Msg 1 of 1: Đă gửi: 06 December 2010 lúc 12:47pm | Đă lưu IP
|
|
|
Có một Ni cô trên đường t́m chân lư đă
chắt chiu nhờ thợ tạc riêng cho ḿnh một tượng Phật nhỏ cỡ chừng gang
tay bằng gỗ ngoài thếp vàng. Tượng Phật đó rất đẹp và Ni cô rất trân
quí; đi đâu cũng mang theo, và thường đốt hương cúng dường cho Phật nữa.
Năm tháng trôi qua, Ni cô vẫn luôn mang
vác tượng Phật trên vai đi khắp nơi. Một ngày kia, nghĩ ḿnh cũng lớn
tuổi rồi, Ni cô dừng chân lại một ngôi chùa nhỏ miền quê; nhưng chùa này
lại có rất nhiều tượng Phật lớn nhỏ. Mỗi vị Phật đều có bàn thờ riêng
cả. Nh́n lại pho tượng Phật nhỏ xíu của ḿnh, Ni cô thấy trong ḷng ái
ngại quá. Ở nhờ chùa người ta nên khó lập bàn thờ riêng cho Phật ḿnh,
Ni cô đành phải thờ ké bàn thờ vậy.
Từ hồi nào đến giờ, Ni cô thường đốt
hương trầm cúng dường “Phật của ḿnh”, nay trong cảnh thờ chung như vậy,
Ni cô thấy trong ḷng bất ổn; mấy ông Phật trụ xứ nhiều quá, ông nào
ông nấy to lớn, lỗ mũi to như qủa quít thế kia th́ hít hết khói hương
trầm, c̣n ǵ cho ông Phật của ḿnh nữa. Thiệt tḥi cho Phật ḿnh quá !
Ngày đêm suy nghĩ, Ni cô t́m được một kế
thượng sách. Ni cô lấy giấy và ống nhựa nhỏ quấn lại với nhau thành
h́nh một cái phễu (ống quặn) vừa đủ khói xông lên hun thẳng vào mũi ông
Phật ḿnh. Hay quá, thế là mấy ông Phật trụ xứ kia đừng ḥng ngửi ké
nhá. Ni cô rất hoan hỷ, trong ḷng vui sướng, ăn ngủ ngon lành.
Trải qua mấy tuần lễ đốt hương xông
thẳng vào mũi Phật, cái lỗ mũi tượng Phật của Ni cô đen thui đầy muội
hương trong khi mấy pho tượng Phật trụ xứ chẳng có sao hết. Cái lỗ mũi
đen trên pho tượng Phật bằng vàng làm cho pho tượng trông xấu xí, kỳ cục
hơn các tượng Phật khác.
Ối chao, làm Phật rồi mà c̣n khổ thế. Khổ thay, khổ thay !
Vấn đề then chốt nhất của người đi t́m chân lư giải thoát là phải phân biệt rơ ràng ranh giới giữa Yêu, Ghét, Tham Đắm và Ràng Buộc.
Cái ranh giới đó hay bị lẫn lộn nhập nhằng với nhau, nhưng thực ra,
chúng khác nhau đấy. Sự ràng buộc đắm trước là một tai họa, một nguy
hiểm giết chết T́nh Yêu. Không có một vật ǵ nguy hiểm hơn, độc hại hơn
ḷng chiếm hữu dính mắc.
Bạn phải cố gắng hiểu cho kỹ điểm này, rồi chúng ta đi vào cốt truyện.
Rất nhiều người đă lầm lẫn T́nh Yêu và sự Chiếm Hữu. Chiếm Hữu không
phải là mặt trái, không phải là một phần của T́nh Yêu ǵ cả. Nó là sự
đối nghịch hoàn toàn.
T́nh Yêu (viết hoa) không đơn thuần có ư
nghĩa là t́nh yêu nam nữ, mà c̣n là t́nh yêu quê hương, t́nh yêu cha
mẹ, t́nh yêu chúng sanh, v.v… Một thứ t́nh yêu bao la không biên giới,
không phân biệt màu da, chủng tộc, quốc gia ǵ cả. Sức mạnh T́nh Yêu Đại
Đồng này có công năng tiêu hủy cái tự ngă vị kỷ hẹp ḥi của bạn để bạn
ḥa hợp ḿnh vào với mọi người, với chúng sanh, với vũ trụ và sẽ giúp
bạn thăng hoa nhân cách tới mức tối thượng. Hơn thế nữa, T́nh Yêu Đại
Đồng đó sẽ giúp bạn đối diện dễ dàng với cái chết, và từ đó, bạn cũng sẽ
dễ dàng thực tập thiền định.
T́nh Yêu sâu thẳm hơn cái Chết, Thiền
Định sâu thẳm hơn T́nh Yêu. Trong thiền định, tự ngă của bạn phải vắng
bóng; cái tự ngă của bạn phải chết đi. Khi bạn không dính mắc bám víu
một cái ǵ, khi bạn ḥan ṭan thoát ly ra được cái ngục tù “Tự Ngă” th́
bạn mới thể nhập được vào Đại Định. Danh từ tiếng Anh “Ecstasy” rất đẹp
và có ư nghĩa. “Ecstasy” có nghĩa là đứng bên ngoài, đứng ngoài lề.
Nhưng trong đạo Phật, “Đại Định” mang ư nghĩa sâu xa hơn, hàm xúc hơn,
triệt để hơn ư nghĩa xuất thần, nhập định rất nhiều.
Thiền Phật giáo không đơn thuần là trạng
thái xuất thần, đi vào những cảnh giới lạc thú như các cơi trời mà là
nghệ thuật kiến chiếu vào thể tánh của chúng ta; nó chỉ con đường từ
triền phược đến giải thoát, nó đưa chúng ta đến uyên nguyên của cuộc
sống, uống ngụm nước đầu nguồn, cởi bỏ tất cả những sự ràng buộc chấp
mắc. Khi nhập vào đại định, ta có thể khai phóng tất cả năng lực nội tại
và tự nhiên tích tập trong mỗi người chúng ta (Thiền Luận của Dr.
Suzuki). Nghệ thuật trong thiền chính là nghệ thuật học cách Chết. Chết
con người khốn nạn tầm thường này để trở thành một con người mới toàn
thiện hơn. Do đó, T́nh Yêu có nghiă là chết đi cái tự ngă nhỏ hẹp ích kỷ
để sống an lạc và chia xẻ hạnh phúc với mọi người, mọi loài… Nó khác xa
tính chất độc hại của sự chiếm hữu ràng buộc.
“Có một Ni cô trên đường đi t́m chân lư
đă dành dụm tiền nhờ tạc một tượng Phật bằng gỗ thếp vàng. Tượng Phật đó
rất đẹp và Ni cô đi đâu cũng mang theo kè kè…”. Từng chữ một trong câu
truyện này cần phải giải thích trọn vẹn. “Một Ni cô”, tại sao lại là một
ni cô mà không phải là một ông thầy tăng ? Có phải v́ đầu óc và trái
tim phụ nữ rất chật hẹp và thích chiếm hữu cho nên nhân vật cốt truyện
là một ni cô ?
Chúng ta khoan phê b́nh đánh giá vội.
Không phải chỉ riêng có phụ nữ mới có tánh ích kỷ, hẹp ḥi, tham lam, đố
kỵ, nhiều tật xấu đâu, mà những ngừơi đàn ông cũng có những tật xấu đó.
Nhưng trước hết, chúng ta thử phân tích “Tại sao người đàn bà ích kỷ,
sở hữu nhiều hơn đàn ông?” — Bởi v́ tánh ích kỷ sở hữu thoát thai từ sợ
hăi.
Phụ nữ là một linh vật yếu đuối về thể
chất. V́ sự yếu đuối thể chất đó, họ cần nương dựa; họ cần được bảo vệ.
Từ những ngày đầu của thời kỳ khai thiên lập địa, phụ nữ đă phải nương
dựa vào cánh đàn ông để được che chở và bảo vệ khỏi thú dữ để sinh tồn.
Lâu dần, họ trở nên phụ thuộc và tự biến ḿnh thành cái bóng sau lưng
người đàn ông. Và càng yếu đuối chừng nào, họ càng sợ thêm chừng đó,
càng sợ lại càng chiếm giữ ràng buộc, sợ mất đi sự che chở, sợ mất đi sự
bảo vệ, sợ mất đi sự nương dựa. Ngay cả khi họ đang đựơc bảo vệ, họ
cũng vẫn cảm thấy không hài ḷng thỏa măn. Họ vẫn cảm thấy bất an, lo sợ
sẽ mất đi cái an toàn, cái phao che chở đó, và từ đó, tánh chiếm hữu
ràng buộc tự lợi nẩy sanh, không muốn chia xẻ với ai cái họ đang nắm
giữ. V́ thế, trong câu truyện, h́nh ảnh ni cô, người phụ nữ, đă được lựa
chọn. Song, bạn cần phải nhớ kỹ rằng không có sự khác biệt ǵ nếu bạn
mang thân tướng đàn ông mà ích kỷ, hẹp ḥi, không rộng lượng th́ thể
chất đàn ông nhưng tánh khí đàn bà đó. Điều đó c̣n tệ hơn nữa, phải
không ? C̣n phụ nữ nào xả bỏ được tánh vị kỷ sở hữu th́ hơn hẳn đàn ông
rồi c̣n ǵ. Như vậy, sự khác biệt không phải đặt trên vấn đề nam giới
hay nữ giới mà đặt trên cơ bản phong cách hành xử.
Nghe
rằng Mahavira đă nói “Phụ nữ không thể nào giác ngộ được trừ phi người
ấy trở thành đàn ông.” Và mọi người tin theo nghĩ rằng phụ nữ phải cố
gắng làm tất cả những việc phước đức để kiếp sau tái sanh lại làm phái
nam. Thực ra, ư nghĩ đó quả là buồn cười và ngờ nghệch. Mahavira muốn
nói là c̣n tư tưởng ích kỷ chiếm hữu đó th́ không thể nào giác ngộ được
chứ không phải nói c̣n cái thân tướng đàn bà là không gíac ngộ — v́ c̣n
sợ, c̣n chiếm hữu th́ không T́nh Yêu, không Thiền Định được.
“Ni cô đó tạc một pho tượng Phật bằng gỗ
thếp vàng và đi đâu, Ni cô cũng mang theo”. Từ lúc tạc tượng Phật thếp
vàng, Ni cô ngủ không an giấc v́ lo sợ kẻ nào đó sẽ đột nhập vào rinh
mất pho tượng quí này đi. Đang đi trên đường, nếu có ai chợt nh́n vào
tay năi trong có tượng Phật, Ni cô cũng giật thót người, cảm thấy bất an
nghĩ rằng biết đâu họ biết trong túi có tượng Phật thếp vàng và sẽ cướp
đi mất. Pho tượng trở thành gánh nặng, trở thành hàng rào cản bước tiến
giải thoát của Ni cộ Tâm trí Ni cô xoay vần với lo sợ, bất an, và dính
mắc. C̣n chỗ trống nào đâu để an lạc giải thoát lọt vào! Pho tượng đă
trở thành tâm điểm chiếm hữu, lo sợ và thờ phụng”.
Năm tháng trôi qua. Ni cô vẫn luôn mang
tượng Phật đi khắp đó đây. Và một ngày kia, Ni cô dừng chân lại một ngôi
chùa làng có rất nhiều tượng Phật…”
Thời gian trôi qua, không có dấu hiệu giác ngộ ǵ. Mang kè kè một tượng
Phật như thế mà không thấy ǵ à ? không giác ngộ ǵ sao ? Lạ thật.
Phật là Giác ngộ, là Giải thoát, là Đại
Ngă, là Chân Tâm, là Bản Thể; nhưng bạn không thể giác ngộ chân lư giải
thoát đó nếu bạn vẫn vác nặng hành trang ràng buộc, chấp trước và vị kỷ.
Dù bạn có mang vác trên vai bao nhiêu pho tượng Phật đi chăng nữa th́
cũng dă tràng xe cát biển đông mà thôi.
Bên Trung Hoa, Nhật Bản, người ta đă xây
dựng rất nhiều đại tự, đại tháp để thờ Phật. Ở Trung Hoa, có một ngôi
cổ tự thờ 10,000 tượng Phật. Tuy nhiên, dù có hàng 10,000 tượng đi chăng
nữa cũng chẳng giúp ích được ǵ cho ta cả nếu ta không chịu tu tập đoạn
trừ Tham Sân Si, Ngă Mạn, Tà Kiến, v.v…
Tượng Phật chỉ là một biểu trưng cho sự
giác ngộ giải thoát; chiêm ngưỡng lễ lạy tượng Phật để tự nhắc nhở vốn
sẵn có Phật tánh. Phật tánh có ở trong anh, có ở trong tôi, có ở trong
em, có ở trong người giàu sang quyền quí cũng như ở trong kẻ ăn mày khốn
khổ kia.
Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh
Tất cả chúng sanh đều thành Phật !
Tất cả chúng sanh đều b́nh đẳng !
Hăy t́m một vị Phật sống. Hăy t́m vị
Phật sống trong ta. Đừng rong ruỗi t́m cầu bên ngoài. Đừng trông chờ
mong đợi sự cứu độ. Đừng dập đầu van lạy các ngẫu tượng cầu xin giải
thoát. V́ thế, Ni cô này đă vác tượng Phật gỗ suốt nhiều năm mà chẳng
thấu hiểu được ǵ. Cái tâm đắm chấp đă che mờ giác tánh trong Ni cô. Quả
vậy, có cái ǵ khổ theo cái nấy. Người đời có gia đ́nh, có cái nhà cái
xe là lo lắng ôm giữ bảo vệ những thứ đó cả đời, sợ mai một mất đi và lo
nối ḍng nối dơi để giao phó của cải. Tu sĩ th́ trụ tŕ một ngôi chùa
nào hay thánh đường nào th́ cũng dính mắc vào tự viện đó không thoát ra
nổi, cũng lo kiếm đệ tử truyền trao lại. Cha truyền con nối; không muốn
giao cho ai khác ngoài con ruột ḿnh, đệ tử ruột ḿnh. Cái chế độ phong
kiến tự ngàn xưa đă bị chúng ta hủy bỏ đi để xây dựng chế độ tự do dân
chủ; nhưng đó chỉ là h́nh thức thay đổi c̣n nội dung vẫn như cũ. Tự Ngă
vẫn hoàn lại Tự Ngă đầy tham vọng ích kỷ, tư lợi và ràng buộc. Cái hay
nhất của người tu sĩ là rày đây mai đó, đem chánh pháp giáo hóa chúng
sanh. Chùa chiền, tự viện chỉ là trạm dừng chân qua đêm, đến sáng lại
quảy gánh ra đi. Nếu phải trụ tŕ một ngôi chùa hay tự viện nào th́ tu
sĩ đó phải hằng tự giác tỉnh là Vạn Pháp vốn Vô Thường Vô Ngă. Không có
cái ǵ trường tồn bất biến cũng không có cái ǵ là của ta cả. Sự vật đến
đến đi đi, có có không không. Người tu sĩ phải luôn luôn có tâm niệm Xả
Phá Ngă đó th́ mới ứng phó đạo tràng, tùy duyên bất biến. Nếu không, họ
sẽ sanh tâm đắm nhiễm, mắc kẹt vào chùa chiền, thánh đường, tự viện,
tín đồ, danh lợi thế gian.
“Ni
cô đó thường đốt hương trầm cúng dường tượng Phật của ḿnh. V́ không
muốn khói xông lên bay vào các tượng Phật khác, Ni cô đă chế ra một cái
phễu nhỏ để khói chỉ bay thẳng vào mũi tượng Phật của ḿnh.”
Thấy chưa ? Nội chỉ có khói hương thôi
mà người ta đă phân biệt ích kỷ rồi huống chi là những thứ quí giá hơn,
to lớn hơn gấp bội. Thế cho nên, chúng ta đă chứng kiến quá nhiều cảnh
tranh giành tương tàn lẫn nhau để chiếm đoạt hay ôm giữ. Ông tu sĩ này
nói xấu ông sư kia, bà ni cô kia bêu riếu bà văi nọ. Đền thờ, chùa
chiền, tự viện, v.v… đua nhau mọc lên như nấm, và cũng đua nhau khuếch
trương, mưu cầu đóng góp, dụ dẫn tín đồ… Tất cả chẳng qua phản ảnh tâm
Tham Đắm, Chấp Ngă, Mê Danh của những con người chưa liễu đạo. Ni cô
trong truyện có phải chăng chính là h́nh ảnh của chúng ta ? Chúng ta dă
từng ra rả tụng kinh, sám hối, tọa thiền… nhưng chúng ta nào có thấu
được chút hương thơm giáo lư của Phật, của Chúa, của Mahavira. Chúng ta
xây bao tượng Phật, tượng Chúa, đền thờ, tháp tự, v.v. nhưng nào chúng
ta thực hành được chút xíu nào lời các Thánh nhân dạy về giải thoát giác
ngộ? Cũng như Ni cô mang vác tượng Phật suốt nhiều năm mà vô minh vẫn
ḥan vô minh, trói buộc vẫn ḥan trói buộc.
Và chuyện ǵ đă xảy ra ?
“Trải qua mấy tuần lễ bị hun khói như
vậy, lỗ mũi ông tượng Phật vàng bị đen thui đầy muội hương. Cái lỗ mũi
đen trên pho tượng vàng càng làm cho pho tượng Phật xấu xí, kỳ cục hơn…”
Điều đó đương nhiên phải xẩy ra cho tất cả những người c̣n tâm đắm
nhiễm vị kỷ. Hương thơm không c̣n là hương thơm, chân lư không c̣n là
chân lư nữa.
Hăy trở về nh́n lại các pho tượng Phật,
tượng Chúa, tượng Krishna. Ở tất cả lỗ mũi của các pho tượng đó đều bị
đen thui v́ ám khói ích kỷ tư lợi, chấp trước vô minh của chúng ta. Lời
cầu nguyện của chúng ta chỉ là lời cầu xin đưọc ban thêm ân huệ vật
chất. Ngay khi chúng ta mở miệng ra nói: “Nhà thờ của tôi, chùa của tôi,
thầy của tôi, đệ tử của tôi… Có danh từ “của tôi” thêm vào là đền đài,
chùa chiền, tự viện… đều bị phá sập hoàn toàn.
Trước đây, chính tôi (tác giả) đă bị dẫn
độ ra ṭa v́ tôi dám xâm phạm một nhà thờ. Ngôi nhà thờ đó đă đóng cửa,
không hoạt động ít nhất là 20 năm rồi. Những tín đồ đă dọn đi nơi khác,
không c̣n ở Ấn nữa. Nhà thờ này thuộc về giáo hội Thiên Chúa Giáo Anh
và cũng không c̣n người Anh nào ở phố thị này, không ai chăm sóc trông
nom nhà thờ cả. Nhà thờ ấy rất đẹp nhưng bị hoang phế.
Ngày kia, có vài tín đồ đến gặp tôi và nói :
“Chúng tôi không thuộc giáo phái Anh,
nhưng chúng tôi không có nhà thờ riêng. Vậy ông có thể giúp chúng tôi mở
khóa vào lễ Chúa không ?”
Tôi đáp ngay :
“Được thôi, có ǵ đâu.”
Và những tín đồ đó vào nhà thờ, quét dọn, lau chùi bụi bặm bám đen lỗ mũi của Chúa.
Tôi nói với họ :
“Không cần hỏi ai là chủ nhà thờ này cả.
Người nào thờ phụng Chúa với tất cả ḷng thành không riêng tư th́ nhà
thờ đó là của họ.”
Nhưng hai, ba tháng sau th́ tin tức bay
tới tai những người trước kia bỏ tiền ra mua nhà thờ. Họ t́m luật sư và
kiện tôi ra toà v́ dám xâm phạm nhà thờ.
Công tố viên buộc tội :
- Tại sao ông dám mở khóa nhà thờ ? Nhà thờ này thuộc về những nguyên cáo là những người bỏ tiền ra mua. Nó là tài sản của họ.
- Nhà thờ không phải là tài sản của bất
cứ riêng ai. Nhà thờ chỉ là một phương tiện để mọi người có thể đến lễ
lạy Chúa. Nhà thờ không phải là tài sản của riêng ai cả.
- Đó là luật pháp. Khi ông xâm phạm vào tài sản người khác, ông đă phạm tội.
- Được thôi, các ông có thể đóng cửa nhà
thờ lại. Các ông có thể buộc tội tôi; nhưng hăy nhớ kỹ một điều là
chính các ông, những con người ích kỷ tham đắm kia, đă giết chết Tôn
Giáo ! Chính các ông mới là kẻ có tội !”
Hăy nhớ kỹ lời Đức Đạt Lai Lạt Ma nói :
“Ngôi chùa của tôi chính tại Tâm tôi!”
Chùa tại Tâm. Phật tại Tâm ! Vậy đủ rồi !
ST.
__________________ Asher
|