, cho nên gọi là nước của trăm song, cũng là nước mưa móc thật khó
mà phân
biệt. Thân thuộc thiên quan, là nơi cửa sông thiên hà, vị trường sinh
của nhâm
thủy, có thể tiết chế khí kim túc sát tây phương. Có tính lưu chuyển
chuyển
động không ngừng, có đức tính cương trung tư nhiên vậy. Như trong tứ trụ
có đủ
thân tý thìn mà trên can còn thấu quý thủy, tức khí thế xung động mạnh,
không
thể ngăn cản nổi. Giống như nước biển đông vốn phát khởi ở thiên hà, trở
thành
họa thủy, trong tứ trụ bằng như gặp phải mà trong mệnh không có tài
quan, tất
gách lấy tai họa vậy thai! Nhâm hợp đinh hóa mộc mà sinh hỏa, có thể nói
là hữu
tình; nhâm thủy có thể chế bính hỏa chẳng khiến
Nhâm
thị viết: nhâm vi dương thủy. thông hà giả, tức thiên hà dã, trường sinh
tại
thân, thân tại thiên hà chi khẩu, hựu tại khôn phương, nhâm thủy sinh
thử, năng
tiết tây phương túc sát khí, sở dĩ vi cương trung chi đứcdã. Bách xuyên
chi
nguyên, chu lưu bất trệ, dịch tiến nhi năng thoái dã. như thận tý thìn
toàn,
hựu thấu quý thủy, kỳ thế phiếm lạm, túng hữu mậu kỷ chi thổ, diệc bất
năng chỉ
kỳ lưu, nhược cường chế chi, phản trùng kíchnhi thành thủy họan, tất tu
dụng
mộc tiết chi, thuận kỳ khí thế, bất chí vu trùng bôn dã. hợp đinh hóa
mộc, hựu
năng sinh hỏa, bất tức chi diệu, hóa tắc hữu tình dã. sinh vu tứ, ngũ,
lục
nguyệt, trụ trung hỏa thổ thịnh vượng, biệt vô kim thủy tương trợ. Hỏa
vượng
thấu can tắc tòng hỏa, thổ vượng thấu can tắc tòng thổ, điều hòa nhuận
trạch,
nhưng hữu tương trợ chi công dã.
Dịch
nghĩa:
Nhâm thuộc dương thủy. Là nước sông dài tức thiên hà,
trường sinh tại thân, thân tức là cửa sông thiên hà, vị trí tại cung
khôn, có
thể tiết khí tây phương kim túc sát, cho nên gọi là cương trung chi đức
vậy. Là
nguồn phát nguyên của trăm sông, lưu chuyển không ngừng, di chuyển tiến
tới
không thoái lui. Như trong trụ tam hợp thân tý thìn đầy đủ, như lại còn
thấu
quý thủy, tất khí thế phiếm lạm, dù có mậu kỷ thổ cũng không có thể ngăn
nổi
dòng chảy, giống như lấy cương chế cương phản thành xung kích mà thành
họa
thủy, tất cần dụng mộc tiết chế bớt khí thế nhâm thủy, thuận theo khí
thế chẳng
nên xung động. Nhâm hợp đinh hóa mộc có thể sinh hỏa, diệu dụng vô cùng
hợp hóa
thật hữu tình. Sinh vào các tháng tư năm sáu, trong trụ hỏa thổ thịnh
vượng,
chẳng hề có kim thủy tương trợ. Hỏa vượng thấu can tắc tòng hỏa, thổ
vượng thấu
can tắc tòng thổ, điều hòa nhuận trạch, nhân đó mà có cái công tương trợ
vậy.
Quý thủy chí nhược, đạt vu thiên tân. Đắc long nhi vận,
công hóa tư thần. Bất sầu hỏa thổ, bất luận canh tân. Hợp mậu kiến hỏa,
hóa
tượng tư chân.
Nguyên
chú: quý thủy nãi âm chi thuần nhi chí nhược, cố phù tang nhược thủy dã.
Đạt vu
thiên tân, tùy thiên nhi vận, đắc long dĩ thành vân vũ, nãi năng nhuận
trạch
vạn vật, công hóa tư thần. Phàm trụ trung hữu giáp ất dần mão, giai năng
vận
thủy khí, sinh mộc chế hỏa, nhuận thổ dưỡng kim, định vi quý cách, hỏa
thổ tuy
đa bất úy. Chí vu canh kim, tắc bất tại kỳ sinh, diệc bất kị kỳ đa. Duy
hợp mậu
thổ hóa hỏa dã, mậu sinh dần, quý sinh mão, giai chúc đông phương, cố
năng sinh
hỏa. Thử cố nhất thuyết dã, bất tri địa bất mãn đông nam, mậu thổ chi
cực xử,
tức quý thủy chi tận xử, nãi thái dương khởi phương dã, cố hóa hỏa. Phàm
mậu
quý đắc bính đinh thấu giả, bất luận vượng suy, thu đông giai năng hóa
hỏa, tối
vi chân dã.
Dịch
nghĩa:
Quý thủy thuộc khí thuần âm mà khí thế cực nhược, nên gọi là nước biển
phù tang. Thông đến bến trời, tùy theo thời hành vận, gặp long mà hóa
vân vũ,
có công năng làm nhuận trạch muôn loài, làm cho vạn vật sinh sôi nảy nở.
Phàm
trong trụ có giáp ất dần mão mộc, lại còn gặp thủy vận, thủy vừa chế hỏa
vừa
sinh mộc lại nhuận thổ dưỡng kim, cho là quý cách, dù cho có hỏa thổ
nhiều cũng
không lo sợ. Đến như canh kim, chẳng sinh được quý thủy nhưng cũng không
sợ kim
nhiều. Duy quý thủy hợp mậu thổ hóa hỏa, mậu trường sinh tại dần, quý
trường
sinh tại mão, đều thuộc mộc phương đông, cho nên nói mậu quý hợp hóa hỏa
vậy.
Có thuyết nói: “Nhiều người không biết rằng đất phương đông nam bốn bề
khuyết
hãm, mậu thổ vị ở cực cao, tức quý thủy vị ở cực thấp, là nơi vầng dương
bắt
đấu ló dạng, cho nên mậu quý hợp hóa hỏa vậy”. Phàm mậu quý gặp bính
đinh thấu
can, chẳng cần luận vượng suy, sinh vào mùa thu mùa đông đều luận hóa
hỏa, thật
là chân lý luận vậy.
Nhâm thị viết: quý thủy chi vũ lộ chi vị, nãi thuần âm chi
thủy. phát nguyên tuy trường, kỳ tích cực nhược, kỳ thế tối tĩnh, năng
nhuận
thổ dưỡng kim, phát dục vạn vật, đắc long nhi vận, biến hóa bất trắc. Sở
vị
phùng long tức hóa, long tức thìn dã, phi chân long nhi năng biến hóa
dã. Đắc
thìn nhi hóa giả, hóa thần chi nguyên thần phát lộ dã, phàm thập can
phùng thìn
vị, tất can thấu hóa thần, thử nhất định bất dịch chi lý dã. Bất sầu hỏa
thổ
giả, chí nhược chi tính, kiến hỏa thổ đa tức tòng hóa hỷ; bất luận canh
kim
giả, nhược thủy bất năng tiết kim khí, sở vị kim đa phản trọc, quý thủy
thị dã.
Hợp mậu kiến hỏa giả, âm cực tắc dương sinh, mậu thổ táo hậu, trụ trung
đắc
bính hỏa thấu lộ, dẫn xuất hóa thần, nãi vi chân dã. Nhược thu đông kim
thủy
vượng địa, túng thủy chi ngộ thần long, can thấu bính đinh, diệc nan
tòng hóa,
nghi tế tường chi.
Dịch nghĩa:
Quý thủy thuộc mưa mốc, là thủy thuần âm. Phát nguyên tuy trường
nhưng tính lại nhược, khí thế cực tĩnh lặng, có thể nhuận thổ dưỡng kim,
sinh
sôi và phát triển vạn vật, gặp long vận biến hóa khó lường. Sở dĩ gặp
long mà hóa là do long là thìn, chẳng phải chân long (tức thìn) thì
không thể
hóa. Gặp thìn thì hóa, hóa thần là nguyên thần phát lộ, phàm thập can
gặp chi
thìn, tức can thấu thần, cái luận lý ấy bất di bất dịch vậy. Bất sầu hỏa
thổ,
quý thủy khí thế cực nhược, gặp hỏa thổ nhiều tức tòng hóa; bất luận
canh kim,
quý thủy không thể tiết khí được canh kim, thế cho nên kim nhiều thủy
trở nên
đục. Quý thủy hợp mậu hóa hỏa, âm cực tức dương sinh, mậu thổ khí khô
dày, trong
trụ trên can thấu lộ bính hỏa thấu lộ, dẫn xuất hóa thần, đều là lý luận
chân
chính vậy. Sinh vào mùa thu mùa đông kim thủy vượng địa, trong tứ trụ
địa chi
có chi thìn thổ, thiên can thấu bính đinh cũng không thể hóa được, cho
nên cần
phải tế phân cho tường tận vậy.
__________________ Cố ý nài hoa hoa chẳng chịu
Vô tình ép liễu liễu ok!
Đã tham gia: 17 May 2010 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 331
Msg 9 of 20: Đã gửi: 17 May 2010 lúc 11:09pm | Đã lưu IP
Chương 8.
Địa Chi
Dương chi động thả cường, tốc đạt
hiển tai tường; âm chi
tĩnh thả chuyên, phủ thái mỗi kinh niên.
Nguyên
chú:
Địa
chi tý, dần, thìn, ngọ, thân, tuất thuộc
dương
tính động, khí thế cương mãnh lại phát cực nhanh, họa phúc hiển hiện rỏ
ràng;
địa chi sửu, mão, tỵ, mùi, dậu, hợi thuộc âm tính tĩnh, khí chất chuyên
nhất
lại phát chậm, việc bỉ thái hiển hiện không rỏ ràng, thường trong năm
sau mỗi
chí mới thấy hiển hiện.
Nhâm thị viết:
Địa chi từ tý đến tỵ thuộc dương, từ ngọ đến hợi thuộc âm, do luận
theo
đông chí khí dương sinh, hạ chí khí âm sinh; địa chi từ dần đến mùi
thuộc
dương, thân đến sửu thuộc âm, do phép phân chia theo mộc hỏa thuộc
dương, kim
thủy thuộc âm vậy. Các mệnh gia lấy tý, dần, thìn, ngọ, thân, tuất thuộc
dương,
sửu, mão, tỵ, mùi, dậu, hợi thuộc âm. Như tý tàng quý, ngọ tàng đinh,
như thế
thể dương lấy âm làm dụng; tỵ tàng bính, hợi tàng nhâm, như thế âm lấy
dương
làm dụng. Việc phân biệt thủ dụng cũng giống như cái lý cương kiện nhu
thuận
cùng với thiên can thật không khác, các việc sinh khắc chế hóa, sự lý
thật đa
đoan, điều quan trọng là địa chi sở tàng hoặc hai can, hoặc ba can đó
vậy. Tất
nhiên lấy trong các can tàng đó lấy can bản khí làm chính, địa chi dần
tất
trước tiên lấy giáp sau đó mới tới bính, địa chi thân tất trước tiên lấy
can
canh sau đó mới tới nhâm, dư các địa chi tàng can điều luận như thế cả.
Địa chi
thuộc dương tính động mà cứng mạnh, cát hung hiển hiện rỏ ràng nhanh
chóng; địa
chi thuộc âm tính tĩnh mà mền yếu, họa phúc hiển hiện không rỏ ràng chậm
chạp.
Trong mệnh cục hay tại vận trình, cần sự quân bình ý cầu tiêu tức vậy.
Sinh phương phạ động nghi khai, bại địa phùng xung tử tế
suy.
Nguyên
chú:
Địa chi dần, thân, tỵ, hợi thuộc phương trường sinh, kỵ xung động;
thìn,
tuất, sửu, mùi thuộc phương mộ địa, cần nên xung khai. Tý, ngọ, mão, dậu
thuộc
phương tứ bại, gặp hợp tối hỷ nên xung, cho nên phương trường sinh không
thể
gặp xung; nếu bị xung cần gặp hợp phù, cũng như thế phương mộ địa thì
không thể
không gặp xung [vì mộ không xung không phát]. Cần nên biện bạch cho rỏ
ràng.
Nhâm
thị viết:
Thuyết xưa nói: kim thủy có thể xung khắc mộc hỏa, mộc hỏa không có
thể
xung khắc kim thủy, ấy là có thể luận theo thiên can như thế thì được,
chứ còn
luận theo địa chi thì không thể được. Bởi vì cái địa chi trong mang
nhiều hành
khí sở tàng không đơn nhất như thiên can. Cần nên xem xét đến cả cái
thừa khí
đương quyền đắc dụng, như vậy mộc hỏa cũng không thể xung khắc kim thủy
được
hay sao? Còn như phương trường sinh gặp xung động, tức lưỡng bại câu
thương. Ví
như dần thân gặp xung, trong thân tàng chứa canh kim, khắc giáp mộc
trong dần,
trong địa chi dần tàng chứa bính hỏa, vị thường chẳng khắc canh kim
trong thân;
nhâm thủy tàng trong thân, khắc bính hỏa trong chi dần, mậu thổ trong
dần vị
thường chẳng khắc nhâm thủy trong thân. Cho nên gặp xung khắc thì không
thể yên
tĩnh được. Địa chi tứ khố thì cần nên xung khai, tuy nhiên cũng có khi
cần nên
xung khai cũng có lúc thì không nên gặp xung, rỏ là do tạp khí tàng chứa
trong nó
cả. Tứ bại địa gặp xung cần nên suy tường cẩn trọng, địa chi tý, ngọ,
mão, dậu
tàng chứa duy chỉ có nhất khí, cho nên dụng kim thủy có thể bị xung,
dụng mộc
hỏa không thể bị xung. Tuy nhiên cũng cần nên linh hoạt mà luận đoán,
không nên
cứng nhất. Thảng như sinh vào mùa xuân mùa hạ lấy kim thủy làm dụng
thần, tức
kim thủy thuộc khí hưu tù tử tuyệt, mộc hỏa khí thế vượng tướng, kim
thủy không
thể thươg khắc ngược trở lại hay sao? Cần nên tham cứu cho tường tận.
Quý
thủy sinh vào mùa thu kim đương lịnh, nên kim thủy thông nguyên, thủy
nhiều mà
vượng, mộc gặp xung không thể dùng làm dụng thần. Hỏa tuy hưu tù nhưng
đứng
cạnh nhật nguyên, huống hồ mới bắt đầu vào thu hỏa khí còn đầy đủ, dụng
thần
tất là tại tỵ hỏa. Tỵ hợi phùng xung, quần kiếp phân tranh, cho nên ba
lần khắc vợ không con. Lại còn hành vận liên tục bắc phương tý hợi thủy
khắc
thần vượng địa, nhân đó mà phá hoại hao tán khác thường; đến đại vận mậu
dần kỷ
mão vận chuyển đông phương, hỷ dụng thần hợp đắc cách tứ trụ trở nên ấm
áp;
canh vận chế thương quan sinh kiếp tài, lại còn gặp lưu niên dậu, hỷ
dụng thần
bị thương khắc liên tiếp nên thất lộc.
Nhật
nguyên giáp dần mộc sinh vào mùa đông, hàn tất cần lấy hỏa làm dụng
thần. Tứ
trụ lại còn gặp hai can quý thủy thương khắc dụng thần, không có ngũ
hành thổ
chế thủy dưỡng mộc, tứ trụ tựa như không được đẹp, cái hay ở đây là địa
chi dần
hợi hợp hóa mộc, tị hỏa tuyệt xứ phùng sinh, ấy là động cơ làm hưng phát
tứ trụ
vậy. Tuy nhiên hành đại vận ban đầu tây phương kim vượng thương khắc
dụng thần
phù trợ khắc thần, là bại vận nên cuộc sống thấp hèn phong sương ngày
đây mai
đó; nhân tuổi ngoài 40 vận chuyển nam phương hỏa thổ vận vượng, phù trợ
dùng
thần, ấn tinh gặp tài phát tài hơn vạn, cưới vợ sinh con liên tiếp 4
đứa. Do đó
mà thấy rằng:”ấn thụ tác dụng, phùng tài vi họa không ít, không như tựu
tài tinh,
phát phúc thật lớn”.
Thương
quan dụng ấn cách, tất lấy quan tinh làm dụng thần, không như tục luận
thổ kim
thương quan kỵ quan tinh. Địa chi mão dậu gặp xung, tức ấn thụ là thần
vô sinh
trợ; địa chi tý ngọ gặp xung khiến thương quan được tứ sinh. Địa chi kim
vượng
sinh thủy, mộc hỏa xung khắc mà hết lực, thiên can hỏa thổ hư khí còn bị
thoát
khí, nhân thế mà đọc sách chưa toại chí, kinh doanh bình thường. Tuy
nhiên mừng
khắc thần thủy không thấu ra, nên là văn nhân văn Chương phong lưu, tinh
tường
thư pháp. Canh kim trung vận thiên can kim thủy, dù có chí nhưng không
thành
thân. Phàm thương quan bội ấn hỷ dụng thần tại mộc hỏa, tối kỵ xuất hiện
kim
thủy vậy.
Tứ
trụ địa chi toàn tứ khố, mừng lấy tân kim tiết khí thồ mà làm cho thổ
trở nên
tú khí, địa chi nguyên thần sửu thổ trong trụ tinh anh, với lại cái hay
là mộc
hỏa phục mà không thấu xuất, thuần thanh mà không hổn tạp. đến đại vận
dậu, tân
kim đắc địa, đậu hương bảng; nhân vận hành nam phương mộc hỏa tịnh
vựơng, dụng
thần tân kim thụ thương, mặc dù được tiến cử nhưng không được tuyển
dụng.
Tứ
trụ toàn cục ấn thụ, thổ nhiều kim bị chôn lấp, nhâm thủy dụng thần bị
thổ
vượng khắc hết, nếu như địa chi mùi tàng can ất mộc không bị xung phá có
thể
lấy làm dụng thần, mà chờ vận đến mà dẫn xuất phò trợ nhật nguyên, tuy
nhiên địa chi mùi bị sửu tuất xung phá, tuy tứ khố tất cần nên xung
khai, nhưng
chớ chấp nhất theo đó mà luận, mà còn cần nên xem xét cái được mất của
thiên
can nữa, dụng thần hữu lực, tuế vận phò trợ, kế đến là tứ trụ không được
thiên
khô vậy.
Chi thần chích dĩ xung vi trọng,
hình dữ xuyên hề động
bất động
Nguyên
chú:
Xung tức tương khắc, cùng tứ khố huynh đệ
gặp xung, do đó mà động; đến như tương hình tương hại, là do có tương
sinh
tương hợp mà tồn tại, vì vậy mà nói xung động và xung bất động có cái lý
lẽ
khác nhau.
Nhâm thị viết:
Địa chi bị xung khắc là do thiên can tàng chứa trong chi xung khắc,
tuy
vậy cũng cần nên biết rỏ cường nhược hỷ kỵ mà luận cho tường. Đến như tứ
khố bị
xung cũng có cái nên và cái không nên, như tháng 3 thuộc thìn, ất mộc
đương
lệnh, gặp tuất xung tức tuất tàng chứa tân kim mà có thể xung khắc ất
mộc vậy;
như tháng 6 thuộc mùi , đinh hỏa đương lệnh, gặp sửu xung tức sửu tàng
chứa
quý thủy mà có thể thương khắc đinh hỏa. Cứ như tam nguyệt chứa ất, lục
nguyệt chứa đinh tuy thuộc thối khí, bằng như đắc lệnh có thể trọn lấy
làm dụng
thần, bị xung tức thụ thương không thể lấy làm dụng thần được. Người sau
làm ra
ngụy thuyết cho rằng mộ khố phùng xung tức phát. Ý cho rằng mộ tức là
phần mộ;
khố thuộc tứ khố là nơi quy về của kim mộc thủy hỏa, thí như đắc khí cao
vượng
gặp xung khai mộ khố tất phát phúc lớn. Như thiên can thuộc hành mộc hỏa
kim
thủy, địa chi không có dần, mão, tỵ, ngọ, thân, dậu, hợi, tý lộc vượng,
mà tứ
trụ toàn địa chi thìn tuất sửu mùi gốc thuộc tứ khố nên thông căn, gặp
xung tất
gốc bị đánh bật, thế cho nên không khi nào có chuyện gặp xung động mà
cường
vượng được. Bằng như không dùng làm dụng thần, mà đi lấy hành thổ làm hỷ
thần
gặp xung động thìn hữu ích không có tổn hại, cái thổ xung động là nguyên
thần
đi sinh trợ dụng thần vậy. cái nghĩa của việc tương hình thật không lấy
chi làm
nhất định, như hợi hình hợi, thìn hình thìn, dậu hình dậu, ngọ hình ngọ,
gọi là
tự hình, vốn là địa chi gặp địa chi, cùng đồng khí cớ sao lại tương
hình? Tý
hình mão mão hình tý, vốn là tương sinh, dần thân tương hình tất gặp
xung sao
còn lại đi tương hình? Tuất hình mùi, mùi hình sửu đều ngũ hành thuộc
thổ khí
thì không thể nào tương hình được. Dần hình tỵ cũng là tương sinh, dần
thân
tương hình, tất gặp xung hà tất lại còn tương hình hay sao? Lại còn nói
tý mão
nhất hình, dần tỵ thân nhị hình, sửu tuất mùi tam hình, gọi là tam hình,
lại
còn có tự hình, đều là ngụy luận hẵng nên vứt bỏ. Xuyên tức là hại, lục
hại là do
lục hợp mà có, tức xung thần hợp với ta, gọi là lục hại, như tý hợp sửu
mà gặp
mùi xung, sửu hợp tý mà gặp ngọ xung. Cho nên nói tý mùi tương hại,
chẳng không
tương khắc, sửu ngọ dần hợi tương hại, đều là tương sinh, cớ sao lại
tương hại?
vả lại tương hình, tương hại vốn đã không lấy chi đủ làm bằng chứng,
thật lầm
lỗi lớn, đến như tương phá cũng như thế cả, không tương hại tức tương
hình, lỗi
lầm do không thuộc ở kinh, nên tước bỏ vậy.
Nhật nguyên nhâm tý, địa chi
phùng lưỡng nhận, thiên can thấu xuất quý thủy tân kim, ngũ hành không
có thổ,
niên can bính hỏa lâm tuyệt địa, bính hợp tân hóa thủy, tối hỷ trụ tháng
địa
chi mão vượng, tiết cái khí nhật nguyên nhâm thủy, có thể hóa tỷ kiên
dương
nhận sinh vượng. Tú khì lưu hành, là người cung kính thủ lể, tính tình
hòa ái
mà trung nghĩa tiết tháo. Đến đại vận giáp mộc nguyên thần phát lộ, liên
tiếp
trúng cao khoa; ngọ vận đắc mão mộc tiết khí thủy sinh hỏa, cùng ất mùi
bính
bính vận, quan đến quận thú, đường sĩ hoạn thuận lợi. Theo lối tục luận,
tý mão
thuộc hình phạt vô lể, với lại thương quan và dương nhận gặp hình tất
tính tình
ngạo mạn vô lể, hung ác không nói hết.
Nhật
nguyên canh thìn, sinh vào tháng quý hạ, kim đang tiến khí thổ đương
quyền, hỷ
kỳ đinh hỏa ty lệnh, nguyên thần phát lộ mà làm dụng thần, có thể khắc
chế tân
kim tỷ kiếp trợ thân. Địa chi mùi tàng đinh hỏa thuộc dư khí, thìn tàng
chứa
mộc dư khí, tài quan thong căn mà có khí, cái hay là hợi thủy nhuận thổ
dưỡng
kim mà sinh mộc, tứ trụ đầy đủ không khuyết hãm. Vận đến đông nam, kim
thủy hư
nhược mộc hỏa thực vượng, nhất sinh không gặp hung gặp hiểm. Đại vận
thìn lưu niên
ngọ, tài ấn đều được sinh phù, trung niên đăng khoa bảng, quan thăng đến
tư mã.
Thọ đến đại vận sửu.
Nhận xét của tác giả:
Như nghiệm xét, cái kiền tạo trên xuất sinh thời
thần khớp
với năm tân mùi tiết tiểu thử, người xưa luận mệnh, phàm tứ trụ người
sinh gặp
lúc giao tiết, đại vận lấy 10 năm, tự ngàn xưa lịch thư lấy giờ khắc
giao tiết
có sai sót thiếu chuẩn xác, không có phương pháp nào xác định rỏ ràng
sinh
trước hoặc sau giao tiết. Thiên vân lịch pháp ngày nay phân chia thời
khắc giao
tiết sau trước thật chính xác rỏ ràng, vì thế mà biết được hành vận sớm
muộn,
phép tắc ngày nay so với phép người xưa có nhiều bất đồng. Như tạo mệnh
trên,
nếu luận sau tiết tiểu thử thì một tuổi đã bắt đầu hành đại vận, tức năm
bính
ngọ là năm 36 tuổi ứng vào đại vận mão. Thọ đến sửu vận, tức theo phương
pháp
xưa thì sau 66 tuổi, nhưng theo phương pháp ngày nay thì sửu vận thì chỉ
gần
sau 56 tuổi, tức không thể nói là thọ được. Còn sau năm 66 tuổi phải là
đại vận
tý thủy, địa chi tý thìn hợp thành thủy cục hóa thương quan, mới chung
cuộc.
Tuy như vậy, mệnh học lý rất tinh vi, nên phương pháp xưa cũng không nên
coi
thường mà nên tham tầm nghiên cứu cho tường tận chân cơ diệu lý vậy.
“Đoạn
văn này cháu thấy có nhiều điểm
khó hiểu. Mong rằng các bác các chú trên diễn đàn có thời gian sưu tầm
nghiên
cứu làm sang tỏ vấn đề. Cháu chỉ dịch theo ý mà thôi”.
So
với tứ trụ trên đại đồng mà tiểu dị, tài quan cũng thong căn hữu khí,
trên tức
đinh hỏa tư lệnh đương quyền, còn tứ trụ dưới tức kỷ thổ đắc lệnh. Chỉ
hiềm trụ
giờ sửu thổ, đinh hỏa tức diệt, tất niên can tân kim gặp nhiều kim nên
rất
cường vượng, xung khử địa chi mùi thổ tàng thiên can mộc hỏa, tài quan
tuy hư
nhược. Sơ vận giáp ngọ, mộc hỏa tịnh vượng, ấm tí có thừa; nhất giao quý
tỵ
khắc thiên can đinh hỏa mà củng phò địa chi sửu thổ, thương quan tỷ kiếp
tịnh
vượng, hình thương hoa tán; nhâm thìn vận, thê tử cả hai đều bị thương
tổn, gia
nghiệp tiêu tán, xuống tóc mà làm tăng đạo. Theo tục thư mà luận, địa
chi sửu
mùi xung khai tài quan lưỡng khố, danh lợi lưỡng toàn vậy.
Ám xung ám hội vưu vi hỷ, bỉ xung ngã hề giai xung khởi
Nguyên chú: Như tứ trụ cách cục không bị khuyết hãm, nhân đấy chọn ám
xung ám hội, xung khởi ám thần mà lại hội hợp ám thần, người minh xung
với ta
minh hợp với ta đều như thế, như địa chi tý thủy đến xung khắc địa chi
ngọ hỏa,
địa chi dần mộc cùng với tuất thổ tam hợp hóa hỏa cục. Ấy thế nhật chủ
là ta,
lệnh tháng là người; đề cương là ta năm là người; tứ trụ là ta lưu niên
đại vận
là người; vận đồ là ta năm tháng là người. Như ta thuộc địa chi dần mộc
người
thuộc địa chi thân kim, thân kim có thể xung khắc dần mộc, tức là người
đến
xung ta; như ta thuộc địa chi tý thủy người thuộc địa chi ngọ, tý thủy
có thể
xung khắc địa chi ngọ hỏa, tức là ta đến xung người. Đó đều là xung khởi
vậy.
Nhâm
thị viết: Địa chi gặp xung vốn chẳng là điều tốt đẹp, điều đó tất nhiên
dẫn đến
bát tự khuyết hãm cùng cực, tứ trụ mất cân bằng. Mộc hỏa vượng, kim thủy
tất
không đủ; kim thủy vượng tất mộc hỏa không đủ. Bằng như nhật chủ vượng
mà còn
thừa lệnh thì cần nên xung mất đi bớt, nhật chủ suy nhược mà còn thiếu
thì cần
nên hội hợp mà sinh phù nhật chủ. Nếu như tứ trụ không gặp hợp xung, gặp
tuế
vận đến ám xung ám hợp lại càng hay. Tứ trụ có bệnh mà được cứu thì tốt.
Tuy
nhiên cần nên phân biệt cái ta xung và cái xung ta, cái lý của hội hợp
cũng có
đến có đi vậy. Người và ta bất tất phân chia năm tháng là người ngày giờ
là ta
, cũng chẳng nên phân chia tứ trụ là mình, tuế vận là người, tóm lại
làkhi luận
đoán cần nên biết hỷ thần thuộc về ta, kỵ thần thuộc về người. Như hỷ
thần là
địa chi ngọ hỏa, gặp tý xung tức là người đến xung ta, rất mừng cùng với
địa
chi dần tuất tam hợp hỏa cục phù trợ dụng thần; lại như dụng thần là địa
tý
thủy, gặp ngọ xung tức là ta đến xung người, tối kỵ cùng với địa chi dần
tuất
tam hợp hỏa cục khắc chế dụng thần. Như hỷ thần là địa chi tý thủy có
địa chi
thân cùng với địa chi thìn đến tam hợp hóa thủy cục trợ giúp dụng thần
tất mệnh
số gặp nhiều may mắn tốt đẹp; hỷ thần thuộc địa chi hợi có đại chi mão
mùi đến
tam hợp hóa mộc tiết khí dụng thần tất tứ trụ có nhiều thương tổn tất
gặp nhiều
hung hiểm. Khá nên ta đến xung người chớ nên người đến xung ta. Ta đến
xung
người tất xung khởi; người đến xung ta tất xung không khởi lên được.
Thủy hỏa
tương xung tương hợp đều như thế, dư các loại đều suy luận như thế cả.
Tứ
trụ can thấu lưỡng canh, mùa thu kim đương lịnh, địa chi hội hỏa cục,
tuy chế
sát có công, mà khắc tiết nhật chủ không nên có. Với lại canh kim khí uy
mãnh
một phương, lấy hỏa khí khắc chế cái uy của nó, sao bằng tiết khí nó mà
sinh
phù nhật chủ. Hóa khí đó có cộng năng làm ích lợi cho nhật chủ; còn lấy
hỏa chế
khắc kim khí thì nhật chủ bị tiết khí sinh hỏa. Do đó mà suy luận, không
nên
hội hỏa cục, nếu hội hỏa cục trở lại làm kỵ thần. đại vận tý lưu niên
thìn đại
khôi thiên hạ. tý vận xung phá hỏa cục, xung khứ ngọ vượng thần dẫn
thông canh
kim, làm lợi ích nhật chủ; thìn niên thuộc thấp thổ có thể tiết khí hỏa,
củng
phò tý thủy đủ sức sinh bồi nhật chủ vậy.
Nhật
nguyên đinh hỏa tuy sinh vào quý động, tỷ kiếp trùng trùng, quý thủy
thoái khí
không đủ lực chế kiếp, do đó không thể lấy làm dụng thần. Cho nên lấy
tân kim
tàng trong địa chi sửu làm dụng thần, tiết khí tỷ kiên sinh tài, là hỷ
thần phụ
cho dụng thần. Ngại hiềm ở đây là địa chi mão mộc sinh kiếp đoạt thực,
do đấy
mà tuổi niên thiếu hình thê khắc tử. Sơ vận nhâm tý tân hợi, ám xung tỵ
ngọ
hỏa, ấm tí có thừa. Đại vận canh tuất trở lại ám hợp ngọ hỏa, dẫn đến
hình
thương tai kiếp; đến đại vận kỷ dậu hội kim cục xung khứ mão mộc khắc
thần,
phát tài thập vạn. Từ đó cho thấy, ám xung kỵ thần, ám hội kỵ thần,
phát
phúc không ít; ám xung hỷ thần, ám hội kỵ thần tai họa khôn lường. Cái
lý ám xung
ám hội, khá nên sao nhãng ư?
Nhật
nguyên bính hỏa sinh vào mạnh hạ, địa chi hai dần một mão, tỵ hỏa đương
quyền,
dẫn xuất bính hỏa trong dần, thiên can tuy gặp canh tân, nhưng canh tân
hư
nhược không căn gốc. Sơ vận nhâm ngọ quý mùi thủy không có nguồn, không
thể
tiết kim khí, địa chi ngọ mùi nam phương hỏa địa lại phù trợ vượng hỏa,
tài
tinh bị khắc tiết đến cạn kiệt, tuy tổ nghiệp sung túc, mà sớm tiêu tan.
Đại vận
giáp lâm địa chi thân vốn không có đại nạn, nhưng do lưu niên mộc hỏa
tương
sinh mà hình thê khắc tử gia kế tiêu điều. Giao vận thân ám xung dần mộc
đang
vượng, thiên can phù trợ tài tinh thông căn ví như cỏ cây lâu ngày bị
hạn mà
gặp mưa, đột nhiên hưng phát. Cặp đại vận ất dậu mười lăm năm phát tài
gấp bội
hơn trước, thân vận dịch mã gặp tài tinh, xuất ngoại đại lợi, kinh doanh
phát
tài hơn thập vạn. Đến đại vận bính tuất lưu niên bính tý, hung nhiều cát
ít, bị
bệnh phong mà không trỗi dậy được, đó là do tỷ kiên tranh tài, tài còn
lâm
tuyệt địa, tý thủy một mình đơn độc chẳng những không thể nào khắc chế
bính hỏa
vượng, mà ngược lại còn sinh dần mão mộc trợ hỏa vậy.
Nguyên chú: tý vượng ngọ suy,
xung tắc ngọ bạt bất năng lập; tý suy ngọ vượng, xung tắc ngọ phát nhi
vi phúc.
Dư phảng thử.
Dịch nghĩa:
Tý thủy vượng ngọ hỏa suy, vượng mà đi xung khắc suy tất suy càng suy
cùng cực; tý thủy suy ngọ hỏa vượng, suy mà đi xung khắc vượng tất
vượng
càng vượng hóa thành phúc. Dư các chi còn lại đều suy như thế cả.
Thập nhị chi tương xung tương khắc, nguyên là do các thiên can tàng
trong địa chi tương xung tương khắc nhau vậy, tứ trụ năm, tháng, ngày,
giờ
tương xung tương khắc gọi là minh xung, tứ trụ bị lưu niên đại vận tương
xung
tương khắc gọi là ám xung. Địa chi đắc lệnh đương quyền mà đi xung khắc
các địa
chi thất lệnh bất đương quyền tất suy càng suy cùng cực bị thương tổn,
ngược lại
địa chi thất lệnh mất quyền mà lại đi xung khắc địa chi đắc lệnh đương
quyền tất
chi vượng càng vượng không bị thương tổn. Cái địa chi mà có lực thì có
thể xung
khử cái địa chi vô lực, tuy nhiên nếu hung thần bị xung khử thì tốt, còn
nếu hỷ
thần bị xung khởi tất mang họa; bằng ngược lại, cái địa chi vô lực mà đi
xung
khắc có lực chẳng những không thể xung khử được mà trái lại còn bị xung
khắc
ngược trở lại nữa, nếu như cái địa chi vô lực ấy mà đi xung khử hung
thần tất
mang họa, còn đi xung khử cát thần tuy không mang họa nhưng cũng không
mang lại
lợi ích to lớn gì. Ví như nhật chủ địa chi ngọ hỏa, hay hỷ thần là ngọ
hỏa,
trong trụ có dần, mão, tỵ, mùi, tuất các loại, gặp địa chi tý thủy xung
tức suy
thần xung vượng thần nhật chủ không bị thương tổn; ngược lại, nhật chủ
địa chi
ngọ hỏa, hay hỷ thần thuộc địa chi ngọ hỏa, trong tứ trụ có thân, dậu,
hợi, tý,
sửu, thìn các loại, gặp địa chi tý thủy vượng xung tất ngọ hỏa suy lại
càng
suy. Dư các chi còn lại đều suy như vậy. Tuy nhiên tý ngọ mão dậu, dần
thân tỵ
hợi tương xung nhau đáng nên xem trọng, còn thìn tuất sửu mùi tương xung
nhau
thì cũng không quan trọng lắm. như tý ngọ tương xung, địa chi tý thủy
tàng chứa
quý thủy đi xung khắc đinh hỏa tàng trong địa ngọ hỏa, nếu như ngọ lâm
nguyệt lệnh
hay cùng hành với lệnh tháng, tứ trụ không có hành kim mà có hành mộc
tất hỏa
quá vượng tý thủy không những không thể xung khắc ngọ hỏa mà trái lại
còn bị ngọ
hỏa khắc ngược trở lại nữa; mão dậu tương xung, địa chi dậu kim tàng
chứa tân
kim, đi xung khắc ất mộc tàng chứa trong chi mão, nếu như mão mộc lâm
nguyệt lệnh
hay cùng hành với lệnh tháng, tứ trụ có hành hỏa mà không có hành thổ
tất mộc
quá vượng dậu kim không những không thể xung khắc mão mộc mà trái lại
còn bị
mão mộc khắc ngược trở lại nữa; dần thân tương xung, địa chi dần tàng
chứa giáp
mộc bính hỏa, bị địa chi thân tàng chứa canh kim nhâm thủy tương khắc,
tuy nhiên dần mộc vượng hay là nguyệt lệnh trong trụ, tứ trụ có bính
đinh tị ngọ
hỏa, tắc chi dần cũng có thể xung khắc chi thân; tị hợi tương xung, địa
chi tị
tàng chứa bính hỏa mậu thổ, bị địa chi hợi tàng chứa giáp mộc nhâm thủy
tương
khắc, tuy nhiên tị hỏa vượng hay là nguyệt lệnh trong trụ, tứ trụ có
giáp ất dần
mão mộc, tắc chi tị hỏa cũng có thể xung khắc chi hợi thủy. Bởi thế cho
nên xét
sự vượng suy của tứ trụ trước cần phải xem xét sự suy vượng, có hay
không có giải
cứu, hoặc ức xung, hoặc trợ tiết, xét cái đại thể, nghiệm cái hỷ kỵ, từ
đó mà
biết đựợc cát hung vậy. Đến như tứ khố huynh đệ tương xung, mộ khố tàng
chứa
nhiều thiên can, cần nên xem xét bốn thiên can trên năm tháng ngày giờ
có dẫn
xuất hay không có dẫn xuất. Nếu như tứ trụ can chi không có dẫn xuất,
hay là
nguyệt lệnh là đề cương, thì không cần phải lo sợ xung khắc, dẫu có bị
xung khắc
cũng không hại gì, gặp hợp lại càng hay. Nguyên cục cùng đại vận lưu
niên đều luận
như vậy.
Tứ trụ tài tinh đang lệnh, mà lại
còn được thực thần trên trụ năm sinh trợ tài tinh, nhật trụ gặp tỵ hỏa
lộc ở trụ
giờ tương trợ, cho nên nhật trụ hữu thông căn có khí, cho nên xuất thân
từ nhà
giáu có. Trụ giờ thấu xuất quý thủy, chi giờ tỵ hỏa thất thế, gặp dậu
kim tất củng
hợp dậu kim vậy. Ngũ hành thiếu mộc, toàn nhờ ngọ hỏa phò trợ nhật chủ,
từ đó
cho thấy quý thủy là kỵ thần vậy. Đại vận tý thủy, quý thủy đắc lộc
vượng địa,
chi tý thủy cùng chi thìn thổ bán hợp hóa thủy, địa chi dậu kim củng phò
chi tý
thủy mà xung khử địa chi ngọ hỏa, tứ trụ không có thần giải cứu, thế cho
nên mới
nói “vượng giả xung suy suy giả bạt”,
vì
vậy mà nhà cửa tan nát mạng vong. Nếu như đại vận đến đông nam mộc hỏa
vượng địa,
lý nào mà không đạt được danh lợi ư?
Tứ trụ tài quan hư nhược vô
căn, kiêu tỷ đang quyền đắc thế, theo đấy mà luận tất là mệnh bần yểu.
Tứ trụ
trước thân tài đều vượng, trở lại phá bại chết yểu, nếu như tài quan hưu
tù có
lẻ mạng số trường thọ, mà không biết rằng hỏa không có mộc gặp thủy
vượng xung
khắc tắc tán, còn tứ trụ này có thủy, gặp hỏa tỉ kiên phò trợ tất có cứu
thần.
Đại vận giáp thân ất dậu, canh kim lộc vượng, nhâm quý thủy phùng sinh,
trở lại
xung khắc dần mão mộc, thế cho nên mới nói “suy thần xung vượng vượng
thần phát”,
đột nhiên phát tài cự vạn. cổ ca vân: “mệnh hảo bất như vận hảo”, câu
nói ấy thật
đáng nên tin vậy!
__________________ Cố ý nài hoa hoa chẳng chịu
Vô tình ép liễu liễu ok!
Đã tham gia: 17 May 2010 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 331
Msg 10 of 20: Đã gửi: 18 May 2010 lúc 1:36am | Đã lưu IP
Chương 9
Can Chi tổng luận
Âm dương thuận
nghịch chi thuyết, “Lạc
Thư” lưu hành chi dụng, kỳ lý tín hữu chi dã, kỳ pháp bất khả chấp nhất.
Nguyên chú:
Âm dương sinh tử, dương thuận âm nghịch, lý ấy phát xuất từ “lạc thư”.
Ngũ hành lưu hành trong trời đất lấy đó mà làm dụng, tất nhiên cái lý ấy
có thể
tin được, còn như giáp mộc tử ở chi ngọ, ngọ hỏa tiết khí giáp mộc, lý
lẻ tất
nhiên là như thế, nhưng ất mộc tử ở chi hợi, hợi tàng nhâm thủy sinh ất
mộc tức
con được mẹ sinh, hà cớ vì sao lại tử? Thế cho nên đại phàm luận đoán tứ
trụ
trước tiên phải nên am tường cái can chi khinh trọng, cái sinh ta và cái
ta
sinh ra sao, lý lẻ âm dương tiêu tức như thế nào sau đó mới có thể dự
đoán họa
phúc cát hung vận số. Bằng như cứ chấp nê vào cái thuyết sinh tử bại
tuyệt, tất
suy đoán sai lầm lớn vậy.
Nhâm thị viết:
Cái
thuyết âm dương thuận nghịch, lý phát xuất từ “lạc thư”, hai cái khí này
lưu
hành trong trời đất làm dụng, chẳng qua dương khí tính hay tụ, nên lấy
tiến làm
thối, âm khí tính hay tán, nên lấy thối làm tiến. Thế cho nên người học
dự đoán
cát hung mệnh vận bất tất chuyên lấy thuận nghịch làm luận lý, mà cần
nên quan
sát xem nhật chủ suy vượng, nghiệm xem căn gốc nông sâu ra sao, xét xem
tứ trụ
dụng thần hữu lực hay vô lực, từ đó mà biết được cát hung vậy. Đến như
trường
sinh mộc dục các loại, cũng chỉ là mượn danh gọi để chỉ cho hậu học hình
dung
mà thôi. Nó nói lên giai đoạn thành, thịnh suy hủy của kiếp người hay sự
vật.
Trường sinh chỉ con người mới bắt đấu sinh; do con người mới sinh cần sự
tắm sạch
nên gọi là mộc dục, hình thể dần dần lớn mạnh gọi là quan đới, lâm quan
là giai
đoạn con người xuất sĩ ra làm quan, đế vượng là giai đoạn cực thịnh của
con người
và thịnh cực tắc suy cho nên thời kỳ này gọi là suy, suy lâu thời tắc
bệnh, bệnh
lâu thời phải chết hai giai đoạn này gọi là bệnh tử, tạo hóa ra muon
loài cũng
từ đất và cũng là nơi mộ địa của muôn loài, vạn vật bị chôn vùi trong mộ
địa
khí suy cùng cực cho nên hai giai đoạn này gọi là mộ tuyệt của sự vật;
sự vật
trong trời đất không thể nào suy tuyệt mãi cho nên vật cực tất sinh thời
kỳ này
gọi thai dưỡng, và cứ như thế mà tuần hoàn lưu chuyển không ngừng vậy.
Đến
như nhật chủ bất tất sinh phùng lộc vượng, tức nguyệt lệnh hưu tù, mà
trong trụ
năm ngày giờ đắc trường sinh lộc vượng, nhân đó được xem là cường vượng,
hay
như tứ trụ còn địa chi có khố cũng được coi như là có căn gốc. Nên mới
có cái
thuyết là đầu mộ cần nên xung động, tục thư thật sai lầm quá vậy. Cổ
pháp duy
chỉ có tứ trường sinh, chứ không bao giờ có cái thuyết rằng tý, ngọ,
mão, dậu
là âm trường sinh bao giờ cả. Thủy sinh mộc, thân là cung vị thiên quan,
hợi là
thiên môn, thiên nhất sinh thủy, tức sinh sinh không ngừng, thế cho nên
mộc trường
sinh tại hợi là thế. Cung vị ngọ hỏa là nơi tử địa của mộc, do mộc sinh
hỏa liệt
hỏa thiêu cháy mộc mà ra. Các loại ngũ hành khác cứ thế mà suy.
Như ngũ hành can dương sinh ra ở nơi sinh phương, thịnh ở bản phương,
suy ở tiết phương, tuyệt nơi khắc phương, lý ấy tất nhiên là như vậy;
còn ngũ
hành can âm sinh ra ở tiết phương, tử ở sinh phương, lý ấy thật trái với
tự
nhiên vậy. Lại còn nói là “Đất tý ngọ cung không thể sinh kim sinh mộc;
Đất
hợi dần không thể diệt hỏa diệt mộc”. Cổ nhân thủ cách, đinh gặp dậu lấy
tài luận,
ất gặp ngọ, kỷ gặp dậu, tn6 gặp tý, quý gặp mão lấy thực thần tiết khí
luận,
toàn không lấy trường sinh luận. Ất gặp hợi, quý gặp thân lấy ấn luận,
không
nên luận tử. Lại như kỷ gặp dần tàng can bính hỏa, tân gặp tỵ tàng can
mậu thổ,
cũng đồng ấn luận, không nên luận tử. Từ đó cho thấy, âm dương đông sinh
đồng tử
là điều dể hiểu, bằng như cố chấp âm dương thuận nghịch, dương sinh âm
tử, âm
sinh dương tử lấy đó mà luận mệnh, rất có thể sai lầm lớn vậy. Cho nên,
“Chương
Tri Mệnh” có nói “thuận nghịch chi cơ tu lý hội” là như vậy đó.
Bính tý kỷ hợi ất
hợi bính tý
Canh tý tân sửu
nhâm dần quý mão giáp
thìn ất tỵ.
Nhật nguyên ất hợi sinh vào tháng hợi, rất mừng lưỡng bính hỏa thấu
can,
không sợ mất đi cái vẻ đẹp của mùa xuân. Hàn mộc hướng dương, thanh
thuần không
tạp, tiếc rằng bính hỏa không có căn gốc, thủy mộc lại thái quá, văn
nghiệp
không thành tựu; với lại trung vận nhất lộ thủy mộc sinh phù thái quá,
hỏa thồ
trong trụ bị tổn thương, đọc sách không thành nhưng tài vận thì rất tốt
đẹp. Tứ
trụ mừng không thấy kim tất sự nghiệp thanh cao. Nếu
như cứ cố chấp theo luận thuyết cho rằng ất mộc bệnh ở trụ năm trụ giờ
tý thủy,
tử ở trụ tháng hợi, từ đó suy ra rằng nhật nguyên suy kiệt cùng cực, rất
nên lấy
dụng thần sinh phù nhật chủ, rồi chọn lấy hợi tý thủy làm dụng thần sinh
trợ nhật
thần, từ đấy không nên tái kiến thủy mộc vậy.
Tứ
trụ quý thủy sinh vào mùa xuân trong trụ ất mộc xuất hiện quá nhiều,
nhật
nguyên tiết khí thái quá, ngũ hành vô kim tư phù, chỉ dựa vào quý hợi
thủy trụ
giờ bang trợ. Hiềm vì hợi mão bán hợp mộc cục, thiên can lại xuất hiện
mậu thổ
khắc tiết cùng cực, đại vận mậu ngọ hỏa thổ đồng lâm khắc tiết quý thủy
nhật
nguyên mạng vong. Nếu như cứ cố chấp theo ngụy thư cho rằng quý thủy
trường
sinh ở trụ thán và trụ ngày, trụ giờ cư kình dương vượng địa, hà cớ vì
sao mà
đoản mệnh? Lại còn nói “thực thần hữu thọ đa thê tử, thực thần sinh
vượng thắng
tài quan”, lấy tứ tụ trên mà nói danh lợi lưỡng toàn, nhiều con cháu
chăng. Nói
cho cùng thì cái thuyết âm dương thật không lấy chi làm bằng chứng
thật.
__________________ Cố ý nài hoa hoa chẳng chịu
Vô tình ép liễu liễu ok!
Đã tham gia: 31 May 2010 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 16
Msg 13 of 20: Đã gửi: 24 June 2010 lúc 11:14am | Đã lưu IP
Polaris đã viết:
“Chương 4: Tri Mệnh ….
Nhâm thị viết: …
Dư tường khảo cổ thư, tử bình chi pháp, toàn tại tứ trụ ngũ hành. Sát kì suy vượng, cứu kì thuận bội, thẩm kì tiến thối, luận kì hỉ kị, thị vi lý hội. chí vu kì cách dị cục, thần sát nạp ạm chư danh mục, nãi hảo sự vong tạo, phi quan mệnh lý hưu cữu. nhược cư thủ luận mệnh, tất chí dĩ chính vi mậu, dĩ thị vi phi, ngoa dĩ truyền ngoa, toại sử cát hung chi lý, hôn muội nan minh hỉ. thư vân:” dụng chi vi tài bất khả kiếp, dụng chi vi quan bất khảthương, dụng chi vi ấn bất khả phối, dụng chi vi thực thần bất khả đoạt”. thử tứ cú nguyên hữu chí lý, kì yếu tại nhất “dụng” tự. vô tri học mệnh giả, bất cứu “dụng” tự căn nguyên, chuyên dĩ tài quan vi trọng, bất tri bất dụng tài tinh tẫn khả kiếp, bất dụng quan tinh tẫn khả thương, bất dụng ấn thụ tẫn khả phối, bất dụng thực thần tẫn khả đoạt. thuận bội chi cơ bất lý hội, dữ lung hội hà dị khởi năng luận cát hung, biện hiền phủ, nhi hữu công vu thế tai! Phản ngộ thế hoặc nhân giả đa hĩ! ….. ……
Dịch nghĩa: …. Ta từng khảo xét cổ thư, phương phương pháp tử bình, họa phúc cát hung thọ yểu toàn tại tứ trụ ngũ hành. Xem xét sự suy vượng, nghiên cứu sự thuận nghịch, xét đoán sự tiến thoái mà luận hỉ kỵ, ấy thế mà lỉnh hội được. đến như cách hay cục lạ, lấy đó làm chính lý tất sai lầm lớn, ngoa dĩ truyền ngoa, nhân đó làm lý cho sự cát hung, thật là hôm muội khó sáng vậy. thư vân:”dụng thần tài tinh không nên gặp kiếp tài, dụng thần quan tinh không nên gặp thương quan, dụng thần ấn tinh không nên gặp tài, dụng thần thương thực không nên gặp kiêu”, bốn câu trên thật chí lý, cốt yếu ở một chử “dụng”. người học mệnh không hiểu biết, không nghiên cứu căn nguyên cho tường tận, chuyên lấy tài quan làm trọng, mà không biết rắng:”dụng thần tài tinh có thể dụng kiếp, dụng thần quan tinh có thể dụng thương quan, dụng thần ấn tinh có thể dụng tài, dụng thần thương thực có thể dụng kiêu”. Cái cơ thuận nghịch không lĩnh hội được, mômg muội đến thế làm sao có thể luận cát hung, biện hiền ngu, làm mê hoặc kẻ hậu học như thế thật quá lắm vậy!...
Đoạn gạch chân nêu trên ban đầu bạn Vnn1269 dịch không đúng, bác Tử bình gia gia đã góp ý và Vnn1269 đã sửa thành ".... mà không biết rắng:”chẳng dụng tài tinh có thể dụng kiếp, chẳng dụng quan tinh có thể dụng thương quan, chẳng dụng ấn tinh có thể dụng tài, chẳng dụng thương thực có thể dụng kiêu”...". Ý viết ở đây tương tự như một đoạn trong Bách Diệp Thư mà bác Mai Thôn đã trích khi viết "Luận về Thương quan cách": “Tùy theo tính đắc dụng đối với thân mà xét thiện hay ác, Tài Quan Ấn Thực dù thể tính là thiện thần nhưng đối với thân vô dụng thì dụng tính cũng là ác thần. Thương Sát Tỉ Kiếp Kiêu dù thể tính là ác thần, nhưng đối với thân hữu dụng thì dụng tính vẫn là thiện thần. Cái nào phối hợp cách cục đắc dụng cũng đều tạo nên Quí Cách, cái nào phối hợp cách cục vô dụng, cũng đều thành phá tiện cách.”
Sửa lại bởi Van_Basten : 24 June 2010 lúc 11:23am
__________________ Đầu ghềnh sóng bủa ngọn tùng,
Gian nan là nợ anh hùng phải vay.
Đã tham gia: 22 May 2010 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 130
Msg 14 of 20: Đã gửi: 27 June 2010 lúc 6:29am | Đã lưu IP
Lúc trước Vnn1269 chỉ dịch đến 1 đoạn thì kết thúc.Sau có vài khúc ngắn của mấy thành viên khác thì hết.Nên có lẽ Polaris chỉ post đến đây thôi.... - Mong ước sao lại được quý vị am hiểu post tiếp thì mọi người rộng đường phát triển học thuật...Chứ mấy loại sách này không có lợi ích kinh tế nên khó có sách xuất bản. -Nghiên cứu mấy môn này thật là ít sách vở thật....
Đã tham gia: 17 May 2010 Nơi cư ngụ: Japan
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 79
Msg 17 of 20: Đã gửi: 13 September 2010 lúc 10:01pm | Đã lưu IP
Polaris đã up lại đến đây. Vậy để PD post phần tiếp theo ở mục này.
Nguyên chú: Bất luận hữu căn vô căn, đều cần thiên phúc địa tái.
Nhâm thị viết: Phương pháp dụng can chi, thiên can vượng suy do địa chi sanh phù hay khắc hại, địa chi vượng suy cũng do thiên can sanh phù, khắc hại vậy. Như can giáp ất gặp dần, mão, hợi, tý tức được sinh trợ; gặp thân dậu tức bị khắc hại. Can bính, đinh gặp hợi, tý bị chế, gặp tị ngọ dần mão tất được sanh. Như địa chi dần, mão mà gặp can giáp, ất, nhâm, quý tức được sanh trợ; gặp canh, tân tức bị khắc bại; địa chi tị, ngọ không nên gặp nhâm, quý tức bị chế phục; mừng gặp giáp, ất, bính đinh.Can chi tương thông, can được chi sinh tức can vượng, can bị chi khắc tức can suy. Chi được can sinh, tức chi mạnh lên, chi bị can khắc tức chi suy vậy. Phàm mệnh tứ trụ có cát thần mà không xem là cát, có hung thần mà không xem là hung đều do nguyên nhân này.
Canh kim tuy sanh trọng xuân, nhờ chi thân mà lộc vượng, trên can thấu kỷ tức ấn thụ, có thể dụng đinh làm dụng thần. Địa chi mão mộc tài tinh, thêm được hợi thủy sanh trợ hữu tình, đinh hỏa có gốc vững mạnh ở chi. Vận trình nhâm quý hợi tý, can thấu kỷ bảo vệ đinh hỏa, chi vận hợi tý sinh trợ mão mộc mà không khắc đinh hỏa quan tinh, địa chi đắc tài cục hóa thương quan, cuộc đời thật hanh thông, không có bất trắc nào đáng ngại, thiếu niên khoa giáp, làm quan đến tướng soái. Kinh vân “Nhật chủ nên vượng, dụng thần không nên bị khắc hại” lời đáng xem trọng vậy.
Trụ này có thể dụng quan tinh đinh hỏa, địa chi mão mộc tài tinh. So với mệnh ở trên tuy đại đồng mà tiểu dị.Do mão dậu xung nhau, khắc phá mão mộc khiến cho đinh hỏa vô căn, tứ trụ thiếu thủy nên tài tinh bị khắc mạnh, mà không được sinh phù. Trên can tuy thấu giáp mộc nhưng giáp tọa thân kim, bị khắc vô sanh nên giáp mộc không thể sanh trợ cho đinh hỏa. Xuất thân thế gia, học hành thi cử kém cõi, hình thương hao tán, giao vận nhâm tuất, địa chi vượng kim, nghèo khổ không kể xiết.
Mệnh này canh tân nhâm quý, kim thủy tương sinh, địa chi thân dậu tị ngọ, ngọ hỏa làm dụng đắc thế, cầu được danh lợi (hỏa khí luyện kim). Tứ trụ ngũ hành vô mộc, kim tuy thất lệnh nhưng nhiều, hỏa tuy đương lệnh nhưng không có trợ. Canh tân sinh trợ nhâm quý, canh tân lâm trường sinh hữu lực nên sinh nhâm thủy cuồn cuộn. Tuy có tị hỏa trợ ngọ, nhưng tị dậu bán hợp kim cục thành ngọ hỏa thế cô. Hai vận giáp thân, ất dậu, hao tán cùng cực. Đến vận bính tuất, phò trợ dụng thần ngọ hỏa, đại thành đắc thế. Giao hợi vận, nhâm thủy đắc lộc, quý thủy lâm vượng, hỏa khí bị khắc tuyệt, vong mạng.
Mệnh này chọn sát đinh hỏa trong ngọ làm dụng thần, nhâm thủy trên can được canh kim sinh trợ. Mừng được ngọ hỏa trụ giờ tương trợ, thật đẹp khi trên can thấu giáp mộc, tất ngọ hỏa hữu lực có thừa. Nhâm thủy sinh giáp mộc mà không khắc đinh hỏa, tứ trụ hữu tình tương sinh vô khắc, đăng khoa hương bảng, công thành danh toại.
Đã tham gia: 17 May 2010 Nơi cư ngụ: Japan
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 79
Msg 18 of 20: Đã gửi: 13 September 2010 lúc 10:04pm | Đã lưu IP
Nguyên chú:4 giáp 4 ất mà ngộ dần thân mão dậu là địa chi không trợ thiên can.
Nhâm thị viết: Thiên can nhất khí, như 4 giáp, 4 ất, 4 bính, 4 đinh, 4 mậu, 4 kỷ, 4 canh, 4 tân, 4 nhâm, 4 quý; Địa chi không trợ, địa chi và thiên can không sanh hóa. Đặc biệt4 giáp, 4 ất mà ngộ thân dậu thì không được trợ, tức toàn bị địa chi khắc. Hoặc phản khắc địa chi, hoặc không tương thông địa chi, hoặc địa chi không tương thông thiên can đều là không tương trợ. Như 4 trụ đều là ất dậu, tức chi khắc can, như 4 trụ tân mão phản lại can khắc chi; chi sanh can, can sinh chi tắc lưu thông sinh hóa hữu tình, không bị thiên khô, với lại đắc tuế vận sẽ được phú quý vậy. Bằng như không tương sinh mà lại xung khắc, ngũ hành thiên khô mà bần tiện vậy. Nên nghiên cứu kỹ càng.
Chi năm thân kim, xung dần mộc nhật chủ, tuất thổ đương quyền sinh kim trợ sát, địa chi không khắc chế nhật chủ do thiếu dẫn xuất trên can. Trụ có 4 giáp, một dần tựa hồ cuờng vượng, nhưng mộc mùa thu hưu tù, xung dần vô lộc, không luận vượng được. Đại vận dần mão hợi tý, cơm no áo ấm sung túc có thừa; vận canh thìn, canh kim thấu xuất, tứ giáp thụ thương khắc, tán gia bại sản. Trụnhiều thiên can, không bằng được địa chi có gốc sinh phò, lý đó thật đúng vậy.
Trụ này toàn cục hỏa thổ, tý suy ngọ vượng, xung ắt ngọ phát mãnh liệt, thủy càng suy nhược, nhật chủ cực vượng. Sơ vận, cơ khổ cùng cực, đến vận canh thân tân dậu, tiết khí mậu thổ, đại thành, thành gia lập nghiệp. Giao vận nhâm tuất, thủy bất thông căn, ám hội hỏa cục, gặp đại biến, một nhà năm mạng đều mất. Nếu như thiên can thấu một canh tân, hoặc địa chi tàng một thân dậu, kết cục đâu đến nỗi.
Mệnh này khác mệnh trên nhờ chi thân ở năm, mà thiên can được tiết khí, địa chi tàng thủy có gốc, ngọ hỏa tuy mãnh liệt nhưng không khắc hại thân kim, dụng thần là kim vậy. Giao vận canh thân, năm mậu thìn, tháng tư nhập học, tháng chín đăng khoa, do đắc thái tuế chi thìn, ám hội thủy cục mà diệu dụng. Đến vận nhâm tuất, thiên can tỉ kiếp đoạt tài, địa chi ám hội hỏa cục, không thấy cát lợi hĩ.
Mệnh này tứ mão mộc nắm lệnh đương quyền, 4 can tân lâm tuyệt địa, tuy khắc địa chi nhưng vô lực. Nếu thiên can tân kim vượng khắc mão mộc có thể dụng tài, tất sẽ phát phú. Sống với cha mẹ được mấy năm thì cha mẹ đều mất, theo đạo sĩ làm đồ đệ. Vận kỷ sửu, mậu tý ấn thụ sinh phù, tân kim vượng, áo cơm đầy đủ, giao vận đinh hợi, chi hợi sinh mão, mão mộc sinh trợ đinh hỏa khắc kim, tán gia bại sản mà chết.
Tóm lại: Trụ có 4 can đồng một khí, nếu can vượng cần nên gặp vận tiết khí thiên can, nếu thiên can suy nhược mừng gặp vận trình sinh phò, tất là đại phúc.
Đã tham gia: 17 May 2010 Nơi cư ngụ: Japan
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 79
Msg 19 of 20: Đã gửi: 13 September 2010 lúc 10:07pm | Đã lưu IP
Tam hội cục
Nguyên chú: Dần mão thìn, hợi mão mùi mà ngộ giáp canh ất tân, ắt thiên can không dụng được. Nhưng mà không chỉ toàn nhất khí cùng tam hội cục, bất luận hữu căn vô căn, đều cần thuận theo khí thế, can chi không bội phản là tuyệt diệu.
Nhâm thị viết: Điạ chi tam hội cục, như dần mão thìn, tị ngọ mùi, thân dậu tuất, hợi tí sửu. Như dần mão thìn: Nhật chủ thuộc mộc cần phải có thiên can nhiều hỏa, nhật chủ thuộc hỏa cần phải có thiên can kim vượng, nhật chủ thuộc kim cần phải có thiên can thổ vượng. Hầu hết tam hội cục thì khí thế rất vượng. Gặp nhật chủ vượng thần tại đề cương tháng, thiên can phải thuận theo khí thế, nên tiết khí nhật chủ. Nhưng nếu thiên can hữu lực, vượng tại đề cương tháng thì khắc chế nhật chủ vậy, có thể làm dụng thần. Như tam hội mộc cục, đề cương tháng là dần mão, nên canh tân kim suy tuyệt không thể làm dụng; như đề cương tháng là thìn, tứ trụ lại có canh tân được thìn thổ sinh trợ, có thể làm dụng được vậy. Mộc phương như thế, còn lại mà suy ra.
Trụ có dần mão thìn tam hội mộc cục, thêm chi dần nên mộc cực vượng. Trên can thấu canh tân kim lâm tuyệt địa tại lệnh tháng, kim suy không khắc được giáp mộc. Hơn nữa, can thấu bính hỏa, nên mộc hỏa tương sinh, bính hỏa cực vượng khắc hại canh tân, lấy bính hỏa làm dụng thần. Vận trình kỷ sửu, mậu tý, thổ vận sinh kim, phá tán dị thường, đinh hợi vận tiến kinh nhập bộ, đến bính tuất vận, lập được đại công, thăng tri huyện. Vận khắc hại canh tân là vận cát vậy. Đến vận ất dậu, canh tân đắc địa, không lộc.
Tam hội mộc cục dần mão thìn. Tuy nhiên đề cương tháng chi thìn thổ đương quyền, canh kim được sinh phò đủ sức khắc mộc, đinh hỏa tuy thấu, không khắc hại canh kim, vậy dụng canh kim, lấy sát làm dụng thần. Vận giáp thân, canh kim lộc vượng ám xung dần mộc, khoa giáp liên đăng, làm đến tri phủ; giao vận bính tuất, bính hỏa khắc chế canh kim, hàng chức quy điền.
Đã tham gia: 17 May 2010 Nơi cư ngụ: Japan
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 79
Msg 20 of 20: Đã gửi: 13 September 2010 lúc 10:09pm | Đã lưu IP
Nguyên chú: Trong 6 địa chi dương, chỉ duy nhất dần thìn là dương phương, là thuần dương vị. Địa chi dương, nếu như là vượng thần, cần nhất hành vận âm thuận.
Nhâm thị viết: Trong 6 địa chi dương thì có dần, thìn, ngọ là thuần dương (dương noãn), cần phân biệt dương hàn dương noãn mà luận; còn mùi, thân, tuất, là dương hàn. Phương tây bắc là hàn, phương đông nam là noãn. Nếu tứ trụ toàn chi dương tây bắc: thân, tuất, tý tức dương hàn tối cần gặp hành vận chi âm noãn là mão, tị, mùi (phương đông nam); nếu như tứ trụ toàn chi dương đông nam là dần, thìn, ngọ tức dương noãn tối cần gập hành vận chi âm hàn dậu, hợi, sửu. Luận theo đại cục nếu nhật chủ thuộc mộc, hoặc hỏa, hoặc thổ mà tứ trụ toàn chi dương noãn (phương đông nam), nên gặp hành vận tây bắc chi âm hàn (âm thủy, âm mộc, âm hỏa) là nơi có thể sinh trợ dụng thần mà đắc dụng. Nếu gặp hành vận tây bắc chi dương hàn (dương thủy, dương mộc, dương hỏa) tất là dương cô không sanh, cho dù sanh trợ hỉ thần, cũng vô cùng gian nan. Luận về dương noãn dương hàn : “Dương thịnh cương kiện, có thể phối với âm thịnh nhu thuận chi địa” là vậy. Nếu không nghiên cứu thâm sâu, dụng tinh vi thì sao đắc yếu huyền cơ được?
Trụ này địa chi dương lại thuộc phương đông nam. Tựa hồ kim thủy vô căn, mừng là chi tháng thìn thổ, tiết hỏa sinh kim, canh kim được sinh có lực nên có thể làm dụng thần. Canh kim là nguyên thần của quý thủy. Sơ vận, ất mão giáp dần, kim lâm tuyệt địa, hỏa vượng, mà thủy bị tiết chế quá nhiều, cơ khổ cùng cực, giao vận quý sửu, kim thuỷ thông căn, thêm tị dậu bán hợp kim cục, xuất ngoại buôn bán hanh thông, phát tài thập vạn. Dương noãn gặp hàn khí, tương phối thật đẹp vậy.
Ngày bính dần, tuy địa chi có 3 dần, may mắn là sửu thổ đương quyền, tài tinh quy khố. Nếu vận hành tây bắc thổ kim, tài nghiệp sẽ tạo lập thành công, chỉ tiếc hành vận đông nam mộc hỏa vượng, tổ nghiệp phá tán, bôn ba vất vả, đến ngọ vận ám hội hỏa cục tỷ kiếp sinh vượng, mà mất mạng. Nhất sự vô thành, chẳng phải do vận đó sao.
Bạn không thể gửi bài mới Bạn không thể trả lời cho các chủ đề Bạn không thể xóa bài viết Bạn không thể sửa chữa bài viết Bạn không thể tạo các cuộc thăm dò ý kiến Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm dò
Trang này đã được tạo ra trong 2.0781 giây.
DIỄN ĐÀN NÀY ĐÃ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG