Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
  H́nh Ảnh Từ Thiện
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Thông Tin
  Thông Báo
  Báo Tin
  Liên Lạc Ban Điều Hành
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Nhờ Coi Quẻ
  Nhờ Coi Ngày
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Tử Vi
  Tử Bình
  Kinh Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Bói Bài
  Đoán Điềm Giải Mộng
  Khoa Học Huyền Bí
  Thái Ất - Độn Giáp
  Y Dược
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch và Phong Thủy 3
Kỹ Thuật
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
Thư Viện
  Tủ Sách
  Bài Viết Chọn Lọc
Linh Tinh
  Linh Tinh
  Giải Trí
  Vườn Thơ
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 63 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
chindonco (3250)
hiendde (2589)
HoaCai01 (2277)
vothienkhong (1807)
dinhvantan (934)
ryan88 (805)
Vovitu (713)
ruavang (691)
lancongtu (667)
TranNhatThanh (644)
Hội viên mới
redlee (0)
dautranhsinhton (0)
Chieu Tim1234 (1)
huyent.nguyen (0)
tamsuhocdao (0)
henytran2708 (0)
thuanhai_bgm (0)
Longthienson (0)
thuyenktc (0)
liemnhi (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: KINH PHÁP BẢO ĐÀN - ĐÔN HOÀNG Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
thiennhan
Thượng Khách
Thượng Khách


Đă tham gia: 21 May 2010
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 31
Msg 1 of 1: Đă gửi: 01 July 2010 lúc 5:03am | Đă lưu IP Trích dẫn thiennhan

KINH PHÁP BẢO ĐÀN

Lục Tổ Huệ Năng

Bản dịch: HT Thích Măn Giác

1. Đại sư Huệ Năng lên ṭa cao trong giảng đường chùa Đại Phạm giảng giáo lư Bát nhă Ba la mật và truyền Vô tướng giới. Lúc ấy dưới ṭa có trên mười ngàn Tăng, Ni, đạo, tục. Thiều Châu thứ sử Vi Cứ cùng hơn ba mươi vị quan liêu và trên ba mươi nho sĩ đều thỉnh Đại sư giảng giáo lư Bát nhă Ba la mật. Thứ sử c̣n bảo môn nhân tăng Pháp Hải ghi chép lại ngơ hầu lưu truyền cho đời sau để cho những người học đạo noi theo tông chỉ này mà truyền thọ cho nhau, coi những lời dạy này là nơi nương tựa.

2. Đại sư Huệ Năng nói:

- Các thiện tri thức, hăy tịnh tâm ḿnh mà tập trung vào giáo lư Bát nhă Ba la mật.

Rồi Đại sư im lặng, tự tịnh tâm thần ḿnh. Hồi lâu sau mới nói tiếp:

- Các thiện tri thức, xin im lặng lắng nghe. Cha hiền của Huệ Năng vốn là một quan viên ở Phạm Dương, sau đó người bị giáng chức và phạt làm thường dân ở Tân Châu Lĩnh Nam. Lúc Huệ Năng c̣n nhỏ, cha mất sớm mẹ già và con thơ dọn về Nam Hải. Gian khổ nghèo nàn đến mức phải đi bán củi ngoài chợ. Hốt nhiên có một người khách mua củi, bảo Huệ Năng gánh theo về ngôi khách điếm dành cho các quan viên kia. Sau khi khách lấy củi đi rồi, Huệ Năng được tiền đang bước ra cửa, th́ bỗng gặp một vị khách khác đang tụng kinh Kim Cang.

Huệ Năng vừa nghe thấy tâm đă bừng sáng giác ngộ. Huệ Năng tôi bèn hỏi người khách:

- Ngài từ đâu tới mà tŕ tụng kinh này vậy ?

Khách cười đáp:

- Tôi đă bái kiến Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Ḥa thượng ở Đông Phùng Mộ Sơn, Hoàng Mai huyện Kỳ Châu. Hiện giờ ở đó môn nhân của ngài có hơn một ngàn người. Lúc c̣n ở đó, tôi từng nghe ngài khuyên các đồ đệ Tăng cũng như tục, rằng chỉ cần tŕ một quyển kinh Kim Cang là thế nào cũng được kiến tánh thành Phật rốt ráo.

Huệ Năng tôi nghe nói thế, biết rằng ḿnh có duyên từ kiếp trước, bèn từ giă mẫu thân đến ngay Phùng Mộ Sơn ở huyện Hoàng Mai, để bái lạy Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Ḥa thượng.

3. Hoằng Nhẫn Ḥa thượng hỏi Huệ Năng:

- Chú là người phương nào mà đến núi này bái lạy ta ? Nay chú đến đây với mục đích cầu cái ǵ vậy ?.

Huệ Năng đáp:

- Đệ tử là người Lĩnh Nam, vốn chỉ là một tên thường dân ở Tân Châu. Nay lặn lội từ phương xa đến bái lạy Ḥa thượng, không để cầu vật ǵ khác mà chỉ cầu Phật pháp (đạo) thôi.

Đại sư bèn quở Huệ Năng rằng:

- Chú là dân Lĩnh Nam vốn là đồ mọi rợ, làm thế nào mà thành Phật cho được ?.

Huệ Năng nói:

- Con người tuy có Nam Bắc Phật tánh lại chẳng có Bắc Nam. Tuy thân mọi rợ này không giống với thân Ḥa thượng, Phật tánh trong chúng ta có ǵ là sai biệt ?.

Đại sư đang định bàn luận thêm, song chợt nh́n thấy chung quanh có người, ngài bèn thôi không nói nữa mà chỉ khiến tôi đi theo chúng để làm việc. Lúc ấy có một hành giả dẫn Huệ Năng vào pḥng giă gạo và Huệ Năng tôi đạp máy giă gạo ở đó suốt tám tháng trời.

4. Một hôm, bỗng nhiên Ngũ Tổ cho gọi tất cả các môn nhân lên. Sau khi họ đă tụ tập đầy đủ, Ngũ Tổ nói:

- Để tôi nói cho các ông nghe, đối với người đời th́ sanh tử là việc lớn, song môn nhân các ông suốt ngày cúng dường, chỉ cầu phước điền mà chẳng cầu việc xuất ly khỏi biển khổ sanh tử. Nếu tự tánh của các ông mà mê mờ th́ phước cũng chẳng làm sao mà cứu các ông được. Các ông mau quay về pḥng tự nh́n vào chính ḿnh, người nào có trí tuệ chắc chắn sẽ nắm bắt được cái bản tánh của trí Bát nhă, rồi mỗi người làm một bài kệ tŕnh lên cho tôi xem. Tôi sẽ đọc kệ của các ông, nếu như có người nào giác ngộ được đại ư của Phật pháp, tôi sẽ trao lại y pháp cho người ấy và tuyên dương làm vị Tổ thứ sáu. Các ông mau lên cho.

5. Sau khi được phân phó, các môn nhân ai nấy quay về pḥng ḿnh rồi bàn bạc với nhau rằng:

- Chúng ḿnh chẳng cần tịnh tâm cố gắng làm kệ tŕnh lên cho Ḥa thượng để làm ǵ, Thượng tọa Thần Tú là giáo thọ sư, sau khi ngài đắc pháp rồi, chúng ḿnh có thể nương cậy vào ngài, xin đừng ai làm kệ làm ǵ.

Ai nấy cũng đều hết có ư muốn cố gắng làm kệ. Lúc ấy, trước pḥng của Đại sư có một hàng hiên ba gian. Trên tường dưới hành lang được dành ra để dự định cho vẽ h́nh về những mẩu chuyện và giáo lư của kinh Lăng Già, cũng như việc Ngũ Tổ Đại sư truyền thọ y pháp để lưu lại cho đời sau ghi nhớ. Họa sư Lư Trân đă xem xét vách tường và chuẩn bị hôm sau ra tay.

6. Thượng tọa Thần Tú suy nghĩ :

- Mọi người không ai tŕnh tâm kệ cả, bởi v́ ḿnh là giáo thọ sư của họ. Nếu như ḿnh không tŕnh tâm kệ, làm sao mà Ngũ Tổ có thể thẩm định được kiến giải trong tâm minh thâm thiển ra sao. Nếu minh tŕnh tâm kệ lên Ngũ Tổ với ư định cầu làm Tổ, th́ là việc không tốt, bởi v́ như thế th́ ḿnh cũng chẳng khác ǵ bọn phàm phu toan tranh đoạt thánh vị. Song nếu ḿnh không tŕnh kệ, ḿnh sẽ chẳng bao giờ đắc pháp được.

Thượng tọa Thần Tú suy nghĩ hồi lâu, trong ḷng lấy làm khó xử vô cùng.

Đến nửa đêm không để ai thấy, ngài bèn ra viết tâm kệ lên vách tường ở chính giữa khu hành lang phía Nam, mong cầu đắc pháp.

- Nếu như ngày mai Ngũ Tổ trông thấy kệ mà hài ḷng, th́ ḿnh sẽ bước ra mà nhận là của ḿnh. C̣n nếu như ngài bảo là chưa đắc th́ kể như túc nghiệp của ḿnh c̣n nặng, không đủ tư cách để đắc pháp. Thánh ư khó ḍ ḷng ḿnh lập tức sẽ không c̣n hoài mong ǵ nữa.

Thế rồi nửa đêm, Tú thượng tọa thắp đuốc viết kệ lên vách tường ở chính giữa khu hành lang phía Nam, không để ai hay biết. Kệ rằng:

Thân là cây bồ đề

Tâm như đài gương sáng

Luôn siêng năng lau chùi

Đừng để cho bụi bám.

7. Sau khi viết xong bài kệ, Thượng tọa Thần Tú quay về pḥng nằm, không hề có ai trông thấy. Sáng hôm sau, Ngũ Tổ gọi Lư họa sư đến để vẽ h́nh về kinh Lăng Già dưới hàng hiên phía Nam, Ngũ Tổ bỗng trông thấy bài kệ, sau khi đọc xong, bèn nói với Lư họa sư:

- Hoằng Nhẫn tôi xin tặng ông ba ngàn tiền để đền công lao lặn lội từ xa đến, song tôi quyết định không họa h́nh nữa. Kinh Kim Cang: tất cả những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng. Sao bằng để bài kệ này, khiến những kẻ c̣n mê mờ đọc. Nếu họ theo đó tu hành th́ sẽ không bị đọa vào ba con đường ác. Tất cả những người theo đó mà tu hành, đều sẽ được ích lợi lớn.

Đại sư bèn gọi tất cả các môn nhân đến, thắp hương trước bài kệ. Mọi người vào xem, đều sinh ḷng cung kính.

Ngũ Tổ nói:

- Các ông ai cũng nên đọc bài kệ này (th́ mới có thể kiến tánh được). Y theo đó mà tu hành th́ sẽ không đọa lạc.

Môn nhân đều đọc, ai cũng sinh ḷng cung kính, kêu lên:

- Lành thay!.

Ngũ Tổ bèn gọi Tú Thượng tọa vào pḥng của ngài, hỏi rằng:

- Có phải ông làm bài kệ này không? Nếu như ông làm, ông đáng đắc pháp của ta.

Tú Thượng tọa nói:

- Đắc tội với Ḥa thượng, quả thực bài kệ là do Thần Tú đây làm. Con không dám cầu làm Tổ, chỉ xin Ḥa thượng từ bi, xem coi đệ tử có chút trí tuệ nào để lănh hội đại ư của Phật pháp hay không?.

Ngũ Tổ nói:

- Ông làm bài kệ này, thấy ngay rằng kiến (thấy, hiểu tới, biết tới nơi chốn) giải chưa đến chỗ rốt ráo. Ông chỉ mới đến trước cửa, chưa vào được bên trong. Phàm phu theo bài kệ này mà tu hành, chắc chắn sẽ không đọa lạc. Chứ bằng vào kiến giải như thế này mà cầu Vô thượng Bồ đề th́ chưa có thể được. Ông tạm về pḥng tư duy thêm một hai bữa nữa, rồi làm một bài kệ khác tŕnh lên cho tôi. Nếu như ông vào được trong cửa, thấy được bản tánh, tôi sẽ trao y pháp cho ông.

Tú Thượng tọa về pḥng, song đến mấy hôm sau vẫn không làm được bài kệ nào khác.

8. Có một đồng tử đi qua pḥng giă gạo vừa tụng bài kệ kia. Huệ Năng tôi vừa nghe thấy, đă biết ngay rằng người viết bài kệ ấy chưa thấu được đại ư của Phật pháp. Huệ Năng bèn hỏi đồng tử:

- Bài kệ mà vừa rồi chú tụng là dạy ǵ vậy ?.

Đồng tử đáp:

- Huynh không biết à? Đại sư nói sanh tử là việc lớn, ngài muốn truyền y pháp cho nên mới dạy môn nhân mỗi người làm một bài kệ tŕnh lên cho ngài xem, người nào ngộ được đại ư của Phật pháp sẽ được trao truyền y pháp và tuyên dương làm Tổ thứ sáu. Có một Thượng tọa tên Thần Tú, viết một bài kệ vô tướng dưới hàng hiên phía Nam, Ngũ Tổ dạy tất cả các môn nhân tụng, người nào thấu triệt được bài kệ này sẽ thấy được tự tánh ḿnh, người nào y theo đó tu hành sẽ đạt được giải thoát.

Huệ Năng đáp:

- Tôi ở đây đạp máy giă gạo đă hơn tám tháng trời, chưa bao giờ có dịp ra trước sảnh đường. Xin chú dẫn Huệ Năng đây ra hàng hiên phía Nam để tôi được bái lạy trước bài kệ ấy. Tôi cũng nguyện được tŕ tụng, mong kết duyên lành trong kiếp sau, ngơ hầu được văng sanh nơi đất Phật.

Đồng tử bèn dắt Huệ Năng ra dưới hàng hiên phía Nam. Huệ Năng bèn đảnh lễ bài kệ ấy. Bởi v́ không biết chữ, cho nên tôi nhờ một người đọc hộ. Vừa nghe xong, Huệ Năng tôi đă thấu triệt đại ư của bài kệ. Rồi lại nhờ một người biết viết, viết hộ lên vách tường phía Tây, để tôi có cơ hội tŕnh bản tâm ḿnh. Nếu như không biết bản tâm, có học pháp cũng vô ích, biết tâm thấy tánh mới giác ngộ được đại ư của Phật pháp. Bài kệ của Huệ Năng tôi như sau:

Bồ đề vốn không cây

Gương sáng cũng không đài

Phật tánh thường thanh tịnh

Chỗ nào để nhuốm bụi ?

Lại một bài kệ nữa rằng:

Tâm là cây bồ đề

Thân là đài gương sáng

Gương sáng vốn thanh tịnh

Chỗ nào để nhuốm bụi ?

Các đồ chúng trong viện thấy Huệ Năng tôi làm bài kệ ấy đều lấy làm kinh ngạc, trong khi đó tôi lại trở về pḥng giă gạo. Ngũ Tổ hốt nhiên thấy Huệ Năng tôi khéo thấu hiểu đại ư của Phật pháp, song sợ chúng nhân biết, ngài bèn nói với họ rằng:

- Bài kệ này cũng vẫn chưa rốt ráo.

9. Đến nửa đêm, Ngũ Tổ gọi Huệ Năng vào pḥng của ngài và giảng kinh Kim Cang. Vừa nghe qua một lần, tôi đă lập tức giác ngộ và đêm ấy tôi thọ pháp mà không hề có ai hay biết.

Ngũ Tổ bèn truyền thọ pháp môn đốn ngộ và y pháp cho tôi. Ngài nói:

- Bây giờ ông là Tổ đời thứ sáu, y pháp này là bằng cớ, phải được truyền từ đời này qua đời khác, pháp này phải truyền từ tâm qua tâm, và mọi người phải tự ḿnh giác ngộ lấy.

Ngũ Tổ nói:

- Huệ Năng, kể từ xưa việc truyền pháp đă như dây tơ. Nếu ông lưu lại ở đây, chắc chắn sẽ có người ám hại ông. Ông nên đi mau thôi.

10. Sau khi đắc pháp rồi, nửa đêm Huệ Năng tôi bèn cấp tốc ra đi. Ngũ Tổ đích thân tiễn Huệ năng tới đến măi tận trạm Cửu Giang. Tôi giác ngộ lập tức. Ngũ Tổ lại dặn ḍ:

- Ông phải nỗ lực, đem pháp về phương Nam, trong ṿng ba năm không được hoằng pháp, nếu không e sẽ có pháp nạn. Sau đó rồi ông hăy hoằng hóa, khéo dẫn dắt kẻ mê mờ. Nếu như ông khai mở được tâm họ th́ họ cũng không khác ǵ ông.

Sau khi tạ từ xong, tôi bèn đi về phương Nam.

11. Trong ṿng hai tháng, tôi đến Đại Dữu Lănh, không ngờ rằng sau lưng có hơn hai trăm người theo đuổi, toan ám hại Huệ Năng tôi để đoạt y pháp. Đi được nửa đường lên núi, hầu như tất cả bọn họ đều quay về, chỉ trừ có một ông Tăng họ Trần tên Huệ Minh. Ông ta trước đây vốn là tam phẩm tướng quân, tánh t́nh hành vi thô lỗ và hung ác. Lúc lên đến đỉnh núi, ông ta bắt kịp tôi và toan xâm phạm tôi. Huệ Năng tôi bèn trao y pháp lại cho ông ta, song ông ta lại không dám nhận, mà lại nói:

- Tôi từ xa lặn lội đến cầu pháp chứ không muốn y này.

Thế là trên đỉnh núi ấy, Huệ Năng tôi truyền pháp cho Huệ Minh. Huệ Minh nghe pháp, lập tức tâm được khai mở. Huệ Năng tôi bèn khiến ông ta đi về phương Bắc mà khai hóa thiên hạ.

12. Huệ Năng tôi đến nương náu nơi này kể như là có cái nhân từ nhiều kiếp trước với chư vị quan liêu, tăng, tục. Giáo lư mà tôi giảng dạy là do các thánh nhân đời trước truyền lại, không phải do Huệ Năng tôi tự biết. Chư vị nếu muốn nghe giáo lư của các thánh nhân đời trước, mỗi người phải thanh tịnh tâm ḿnh. Sau khi nghe xong, phải nguyện tự trừ bỏ sự mê mờ của ḿnh, như thế chư vị cũng sẽ chẳng khác ǵ với các thánh nhân thuở trước. Sau đây là giáo pháp.

Đại sư Huệ Năng gọi:

- Này các thiện tri thức, thế nhân ai nấy đều vốn sở hữu Bồ đề và trí Bát nhă, chỉ bởi v́ tâm bị mê mờ mà họ không thể tự giác ngộ lấy được, cho nên mới cần phải cầu bậc Đại thiện tri thức để chỉ đạo cho họ pháp kiến tánh. Các thiện tri thức, gặp được giác ngộ tức là thành tựu được Phật trí.

13. - Này các thiện tri thức, pháp môn này của tôi, lấy định tuệ* làm căn bản. Dù bất cứ trong mọi hoàn cảnh nào th́, tuyệt đối không nên bao giờ được mê mờ nói rằng định và tuệ là khác biệt. Định tuệ là một thể chứ không phải là hai. Định chính là thể của tuệ, tuệ chính là dụng của định. Lúc có tuệ th́ định hiện có trong tuệ, lúc có định th́ tuệ hiện có trong định.

- Các thiện tri thức, như thế có nghĩa là định và tuệ b́nh đẳng. Các người học đạo cần phải lưu ư, đừng bao giờ nói rằng định có trước rồi mới phát sinh ra tuệ, hoặc tuệ có trước rồi mới phát sinh ra định, hoặc định tuệ khác nhau. Chấp thứ kiến giải này hàm ngụ pháp có hai tướng, miệng nói thiện, tâm không thiện, định tuệ sẽ không b́nh đẳng. Nếu tâm và khẩu đều thiện, nội ngoại là một, định và tuệ lập tức b́nh đẳng. Pháp tu tự ngộ không cốt ở chỗ tranh biện ngoài miệng. Nếu lo tranh biện rằng định tuệ cái nào trước cái nào sau, lập tức chư vị trở thành những kẻ mê mờ, rốt cuộc khó mà phán đoán thắng phụ, lại đâm ra chấp trước vào Pháp và Ngă, không giải thoát khỏi bốn tướng sanh, lăo, bệnh, tử được.

*Định : Tĩnh, nhà Phật   có phép tu khiến cho tâm yên định không vọng động được, gọi là định, tức là phép ta quen gọi là nhập định 入定  vậy.

Tuệ : Trí sáng, lanh lẹ. Sinh ra đă có tính sáng láng hơn người gọi là tuệ căn 慧根, có trí sáng láng chứng minh được pháp gọi là tuệ lực 慧力, lấy trí tuệ làm tính mạng gọi là tuệ mệnh 慧命, lấy trí tuệ mà trừ sạch được duyên trần gọi là tuệ kiếm 慧劍, có con mắt soi tỏ cả quá khứ, hiện tại, vị lai gọi là tuệ nhăn 慧眼.

14. Nhất hạnh tam muội* tức là cái chân tâm thường hằng (lâu bền) trong tất cả mọi thời cũng như mọi hành vi đi, đứng, nằm, ngồi. Kinh Tịnh Danh nói: Chân tâm là đạo tràng, chân tâm là Tịnh độ. Đừng bao giờ trong tâm xảo trá mà ngoài miệng lại nói về cái ngay chính của pháp. Miệng nói nhất hạnh tam muội mà không thực hành chân tâm, kẻ ấy chẳng phải là đệ tử của Phật. Chỉ cần thực hành chân tâm, không chấp trước bất cứ pháp nào, đó gọi là nhất hạnh tam muội. Người mê nệ vào các tướng của pháp, chấp trước nhất hạnh tam muội, cho rằng chân tâm có nghĩa là ngồi bất động, trừ vọng tưởng không để cho bất cứ ǵ khởi lên trong tâm, cho đó tức là nhất hạnh tam muội. Nếu như thế th́ pháp này cũng giống hệt như vô t́nh, đó là nguyên nhân chính chướng ngại sự đạt đạo. Đạo phải là một cái ǵ thông suốt lưu chuyển, làm sao có thể trệ ngại được. Nếu tâm không đ́nh trệ nơi pháp, đạo lập tức thông suốt lưu chuyển; nếu tâm đ́nh trệ nơi pháp, th́ đó gọi là tự trói buộc. Nếu ngồi bất động là đúng, Duy Ma Cật đă chẳng có lư do để quở Xá Lợi Phất măi ngồi bất động trong rừng.

- Này các thiện tri thức, có nhiều người dạy người khác ngồi yên mà quán tâm quán tịnh, không động đậy không khởi tâm, và họ dồn nỗ lực vào việc đó. Kẻ mê mờ không giác ngộ, bèn chấp vào đó mà thành điên đảo, hạng người như thế có đến hàng trăm hàng ngàn. Những ai dạy người khác pháp tu như thế, thực là sai lầm vô cùng.

*Tam muội 三昧: dịch âm chữ Phạn "samadhi", Tàu dịch là chính định 正定  nghĩa là dùng công tu hành trừ sạch được hết trần duyên mà vào cơi một mầu rỗng không vắng lặng gọi là tam muội. Như du hí tam muội 遊戲三昧  nhập định xuất định thuần mặc tự nhiên. Bây giờ hay mượn hai chữ ấy để chỉ cái áo diệu của một môn phái.

15. - Này các thiện tri thức, do đâu mà được định tuệ b́nh đẳng, như thể ngọn đèn và ánh sáng mà đèn tỏa ra. Có đèn th́ có ánh sáng. Không có đèn th́ không có ánh sáng. Đèn là thể của ánh sáng, ánh sáng là dụng của đèn. Tên tuy có hai, thể đâu có phải là hai. Pháp định tuệ này cũng y như thế.

16. - Này các thiện tri thức, pháp vốn không có đốn tiệm, song người có thông minh và chậm lụt. Với kẻ mê th́ nên khuyên tu tiệm pháp, người ngộ mới nên tu đốn pháp. Biết được bản tâm tức là thấy bản tánh. Khi ngộ lập tức sẽ nhận ra được rằng hai pháp đốn tiệm này vốn không sai biệt, nếu không ngộ th́ sẽ măi măi trôi lăn trong luân hồi.

17. - Này các thiện tri thức, pháp môn này của tôi, từ xưa đến nay, đốn tiệm ǵ cũng đều lấy vô niệm (không nghĩ nhớ) làm tông (chủ thể), vô tướng (không h́nh chất) làm thể (h́nh thể), vô trụ (không c̣n đấy) làm bản (gốc). Vô tướng có nghĩa là ở trong tướng mà vẫn ly (rời khỏi) tướng. Vô niệm có nghĩa là ở trong niệm mà không niệm, vô trụ tức là bản tánh của con người.

- Niệm niệm không dừng, tiền (trước) niệm, kim (hiện tại) niệm và hậu (sau) niệm, niệm niệm tương tục (cùng nhau liền nối tiếp), không có đứt đoạn. Nếu như có một niệm dứt đoạn, Pháp thân lập tức ly (rời) Sắc thân, trong sự tương tục của các niệm, không có sự đ́nh trệ nơi bất cứ pháp nào cả. Nếu một niệm đ́nh trệ, lập tức các niệm liên tục đều đ́nh trệ, đó gọi là hệ phược (trói buộc). Nếu như trong các niệm liên tục không đ́nh trệ vào bất cứ pháp nào, đó là không bị hệ phược. Đó gọi là lấy vô trụ làm bản. Này các thiện tri thức, bên ngoài ĺa tất cả các tướng là vô tướng. Chỉ cần ĺa được các tướng, tánh thể tự nhiên thanh tịnh, cho nên mới lấy vô tướng làm thể.

- Không nhiễm nơi bất cứ cảnh nào, gọi là vô niệm. Ĺa cảnh ngay chính nơi niệm của ḿnh, th́ niệm sẽ lập tức không sinh nơi pháp. Nếu như ḿnh không suy tư về các sự vật và trừ khử được tất cả các niệm, lúc một niệm vừa dứt đoạn th́ lập tức ḿnh sẽ thọ sinh nơi chốn khác. Các người học đạo phải thận trọng, chớ nên dựa vào ngoại pháp hay tự ư của ḿnh. Tự ḿnh lầm lẫn c̣n không đến nỗi nào, chứ c̣n khuyên người khác lầm lẫn th́ tệ hại biết bao. Kẻ mê đă không tự thấy được là ḿnh mê lại c̣n bài báng kinh pháp. Do đó mới lập vô niệm làm tông. Bởi v́ mê mờ mà con người khởi niệm nơi cảnh, rồi th́ tà kiến lại do nơi niệm mà khởi. Tất cả các trần lao vọng niệm do nơi đó mà sinh. Do đó giáo môn này mới lập vô niệm làm tông.

- Này các thế nhân, hăy xa ĺa các kiến chấp và đừng sinh khởi vọng niệm. Nếu như không có niệm, vô niệm cũng chẳng thể thành lập được. Vô là vô cái ǵ ? Niệm là niệm vật ǵ ? Vô là ĺa xa nhị tướng khỏi trần lao. Niệm là niệm chân như* bản tánh*. Chân như là thể của niệm, niệm là dụng của chân như. Nếu khởi niệm từ tự tánh, th́ tuy có kiến, văn, giác, tri, cũng vẫn chẳng hề bị vạn cảnh nhiễm mà vẫn luôn luôn tự tại. Kinh Duy Ma Cật nói: Bên ngoài tuy khéo phân biệt các pháp tướng, bên trong vẫn bất động nơi Đệ nhất nghĩa đế.

*Như: Y nguyên như thế, trong kinh Phật cho rằng vẫn c̣n nguyên chân tính không nhiễm trần ai là như.

*Tánh – tính : Tính, là một cái lẽ chân chính trời bẩm phú cho người. Như tính thiện 性善  tính lành. Mạng sống. Như tính mệnh 性命. H́nh tính, chỉ về công dụng các vật. Như dược tính 藥性  tính thuốc, vật tính 物性  tính vật, v.v. Yên nhiên mà làm không có chấp chước ǵ cả. Như Nghiêu Thuấn tính chi dă 堯舜性之也  vua Nghiêu vua Thuấn cứ như chân tính mà làm vậy. Nhà Phật   nói cái tính người ta nguyên lai vẫn đầy đủ sáng láng từ bi hỉ xả 慈悲喜捨  mầu nhiệm tinh thần, chỉ v́ vật dục làm mê mất chân tính ấy đi, nên mới tham lam giận dữ ngu si mà gây nên hết thẩy mọi tội. Nếu nhận tỏ bản tính (kiến tính 見性) của ḿnh th́ bao nhiêu sự sằng bậy đều sạch hết mà chứng được như Phật ngay.

*Đệ nhất nghĩa đế 第一義諦, sa. Paramārthasatya:  Chân đế, chân lí tuyệt đối, tối cao giản đơn giản, không c̣n các mặt đối lập. Trong kinh Duy Ma, Bồ Tát Văn Thù hỏi thế nào là đệ nhất nghĩa đế, Th́ ngài Duy Ma im lặng. Đức Phật cũng đă khẳng định trong bốn mươi chín năm không nói một lời, nhưng hoàn toàn không phải là trạng thái mơ hồ hổn độn. Đệ nhất nghĩa đế phải bao hàm ư nghĩa bổn tịnh và bổn giác, bổn tịnh là dứt sạch mọi nhiểm ô, hoàn toàn thanh tịnh; bổn giác là trí tuệ Bát nhả, thấu triệt thật tướng các pháp.

18. - Này các thiện tri thức, trong pháp môn này, tọa thiền vốn không chấp trước tâm, không chấp trước tịnh (sạch), mà cũng chẳng nói đến bất động. Nếu có người bảo là quán* tâm, th́ tâm vốn là vọng*, và bởi v́ vọng cũng giống như huyễn (ảo, giả), đâu có đối tượng để mà quán. Nếu nói là quán tịnh (sạch), th́ bản tánh con người vốn tịnh, chỉ bởi v́ vọng niệm che phủ chân như*. Chỉ cần ĺa vọng niệm, bản tánh tự nhiên thanh tịnh. Không thấy được rằng tự tánh vốn thanh tịnh, tâm khởi ư niệm quán tịnh, là đâm ra khiến vọng niệm về tịnh sanh. Vọng vốn không nơi chốn, cho nên phải biết rằng những ǵ ḿnh quán thấy chỉ là hư vọng mà thôi. Tịnh vốn vô h́nh tướng, song có người lại vẫn giả lập tịnh tướng, rồi gọi đó là công phu tu tập Thiền. Những người mang kiến chấp này tự che mờ bản tánh ḿnh, rồi rốt cuộc lại bị trói buộc bởi cái vọng niệm về tịnh. Người tu pháp bất động, không thấy lỗi lầm của người khác, đó là cái bất động của tự tánh. Kẻ mê tuy tự thân hắn bất động, song thoắt mở miệng là chỉ nói đến thị phi của người khác, do đó đi ngược lại đạo. Quán tâm quán tịnh, chính là cái nguyên do che chướng đạo.

*Quán : Xét thấu, nghĩ kĩ thấu tới đạo chính gọi là quán. Như nhất tâm tam quán 一新三觀  một tâm mà mà xét thấu cả ba phép, chỉ quán 止觀  yên định rồi xét thấu chân tâm. Dịch Kinh 易經  nói quán ngă sinh vô cữu 觀我生無咎  xét thấu cái nghĩa vụ của đời ta mới không mắc vào tội lỗi. Đạo Phật có phép tu dùng tai mà xem xét cơi ḷng, trừ tiệt cái mầm ác trở nên bậc Vô thượng, nên gọi là phép quán . Như Quan Âm Bồ Tát 觀音菩薩, v́ ngài tu bằng phép này, sáu căn dùng lẫn với nhau được, mắt có thể nghe được, nên gọi là Quán Thế Âm 觀世音.

*Vọng có 2 nghĩa

Vọng : Sằng, càn. Như vọng ngữ 妄語  nói sằng, trái lại với chữ chân .

Vọng : Trông xa. Như chiêm vọng 瞻望  trông mong. Có cái để cho người chiêm ngưỡng gọi là vọng. Như danh vọng 名望, uy vọng 威望, Quá mong. Ước mong, thất vọng 失 望  mất sự mong ước, tuyệt vọng 絕望  hết đường mong ước.

Chân như 眞如 : nguyên lai vẫn tinh thành viên măn thanh tịnh, không phải mượn ở ngoài vào

19. Này các ông, đă hiểu như vậy rồi, th́ trong pháp môn này, gọi là tọa thiền* có nghĩa là ǵ ? Trong pháp môn này, tọa có nghĩa là khắp nơi vô ngại (không ngăn chặn, vùi lấp), bên ngoài không khởi niệm nơi bất cứ cảnh giới nào; thiền có nghĩa là bên trong thấy được bản tánh và không bị loạn động.

Gọi là Thiền định có nghĩa là ǵ ? Bên ngoài xa ĺa các tướng gọi là thiền, bên trong không loạn gọi là định. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bản tính vẫn không loạn, th́ đó là cái tự tịnh tự định bản nguyên. Chính sự liên hệ với ngoại cảnh gây nên loạn tâm. Do đó bên ngoài xa ĺa các tướng tức là thiền, bên trong không loạn tức là định. Ngoại thiền nội định, cho nên gọi là Thiền định. Kinh Duy Ma Cật nói: Lập tức, hoát nhiên, đạt lại được bản tâm. Bồ Tát Giới nói: Tự tánh vốn bản nguyên thanh tịnh.

- Này các thiện tri thức, hăy tự thấy rằng tự tánh của ḿnh vốn thanh tịnh (trong sạch yên tĩnh), tự tu tập tự thành tựu. Tự tánh của ḿnh chính là Pháp thân, sự tu hành của ḿnh chính là sự tu hành để thành Phật. Tự thành tựu chính là sự tự thành Phật đạo cho chính ḿnh.

*Toạ : Ngồi. Được tự nhiên, không nhọc nhằn ǵ mà được.

*Thiền : Lặng nghĩ suy xét. Đạo Phật lấy thanh tĩnh xét tỏ chân lư làm tôn chỉ nên gọi là thiền. Cũng gọi là thiền na 禪 那  (dhyana). Phép tu chuyên chú tâm vào một cảnh gọi là thiền định 禪定, môn tu theo phép thiền định thấy ḷng tỏ tính thành Phật gọi là thiền tông 禪宗, ḷng say mùi đạo gọi là thiền duyệt 禪悅.

20. - Này các thiện tri thức, phải nên bằng tự thể của ḿnh mà thọ vô tướng giới này, và đồng thời niệm những lời Huệ Năng tôi sắp nói. Như thế sẽ giúp cho các thiện tri thức thấy được tam thân Phật trong chính ḿnh. "Tôi xin quy y thanh tịnh Pháp thân Phật trong sắc thân của chính ḿnh; tôi xin quy y trăm, ngàn, ức Hóa thân Phật trong sắc thân của chính ḿnh; tôi xin quy y viên măn Báo thân Phật của tương lai trong chính sắc thân ḿnh" (tụng những lời trên ba lần). Sắc thân chính là nhà của ḿnh, nên không thể nói quay về. Tam thân mà tôi vừa đề cập đến ở ngay trong tự tánh của chư vị. Người đời ai cũng sở hữu tam thân ấy, chỉ v́ mê mờ mà không nh́n thấy, cho nên mới hướng ra ngoài mà t́m tam thân của Như Lai, không thấy được rằng tam thân Phật hiện hữu ngay trong sắc thân của chính ḿnh.

- Này các thiện tri thức, lắng nghe! Tôi sẽ chỉ cho chư vị thấy rằng trong chính sắc thân ḿnh có hiện hữu tam thân Phật của tự tánh ḿnh. Tam thân của Phật này phát sinh từ tánh của chư vị.

Thanh tịnh Pháp thân Phật là ǵ ?

- Này các thiện tri thức, thế nhân bản tính vốn tự thanh tịnh, vạn pháp vốn hiện hữu trong tự tánh họ. Nếu người ta tư lương* về tất cả việc ác ắt sẽ thực hành việc ác. Nếu người ta tư lương về tất cả các việc thiện, ắt sẽ tu các thiện hạnh. Do đó, chúng ta biết rằng tất cả các pháp đều hiện hữu trong tự tánh, mà tự tánh lại thường thanh tịnh. Cũng như mặt trời và mặt trăng thường sáng rỡ song nếu bị mây che phủ, th́ dù ở trên sáng rỡ, ở dưới lại tối ám, cho nên không trông thấy rơ được mặt trời, mặt trăng, tinh tú. Song nếu hốt nhiên (chợt thoáng tự nhiên) gặp được ngọn gió trí tuệ thổi đến cuốn hết mây mù, sâm la (bao chùm mờ mịt) vạn tượng lập tức hiển hiện. Bản tánh thanh tịnh của con người cũng như bầu trời quang tịnh, tuệ cũng như mặt trời, trí giống như mặt trăng. Mặc dù trí tuệ thường sáng rỡ, song nếu ḿnh chấp trước ngoại cảnh, vọng niệm là mây nổi lên lập tức che phủ, tự tánh không thể chiếu sáng được nữa. Cho nên nếu gặp được bậc thiện tri thức thổi tan hết mê vọng, trong ngoài lập tức trong sáng thấu suốt, vạn pháp đều xuất hiện trong tự tánh ḿnh, bởi v́ tất cả các pháp đều hiện hữu trong tự tánh. Đây gọi là thanh tịnh Pháp thân Phật, tự quy y* có nghĩa là trừ hết các hành vi bất thiện, đó gọi là quy y.

* Tư lương : Những cái mà ta gọi là tư duy, tư tưởng… những hoạt động của tâm lư, nói chung là suy lường, đắn đo ước lượng, phán đoán, v.v., gọi là tư lương; đây là nói theo nghĩa rộng nên hơi mơ hồ, không xác định. Thu gọn lại, tư lương là hoạt động của một cái tôi.

- Giống như đi du lịch đến một vùng nào đó, trước tiên phải chuẩn bị một ít thức ăn, đó gọi là “Lương ”. Lại đem theo một ít tiền th́ gọi là “Tư ”. “Tư lương” chính là thức ăn và những thứ của cải tiền bạc nhu yếu trong sinh hoạt cân phải có, mang theo trong suốt cuộc đời.

* Quy : Quy phục, dốc ḷng tin theo gọi là quy y 皈依. Nhà Phật có ba phép quy y. (1) Quy y Phật, (2) Quy y Pháp, (3) Quy y Tăng. Quy y là bỏ nơi tối tăm mà đem cả thân tâm quay về nơi sáng tỏ vậy.

Trăm ngàn ức Hóa thân Phật có nghĩa là ǵ ?

Khi không tư lương, th́ tự tánh không tịch (lặng yên), tư lương ắt tự ḿnh biến hóa. Tư lương ác pháp th́ hóa ra địa ngục, tư lương thiện pháp th́ hóa ra thiên đường. Tư lương việc độc hại th́ biến thành súc sinh, tư lương từ bi th́ biến thành Bồ tát. Tư lương về trí tuệ th́ hóa sinh trên thượng giới, tư lương ngu si th́ sẽ hóa sinh nơi hạ giới. Tự tánh biến hóa nhiều vô cùng, song kẻ mê mờ không ư thức và thấy được như thế. Các niệm liên tục khởi ác, thường hành ác đạo, song chỉ cần một niệm thiện hồi chuyển, trí tuệ lập tức sanh. Đây gọi là tự tánh Hóa thân Phật.

Viên măn Báo thân Phật là ǵ ?

Cũng như một ngọn đèn có thể trừ được một ngàn năm bóng tối, th́ một ánh sáng của tuệ cũng có thể diệt được một vạn năm ngu si. Đừng nghĩ về dĩ văng, hăy thường nghĩ đến tương lai, nếu các niệm trong tương lai của ḿnh luôn luôn thiện, ḿnh có thể được gọi là Báo thân Phật. Một niệm ác có thể gây ra sự hủy diệt hàng ngàn năm thiện, một niệm thiện có thể đền bù cho hàng ngàn năm ác hại. Từ vô thủy cho đến nay, nếu các niệm tương lai luôn luôn thiện, th́ đó gọi là Báo thân Phật. Tư lương từ quan điểm Pháp thân Phật th́ đây chính là Hóa thân Phật. Nếu các niệm liên tục đều thiện, th́ đó chính là Báo thân Phật. Tự ngộ tự tu gọi là quy y vậy. Da thịt là sắc thân, sắc thân là nhà. Chẳng nói quy y.

Chỉ cần giác ngộ được tam thân, ắt hiểu được đại ư của Phật pháp.

21. Giờ đây các thiện tri thức đă quy y tam thân rồi, tôi xin cùng chư vị phát bốn đại nguyện. Xin các thiện tri thức tụng theo Huệ Năng: "Chúng sanh* vô biên thệ nguyện độ, Phiền năo vô biên thệ nguyện đoạn, Pháp môn vô biên thệ nguyện học, Vô thượng Phật đạo thệ nguyện thành" (tụng ba lần).

- Này các thiện tri thức, "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ" không có nghĩa là Huệ Năng độ các thiện tri thức, mà có nghĩa là trong tâm các chúng sanh, mọi người nơi tự tánh ḿnh phải độ chính ḿnh. Tự độ ḿnh nơi tự tánh ḿnh có nghĩa là ǵ ? Dù rằng trong sắc thân của ḿnh có đủ cả tà kiến, phiền năo, ngu si, mê vọng, song ai cũng vốn có sở hữu bản giác* tánh và với chánh kiến, ḿnh có thể được giải thoát. Nếu ngộ được chánh kiến, trí Bát nhă sẽ trừ hết ngu si mê vọng, lúc ấy chúng sanh mỗi người sẽ tự độ chính ḿnh. Nếu tà kiến đến, bằng chánh kiến ḿnh sẽ được độ; nếu mê đến, bằng trí ḿnh sẽ được độ; nếu ác đến, bằng thiện ḿnh sẽ được độ; nếu phiền năo đến, bằng Bồ đề ḿnh sẽ được độ. Độ bằng cách này, gọi là chân độ.

Phiền năo vô biên thệ nguyện đoạn nghĩa là trừ hư vọng bằng tự tâm ḿnh. Pháp môn vô biên thệ nguyện học có nghĩa là học vô thượng chánh pháp. Vô thượng Phật đạo thệ nguyện thành là luôn luôn hành động khiêm tốn, cung kính đối với tất cả, xa ĺa mê chấp, giác tri Bát nhă. Khi trừ hết mê vọng rồi, tức là tự ngộ thành Phật đạo và thực hành thệ nguyện lực.

*Chúng sanh : Những vật có sự sống. Như chúng sanh 眾生, quần sanh 群生  đều là nói các loài có sống có chết.

*Bản : Cỗi rễ, cỗi nguồn, cái cỗi rễ của một sự ǵ gọi là bản

*Giác : Hiểu biết, hiểu những điều không biết đến gọi là giác. Đạo Phật   cốt nhất phải giác ngộ chân tính tỏ rơ hết mọi lẽ, cho nên gọi Phật là Giác vương 覺王. Người học Phật được chứng tới quả Phật gọi là chánh giác 正覺.

22. Nay sau khi đă phát xong bốn đại nguyện rồi, tôi xin truyền pháp vô tướng sám hối cho các thiện tri thức để diệt tội chướng ba đời.

Đại sư nói:

- Này các thiện tri thức, nếu nơi niệm trước, niệm sau và niệm hiện tại, các niệm liên tục không bị ngu si nhiễm, và nếu như lập tức diệt trừ bằng tự tánh ḿnh những hành vi ác trước kia th́ đó tức là sám hối. Nếu nơi niệm trước, niệm sau và niệm hiện tại, các niệm liên tục không bị ngu si nhiễm, diệt trừ măi măi được hết các tâm niệm kiêu ngạo trước đây, th́ đó gọi là tự tánh sám hối. Nếu nơi niệm trước, niệm sau, niệm hiện tại, các niệm liên tục không bị tị nạnh nhiễm, trừ được hết tâm tị nạnh bằng tự tánh ḿnh th́ đó chính là sám hối (tụng ba lần).

- Này các thiện tri thức, sám hối có nghĩa là ǵ ? Sám có nghĩa là cả đời không làm ác, hối có nghĩa là biết các ác nghiệp dĩ văng và luôn luôn không quên điều ấy. Nói miệng sám hối trước mặt chư Phật (mà trong làm ác) cũng vô ích mà thôi. Trong pháp môn của tôi, măi măi không bao giờ làm ác đó mới gọi là sám hối.

23. - Nay sau khi đă sám hối hết rồi, tôi xin truyền thọ các thiện tri thức vô tướng Tam quy y giới.

Đại sư nói:

- Này các thiện tri thức, quy y Đấng Giác ngộ, Lưỡng túc tôn*; quy y sự thật Pháp cao thượng giải thoát con người khỏi tham dục; quy y Tăng tịnh, tôn quư nhất trong chúng sanh. Từ rày trở đi, chư vị phải coi Phật là Thầy và không được quy y tà mê ngoại đạo.

Xin thắp sáng bằng ḷng từ bi Tam bảo của tự tánh chư vị.

- Này các thiện tri thức, Huệ Năng tôi xin khuyên chư vị hăy quy y Tam bảo nơi tự tánh của ḿnh. Phật là giác ngộ, Pháp là chân lư, Tăng là thanh tịnh. Tự tâm quy y giác*, tà mê không sanh, thiểu dục (ít tham muốn) tri túc (hiểu biết đầy đủ), xa ĺa tài sắc, cho nên Phật mới được gọi là Lưỡng túc tôn. Tự tâm quy y chân lư Pháp, bởi v́ các niệm liên tục không sanh khởi tà tâm, cho nên không có ái trước, bởi v́ không có ái trước, Pháp mới được gọi là giáo lư tôn quư nhất giải thoát người ta khỏi tham dục. Tự tâm quy y tịnh Tăng, th́ tuy rằng tất cả trần lao vọng niệm có trong tự tánh ḿnh, tự tánh vẫn chẳng hề bị nhiễm trước, cho nên Tăng mới được gọi là tôn quư nhất trong chúng sanh. Phàm phu không hiểu và hết ngày này qua ngày khác thọ Tam quy y giới. Nếu bảo là quy y Phật, th́ Phật ở đâu ? Nếu như không thấy Phật, th́ đâu có đối tượng để quy y ?. Nếu đă không có đối tượng quy y, th́ những ǵ người ấy nói đều là hư vọng.

- Này các thiện tri thức, mỗi người phải tự quan sát, đừng có dụng ư một cách sai lầm. Trong kinh chỉ dạy quy y Phật nơi chính ḿnh chứ không nói quy y Phật nào khác. Nếu không quy y tự tánh, th́ đâu có chỗ nào để quy y.

*Lưỡng túc tôn: Các đức Phật đều có danh hiệu Lưỡng túc tôn. Bằng đôi chân, chúng ta đi chỗ này chỗ kia, th́ đức Phật cũng có hai chân phước đức và trí tuệ dạo khắp tam giới để cứu độ chúng sanh. Phước đức và trí tuệ hay đại bi và đại trí, hai đức tính tôn quí đó Phật đă thành tựu, nên Ngài được tôn xưng là đấng Lưỡng túc tôn.

24. Nay chư vị đều đă thành tâm quy Tam bảo, tôi xin giảng pháp Bát nhă Ba la mật cho chư vị. Này các thiện tri thức, chư vị chỉ tụng niệm mà không hiểu, cho nên Huệ Năng xin giải thích, mọi người hăy lắng nghe! Bát nhă Ba la mật là chữ Phạn Ấn Độ, tiếng Trung Hoa có nghĩa là trí tuệ đưa người ta qua bờ bên kia. Pháp này cần phải tu hành, không chỉ niệm ở nơi miệng. Nếu chỉ niệm suông mà không tu hành, th́ nó chỉ như huyễn như hóa mà thôi. Pháp thân của người tu hành b́nh đẳng với Phật.

Ma ha là ǵ ? Ma ha có nghĩa là lớn. Tâm lượng quảng đại, giống như hư không. Đừng ngồi với tâm trống không, v́ như thế sẽ rơi vào vô kư không*. Hư không có thể hàm chứa nhật nguyệt tinh tú, đại địa sơn hà, tất cả cây cỏ, người ác người thiện, ác pháp thiện pháp, thiên đường địa ngục, tất cả đều ở trong hư không cả. Tánh không của con người cũng y như thế.

*Vô kư không : Tham Thiền nên tránh lọt vào "Vô Kư Không". Pháp môn khác chỉ cầu được dứt niệm, nhưng tham Thiền trái lại không cho dứt niệm tức là Nghi t́nh ư riêng nghi ngờ - công án Thiền) phải luôn luôn tiếp tục, không cho gián đoạn. Nếu không có Nghi t́nh cũng không có vọng tưởng th́ lọt vào Vô Kư Không là một thứ Thiền bệnh, Tổ Sư gọi là "ngâm nước chết", mặc dù lúc ấy cảm thấy được thanh thanh tịnh tịnh, trong ḿnh cảm thấy nhẹ nhàng nhưng chấp lấy cái đó th́ vĩnh viễn không được kiến tánh, chẳng thà có Nghi t́nh, có vọng tưởng c̣n tốt hơn. Vậy tham Thiền nếu chưa đến thoại đầu (lời nói đầu tiên) chớ nên bỏ câu thoại. Có người bỏ câu thoại vẫn c̣n Nghi t́nh cho là tốt, thực là không đúng v́ có thể bị gián đoạn một khoảng thời gian lâu mà tự ḿnh không hay, lại cũng dễ bị lọt vào Vô Kư Không nữa.

25. Tự tánh có thể hàm chứa được vạn pháp - đó là lớn. Vạn pháp đều là tự tánh. Tuy rằng chúng ta thấy tất cả người và những chúng sanh không phải là người, ác và thiện, ác pháp và thiện pháp, chúng ta không được xả bỏ mà cũng không được chấp trước, mà chỉ nên quan sát tất cả như hư không. Đó gọi là lớn. Đây là phép tu Ma ha. Kẻ mê chỉ niệm ngoài miệng, người trí tu tập trong tâm. Lại có những kẻ mê, trống không tâm ḿnh không suy nghĩ, rồi gọi đó là đại . Như thế cũng không đúng. Tâm lượng vốn quảng đại, song nếu thiếu thực hành nó lại trở thành nhỏ. Đừng có nói suông không ngoài miệng mà không chịu tu hành. Những người như vậy không phải là đệ tử của tôi.

26. Bát nhă là ǵ ? Bát nhă là trí tuệ. Khi mà trong mọi thời, niệm niệm liên tục không ngu độn, luôn luôn tu hành trí tuệ, đó gọi là Bát nhă hành. Một niệm ngu là Bát nhă đứt đoạn, một niệm trí là Bát nhă phát sanh. Trong tâm luôn có vô minh. Thiên hạ thường tự nói: Tôi tu Bát nhă, song Bát nhă vốn không có h́nh tướng, đó chính là tánh của trí tuệ.

Ba la mật là ǵ ? Đó là phiên âm của chữ Phạn Ấn Độ, có nghĩa là đến bờ bên kia. Nếu chư vị hiểu nghĩa này lập tức xa ĺa sanh diệt, nếu chấp trước vào cảnh, sanh diệt lập tức khởi. Thí dụ sóng khởi trên nước - đó là những ǵ xảy ra ở bờ bên này. Xa ĺa cảnh và đoạn sanh diệt, giống như xuôi theo ḍng nước lớn. Do đó mới gọi là đến bờ bên kia, hay Ba la mật. Kẻ mê niệm ngoài miệng, người trí tu hành trong tâm. Nếu lúc chư vị niệm có vọng tưởng sanh khởi trong tâm, ngay cái vọng tưởng ấy cũng không phải là thật có. Nếu như chư vị tu hành từng niệm niệm liên tục, đó mới gọi là chân hữu. Ai ngộ được pháp này, tức là ngộ pháp Bát nhă, tu Bát nhă hành. Không tu là phàm phu, chỉ cần một niệm tu hành thôi, Pháp thân của ḿnh b́nh đẳng với Phật. Thiện tri thức, chính phiền năo là Bồ đề. Khi tâm tưởng quá khứ bị mê th́ đó là phàm phu (người tầm thường), khi niệm tưởng tương lai được giác ngộ, đó là Phật. Này các thiện tri thức, Ma ha Bát nhă Ba la mật đa là tối tôn, tối thượng, đệ nhất, không trụ, không đi, không đến. Chư Phật ba đời đều từ đó mà ra. Bằng đại trí tuệ, chúng ta đến được bờ bên kia và đủ phá vỡ được phiền năo và trần lao của ngũ ấm*. Bởi v́ Bát nhă Ba la mật đa là tối tôn, tối thượng, đệ nhất, nếu như chư vị tán thán pháp tối thượng thừa này và tu hành theo đó, nhất định sẽ thành Phật. Không đi, không trụ, không lai văng, với sự b́nh đẳng giữa định và tuệ, không nhiễm bởi bất cứ pháp nào, chư Phật ba đời phát xuất từ đó và biến tam độc thành giới (răn), định, tuệ.

*Ngũ uẩn hay ngũ ấm là:

   1. Sắc (zh. ; sa., pi. rūpa), chỉ thân và sáu giác quan (Lục căn), do Tứ đại chủng (sa., pi. mahābhūta) tạo thành, đó là bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa. Sắc tạo nên các giác quan và đối tượng của chúng.

   2. Thụ - thọ (zh. , sa., pi. vedanā), tức là toàn bộ các cảm giác, không phân biệt chúng là dễ chịu, khó chịu hay trung tính.

   3. Tưởng (zh. , sa. sajñā, pi. saññā), là nhận biết các cảm giác như âm thanh, màu sắc, mùi vị ..., kể cả nhận biết ư thức đang hiện diện.

   4. Hành (zh. , sa. saskāra, pi. sakhāra), là những hoạt động tâm lí sau khi có tưởng, ví dụ chú ư, đánh giá, vui thích, ghét bỏ, quyết tâm, tỉnh giác ...

   5. Thức (zh. , sa. vijñāna, pi. viññāa), bao gồm sáu dạng ư thức liên hệ tới sáu giác quan: Ư thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư.

27. - Này các thiện tri thức, pháp môn này của tôi phát xuất từ tám vạn bốn ngàn trí tuệ. Tại sao vậy ? Bởi v́ thế gian này có tám vạn bốn ngàn trần lao, nếu không trần lao th́ Bát nhă vẫn luôn luôn thường trụ*, không hề ĺa khỏi tự tánh. Nếu chư vị ngộ được pháp này, chư vị sẽ không có niệm, không kư ức (Ghi nhớ sâu trong tâm) không chấp trước. Không cần phải trừ khử vọng tưởng bởi v́ vọng tưởng chính chúng có bản tánh của chân như. Dùng trí tuệ quán chiếu tất cả các pháp, và không thủ (giữ lấy) không xả (vất bỏ), tức là kiến tánh thành Phật.

*Trụ: C̣n đấy, nhà Phật   nói muôn sự muôn vật ở thế gian cái ǵ cũng có bốn thời kỳ : thành trụ hoại không 成住壞空. Hễ cái ǵ đang ở vào thời kỳ c̣n đấy th́ gọi là trụ. Như trụ tŕ Tam bảo 住持三寶. Phật tuy tịch rồi, nhưng c̣n tượng ngài lưu lại, cũng như Phật ở đời măi thế là trụ tŕ Phật bảo 住持佛寶. Phật tuy tịch rồi, nhưng kinh sách c̣n lưu truyền lại thế là trụ tŕ Pháp bảo 住持法寶. Phật tuy tịch rồi, nhưng c̣n các vị xuất gia tu hành kế tiếp làm việc của Phật, thế là trụ tŕ Tăng bảo 住持僧寶. V́ thế nên một vị nào làm chủ trông nom cả một ngôi chùa gọi là vị trụ tŕ 住持.

28. - Này các thiện tri thức, nếu chư vị muốn nhập pháp giới thậm thâm (rất sâu), nhập Bát nhă tam muội, cần phải tu hành Bát nhă Ba la mật. Chỉ cần tŕ một quyển kinh Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật, ắt sẽ được kiến tánh và nhập Bát nhă tam muội. Phải biết rằng công đức của người ấy là vô lượng. Trong kinh đă tán thán rơ ràng, tôi không cần phải giải thích cặn kẽ thêm nữa. Đây là pháp môn tối thượng thừa*, v́ người có căn cơ cao và trí tuệ lớn mà nói. Những kẻ có căn cơ (nền gốc) thấp và ít trí tuệ, nếu như nghe pháp môn này, tâm khó mà sanh tin. Tại sao vậy ? Ví dụ như rồng lớn làm cơn mưa lớn trên cơi Diêm Phù Đề này, các thành, ấp, thôn, xóm đương nhiên sẽ bị cuốn sạch cả, tựa như lá cỏ nổi trôi. Song nếu cơn mưa kia rơi xuống biển lớn, nước biển vẫn sẽ không tăng không giảm.

Nếu như một người tu pháp môn Đại thừa mà nghe giảng kinh Kim Cang, tâm liền khai mở và giác ngộ. Cho nên chúng ta biết rằng bản tánh đă tự có trí Bát nhă, và bằng cách tự dùng trí tuệ mà quán chiếu (soi xét), chẳng cần dựa vào văn tự. Cũng y như cơn mưa kia không phải tự trời mà có, mà vốn do Long Vương đích thân dẫn nước từ trong sông biển, khiến cho tất cả chúng sanh, tất cả cây cỏ, tất cả hữu t́nh và vô t́nh đều được thấm nhuần. Các ḍng nước lại đều cùng chảy vào biển, biển nạp tất cả các thứ nước, hợp lại thành một thể. Trí Bát nhă của bản tánh chúng sanh cũng y như thế.

*Thừa : Bực. Phật học chia bực cao bực thấp. Như tiểu thừa 小乘  bực tu chỉ tự độ được ḿnh, cũng như cỗ xe nhỏ chỉ chở được ḿnh, đại thừa 大乘  bực tu đă tự độ ḿnh lại độ cho người. Như cỗ xe lớn chở được nhiều người.

29. Những kẻ có căn cơ thấp khi nghe giảng giáo lư đốn ngộ này, cũng giống như những loại cây cỏ gốc cạn trên mặt đất này, nếu như bị một cơn mưa lớn đổ xuống, đương nhiên sẽ bị ngă đổ, không sanh trưởng được nữa. Những kẻ có căn cơ thấp cũng y như thế. Họ cũng là những người vốn sở hữu trí Bát nhă chẳng có khác ǵ với bậc đại trí, song v́ sao mà họ dù có nghe pháp mà cũng vẫn chẳng giác ngộ ? Chính bởi v́ tà kiến ngăn chặn nặng nề và phiền năo bắt rễ sâu xa. Cũng giống như mây lớn che phủ mặt trời, nếu không có gió thổi cho mây tan, mặt trời không thể nào hiển hiện được. Trí Bát nhă vốn chẳng có lớn nhỏ, chỉ bởi v́ tất cả chúng sanh, tự có tâm mê mờ, đi tu tập t́m kiếm Phật ở bên ngoài, cho nên chưa ngộ được tự tánh ḿnh. Song ngay cả những kẻ với căn cơ thấp, nếu như được nghe giáo lư đốn ngộ, không c̣n tin nơi pháp ngoại tu nữa, mà chỉ nơi tự tâm ḿnh thường khởi chánh kiến, th́ mặc dù họ là những chúng sanh đầy những phiền năo trần lao, họ vẫn lập tức giác ngộ như thường. Cũng giống như biển lớn bao gồm các ḍng nước, hợp tất cả nước lớn nước nhỏ thành một thể. Đây gọi là kiến tánh. Người hiểu như vậy không đ́nh trệ bất cứ ở bên ngoài hay bên trong, đi lại tự do, trừ được tâm chấp trước, thông đạt vô ngại. Nếu trong tâm ḿnh tu được pháp môn này th́ bản tánh ḿnh sẽ chẳng có ǵ khác biệt với kinh Bát Nhă Ba La Mật.

30. Tất cả kinh sách và văn tự, thuộc Tiểu thừa Đại thừa, mười hai bộ kinh, đều v́ con người mà thiết lập. Nhân v́ trí tuệ trong tự tánh của con người mà mới có thể kiến lập được. Nếu như chúng ta là những người không sẵn sở hữu trí Bát nhă nơi ḿnh, tất cả vạn pháp vốn không thể hiện hữu. Cho nên phải nên biết rằng vạn pháp vốn từ con người mà phát sinh, tất cả kinh sách đều v́ con người mà nói. Bởi v́ trong loài người có kẻ ngu, người trí. Kẻ ngu là tiểu nhân, người trí là đại nhân. Nếu kẻ mê hỏi người trí, người trí sẽ v́ kẻ ngu mà thuyết pháp, khiến kẻ ngu giác ngộ và thấu hiểu một cách sâu xa. Nếu như kẻ mê giác ngộ và khai mở tâm ḿnh th́ hắn cũng chẳng khác ǵ với người đại trí. Cho nên chúng ta biết rằng, nếu không ngộ, th́ Phật cũng là chúng sanh. C̣n nếu như chỉ giác ngộ trong một niệm thôi th́ chúng sanh cũng là Phật. Cho nên chúng ta mới biết rằng tất cả vạn pháp đều ở cả trong chính tâm ḿnh, th́ cớ sao lại chẳng làm cho chân như bản tánh đốn hiện nơi tự tâm ḿnh ? Kinh Bồ Tát Giới nói: Tự tánh của chúng ta vốn thanh tịnh, thức tâm kiến tánh, lập tức tự thành tựu Phật đạo. Lập tức, hoát nhiên, đạt lại được bản tâm.

31. - Này các thiện tri thức, lúc tôi ở nơi Ḥa thượng Hoằng Nhẫn, chỉ nghe giảng kinh Kim Cang một lần, lập tức thấy được chân như bản tánh. Cho nên tôi mới đem giáo pháp này, lưu hành cho đời sau, khiến cho những người học đạo đốn ngộ được Bồ đề. Mỗi người phải tự quán tâm và đốn ngộ bản tánh ḿnh. Những người không tự ngộ được, cần phải t́m một vị Đại thiện tri thức để dạy cho ḿnh pháp kiến tánh.

Thế nào là một vị Đại thiện tri thức ? Đó là người hiểu được rằng Tối thượng thừa pháp là con đường chánh. Đó chính là một vị Đại thiện tri thức. Đó là đại nhân duyên*, gọi là hóa đạo khiến chúng ta thấy được Phật. Tất cả các thiện pháp đều nhân bậc Đại thiện tri thức mà phát khởi. Cho nên mặc dù nói rằng chư Phật ba đời và mười hai bộ kinh vốn hiện hữu trong tự tánh con người, song nếu không tự giác ngộ được nơi tự tánh th́ cần phải nhờ bậc thiện tri thức chỉ bày cho pháp kiến tánh.

Nếu như tự ngộ được, không cần phải cậy vào thiện tri thức bên ngoài nữa. Nếu như vọng cầu giải thoát bằng cách nương cậy vào thiện tri thức bên ngoài, điều ấy không thể có được. Biết được bậc thiện tri thức trong tự tâm ḿnh, lập tức đạt được giải thoát. Nếu tự tâm ḿnh tà mê, vọng niệm điên đảo, th́ dù có bậc thiện tri thức bên ngoài giúp đỡ đi nữa, cũng chẳng thể nào cứu ḿnh được. Nếu như không tự ngộ được, cần phải lấy trí tuệ Bát nhă ra quán chiếu, th́ trong một sát na các vọng niệm đều bị tiêu diệt ngay. Nếu như nhận ra được rằng ḿnh chính là thiện tri thức của ḿnh, một khi giác ngộ là lập tức biết Phật. Nếu nơi tự tánh tâm dùng trí tuệ quán chiếu, trong ngoài đều sáng sủa thông suốt, lập tức ḿnh hiểu bản tâm của ḿnh. Nếu biết bản tâm, th́ đó chính là giải thoát. Đă được giải thoát, th́ đó chính là Bát nhă tam muội. Giác ngộ được Bát nhă tam muội, chính là vô niệm.

Vô niệm là ǵ ? Pháp vô niệm có nghĩa là mặc dù ḿnh thấy tất cả các pháp, song ḿnh không chấp trước vào bất cứ pháp nào, lưu hành khắp mọi nơi, mà không chấp trước vào bất cứ một nơi chốn nào, thường thanh tịnh tự tánh, khiến sáu tên giặc theo sáu cửa mà ra. Mặc dù ở trong lục trần, song không xa ĺa mà cũng không bị tạp nhiễm, đi lại tự do. Đó chính là Bát nhă tam muội, tự tại giải thoát, gọi là vô niệm hành. Nếu không nghĩ đến ǵ cả, luôn luôn tuyệt niệm, như thế có nghĩa là bị trói buộc trong pháp, đó gọi là biên kiến (ch́ thấy bên cạnh). Một khi ngộ được vô niệm pháp, th́ vạn pháp đều thông suốt. Ngộ vô niệm pháp tức là thấy cảnh giới của chư Phật. Ngộ được pháp môn đốn vô niệm, tức là đạt đến cảnh vị Phật.

*Nhân duyên : Nhân, cái nhân kết thành cái ǵ gọi là duyên. Như duyên cố 緣故  duyên cớ. Nhà Phật   cho v́ nhân mà được quả là duyên. Như nhân duyên 因緣, duyên phận 緣分.

Chỗ duyên theo đó mà phát ra. Như nhân quả 因果. Nhà Phật   cho phần đă làm ra là nhân, phần phải chịu lấy là quả, làm ác phải tội, làm thiện được phúc, thế là nhân quả.

32. - Này các thiện tri thức, người đời sau nếu ngộ được pháp của tôi sẽ thấy được rằng Pháp thân của tôi sẽ chẳng cách xa chư vị. Này các thiện tri thức, hăy đem pháp môn đốn giáo này, cùng nhau quán sát và tu hành, phát nguyện thọ tŕ. Đó chính là phụng sự Phật, cho nên những ai suốt đời thọ tŕ mà không thoái chuyển, th́ sẽ được nhập thánh vị. Nay tôi muốn truyền thọ pháp môn này, song từ xưa đến nay, pháp này chỉ được trao truyền trong im lặng, và chỉ khi nào mà đại nguyện đă được phát, Bồ đề không thoái chuyển, mới nên trao truyền. Nếu gặp người không đồng kiến giải (hiểu biết, nhận rơ được ư) với ḿnh, lại không có chí nguyện, tuyệt đối không nên vọng động tuyên thuyết trao truyền. Nếu chư vị làm thế chỉ tổ có hại cho họ, rốt cuộc chẳng có ích lợi ǵ cả. Nếu gặp phải những người không hiểu, khinh mạn pháp môn này, th́ trong trăm kiếp, vạn kiếp, ngàn đời chủng tánh Phật sẽ bị đứt đoạn.

33. Đại sư nói:

- Này các thiện tri thức, nghe tôi nói bài tụng vô tướng đây, để cho những ai c̣n mê mờ trừ diệt được các tội chướng. Đây cũng gọi là bài Diệt tội tụng. Tụng rằng:

Kẻ ngu tu phước không tu đạo

Bảo rằng tu phước chính là đạo

Bố thí cúng dường phước vô biên

Trong tâm tam nghiệp vẫn tạo tác

Nếu mong tu phước để diệt tội

Đời sau được phước, tội vẫn c̣n

Trừ được nguồn tội trong tâm ḿnh

Là chân sám hối nơi tự tánh

Nếu ngộ Đại thừa chân sám hối

Trừ tà, hành chánh, tạo vô tội

Nếu người học đạo biết tự quán

Lập tức ngang hàng với người ngộ

Tôi xin trao truyền pháp đốn này

Người học cùng tôi đồng một thể

Muốn t́m bản thân trong tương lai

Phải rửa nguồn tam độc trong tâm

Nỗ lực tu đạo đừng buông lung

Hốt nhiên qua một đời vô ích

Nếu gặp pháp Đại thừa đốn giáo

Chân thành chắp tay chí tâm cầu.

Đại sư nói pháp xong, vị Sứ quân cùng các quan liêu, Tăng chúng, đạo và tục tán thán vô tận, khen ngợi rằng đó là giáo pháp mà họ chưa từng nghe bao giờ.

34. Vị Sứ quân đảnh lễ rồi nói:

- Ḥa thượng thuyết pháp quả thực bất khả tư nghị, đệ tử có ít điều c̣n hoài nghi, muốn hỏi Ḥa thượng, cúi xin Ḥa thượng rủ ḷng đại từ đại bi, giải thích cho đệ tử.

Đại sư nói:

- Có điều nghi ngờ th́ cứ hỏi, không cần phải úp mở làm ǵ.

Sứ quân hỏi:

- Giáo pháp của Đại sư, phải chăng là tông chỉ của Đệ nhất Tổ Ấn Độ Bồ Đề Đạt Ma?.

Đại sư nói:

- Phải.

Sứ quân nói:

- Đệ tử nghe nói lúc Đạt Ma Đại sư khai hóa Lương Vơ đế, Vơ đế hỏi Đạt Ma: Trẫm cả đời xây chùa, bố thí, cúng dường, có công đức hay không. Ngài Đạt Ma trả lời: Chẳng có công đức ǵ cả. Vơ đế không vui, bèn đuổi Đạt Ma ra khỏi bờ cơi. Đệ tử chưa hiểu chuyện này, xin Ḥa thượng giải thích cho.

Lục Tổ nói:

- Quả thực chẳng có công đức ǵ cả. Sứ quân đừng nghi ngờ lời Đạt Ma Đại sư. Vơ đế chấp trước tà kiến, không hiểu chánh pháp.

Sứ quân hỏi:

- Tại sao lại không có công đức ǵ cả?.

Ḥa thượng nói:

- Xây chùa, bố thí, cúng dường chỉ là tu phước, không thể lấy phước làm công đức được. Công đức ở tại Pháp thân, không phải ở phước điền. Tự trong pháp tánh đă có công đức. Kiến tánh là công, b́nh đẳng là đức. Bên trong thấy Phật tánh, bên ngoài tu hành cung kính. Nếu như khinh tất cả mọi người, không cắt đứt được sự chấp ngă, th́ tự ḿnh không thể có công đức được. Nếu như tự tánh ḿnh hư vọng, Pháp thân không c̣n có đức nữa. Nếu trong niệm niệm liên tục có tu hành phước đức và b́nh đẳng chân tâm, th́ công đức sẽ không nhỏ và hành vi luôn luôn cung kính. Tự tu thân là công, tự tu tâm là đức. Công đức là do tự tâm mà ra, phước và công đức là khác nhau. Vơ đế không hiểu chánh lư, chứ không phải là Tổ Đạt Ma Đại sư lầm lẫn đâu.

35. Sứ quân đảnh lễ rồi lại nói:

- Đệ tử thấy Tăng chúng, đạo, tục, thường niệm A Di Đà Phật và nguyện văng sanh Tây phương. Xin Ḥa thượng giải thích rơ cho đệ tử xem người ta có thực sự văng sanh ở đó được không, ngơ hầu để dẹp tan mối nghi của đệ tử.

Đại sư nói:

- Sứ quân lắng nghe, Huệ Năng tôi sẽ giải thích cho ông. Thế Tôn lúc ở Xá Vệ quốc, thuyết giảng về Tây phương để dẫn hóa chúng sanh. Kinh văn nói rơ ràng rằng: Tây phương cách đây không xa. Chỉ v́ muốn dạy những người có căn cơ thấp mới nói là xa, c̣n nói gần là để dạy người có trí tuệ cao. Tuy con người có hai loại, pháp chẳng hề có bất đồng. Giữa mê và ngộ có sự dị biệt, cũng như kiến giải có mau có chậm. Kẻ mê niệm Phật hy vọng văng sanh Tây phương, người ngộ chỉ thanh tịnh tâm ḿnh. Cho nên Phật nói: Tùy tâm ḿnh tịnh, là Phật độ tịnh.

- Sứ quân, người ở phương Đông nếu chỉ cần tịnh tâm là lập tức hết tội chướng, người ở Tây phương Tịnh độ tâm mà không tịnh (sạch sẽ) là lập tức có lỗi lầm. Kẻ mê nguyện văng sanh Đông phương hay Tây phương, c̣n người ngộ th́ ở bất cứ đâu cũng là một cả. Chỉ cần tâm chẳng có không tịnh, là Tây phương chẳng cách xa đây. C̣n như tâm mà khởi bất tịnh, th́ dù có niệm Phật để cầu văng sanh cũng khó mà đạt được. Trừ được mười điều ác tức là đi được mười vạn dặm, không có tám điều tà tức là đă vượt qua được tám ngàn dặm. Song nếu tu hành chân tâm, ḿnh sẽ đến Tây phương trong nháy mắt.

- Sứ quân, chỉ nên lo tu thập thiện, cần ǵ phải nguyện văng sanh. Nếu như ông không đoạn cái tâm làm mười điều ác, Phật nào đến đón ông đây ? Nếu giác ngộ được giáo pháp đốn ngộ vô sanh, chỉ trong sát na là ông thấy Tây phương. Nếu như không ngộ giáo lư đốn ngộ của Đại thừa, con đường niệm Phật để mong văng sanh quá xa vời, làm sao mà đạt đến được ?.

Lục Tổ nói:

- Để Huệ Năng tôi trong một sát na (tích tắc) dời Tây phương đến ngay trước mắt cho Sứ quân thấy, Sứ quân có muốn thấy chăng ?.

Sứ quân cúi lạy nói:

- Nếu như đệ tử có thể thấy Tây phương ở đây, c̣n cần ǵ phải văng sanh nữa. Xin Ḥa thượng từ bi làm cho Tây phương hiển hiện trước mắt đệ tử th́ tốt lắm thay.

Đại sư nói:

- Có thể thấy Tây phương ngay từ con đường đi này, không có ǵ đáng ngờ cả. Bây giờ chúng ta giải tán thôi.

Đại chúng đều ngạc nhiên, không ai hiểu chuyện ǵ cả.

Đại sư nói:

- Đại chúng, xin hăy cẩn thận lắng nghe. Sắc thân của người đời là một thành phố. Mắt, mũi, tai, lưỡi là cửa thành. Bên ngoài có năm cửa, bên trong có cửa của ư thức. Tâm tức là đất, tánh tức là vua. Tánh c̣n th́ vua c̣n, tánh đi th́ vua không c̣n. Tánh c̣n th́ thân tâm c̣n, tánh đi th́ thân tâm hoại (hủy nát). Phật là do tự tánh mà ra, chớ nên hướng ra ngoài thân mà cầu. Mê mờ tự tánh th́ Phật là chúng sanh, giác ngộ tự tánh th́ chúng sanh tức là Phật. Từ bi là Quán Thế Âm, hỷ xả là Đại Thế Chí, năng thanh tịnh là Thích Ca, b́nh đẳng chân thực là Di Lặc, nhân ngă chấp là núi Tu Di, tà tâm là biển lớn, phiền năo là sóng, tâm độc là rồng dữ, trần lao là cá rùa, hư vọng là thần quỷ, tam độc là địa ngục, ngu si là súc sanh, thập thiện là thiên đường. Nếu không chấp nhân ngă, núi Tu Di tự lở; trừ tà tâm, nước biển lập tức cạn; không có phiền năo, sóng tự nhiên hết; trừ độc hại, cá rồng sẽ hết. Hăy để giác tánh Như Lai trên tâm địa của ḿnh, phóng ánh sáng trí tuệ lớn, chiếu sáng sáu cửa, và bằng ánh sáng thanh tịnh ấy chiếu phá sáu cơi trời của Dục giới. Nếu bên trong tự tánh chiếu sáng, tam độc sẽ bị trừ và địa ngục sẽ lập tức tiêu diệt. Nếu trong ngoài ǵ đều trong sáng thấu suốt th́ đây cũng chẳng khác ǵ Tây phương. Nếu như không tu hành pháp môn này, làm thế nào có thể đến bên ấy được?.

Những người lắng nghe dưới ṭa, tán thán đến tận trời cao, và tất cả những người mê mờ cũng hiểu rơ ràng.

Sứ quân cúi lạy, tán thán:

- Lành thay, lành thay! Nguyện rằng tất cả chúng sanh trong pháp giới nghe thấy đều lập tức giác ngộ.

36. Đại sư nói:

- Này các thiện tri thức, nếu như muốn tu hành, tại gia cũng được, không cần phải ở chùa. Nếu như ở chùa mà không tu, th́ có khác chi những người ở Tây phương mà tâm địa độc ác. C̣n ở tại gia mà tu hành, th́ cũng như người ở Đông phương mà tu thiện pháp. Chỉ cần ở tại gia mà tu thanh tịnh th́ đó tức là Tây phương.

Sứ quân hỏi:

- Bạch Ḥa thượng, tại gia phải tu như thế nào, cúi xin Ḥa thượng chỉ dạy.

Đại sư nói:

- Này các thiện tri thức, để Huệ Năng tôi làm một bài Vô tướng tụng cho chư vị, Tăng cũng như tục. Nếu như chư vị đều tŕ tụng rồi theo đó mà tu hành, th́ các vị lúc nào cũng như ở cùng một chỗ với Huệ Năng.

Tụng rằng:

Thuyết (nói, giải thích) thông và tâm thông

Như mặt trời trên không

Chỉ truyền pháp đốn giáo

Xuất thế phá tà tông

Giáo vốn không đốn tiệm

Mê ngộ, có nhanh chậm

Học pháp đốn giáo này

Kẻ ngu không hiểu nổi

Cách giảng tuy vạn loại

Hợp lư lại quy nhất

Trong nhà phiền năo tối,

Mặt trời tuệ thường mọc

Tà đến v́ phiền năo

Chánh đến phiền năo trừ

Tà chánh đều không dụng

Thanh tịnh đến Niết bàn

Bồ đề vốn thanh tịnh

Khởi tâm tức là vọng

Tịnh tánh ở trong vọng

Chánh trí trừ tam chướng

Thế gian nếu tu đạo

Không ǵ ngăn ngại được

Nếu thường tỏ lỗi ḿnh

Tức tương đương với đạo

Chúng sanh sở hữu đạo

Ĺa đạo mà t́m đạo

Rốt cuộc tâm ảo năo

Nếu muốn t́m kiếm đạo

Chánh hành tức là đạo

Nếu không có chánh tâm

Tối ám không thấy đạo

Người thật tâm tu đạo

Không thấy lỗi người đời

Nếu thấy thế gian sai

Chính ḿnh sai và tà

Người sai ḿnh có lỗi

Ḿnh sai ḿnh có lỗi

Chỉ cần khử tâm sai

Đập nát tan phiền năo

Nếu muốn hóa người ngu

Cần phải có phương tiện

Đừng để họ nghi tâm

Th́ Bồ đề mới hiện

Pháp vốn ở thế gian

Đồng thời xuất thế gian

Chớ nên ĺa thế gian

Cầu xuất thế bên ngoài

Tà kiến là thế gian

Chánh kiến xuất thế gian

Đả phá tà lẫn chánh

Bồ đề tánh hiện rơ

Đây chính là đốn giáo

Cũng gọi là Đại thừa

Mê mờ từ muôn kiếp

Giác ngộ chỉ sát na.

37. Đại sư nói:

- Này các thiện tri thức, nếu như chư vị tŕ tụng bài kệ này và y theo đó tu hành, th́ dù cho chư vị có cách xa Huệ Năng đến ngàn dặm, chư vị vẫn luôn luôn ở cạnh tôi. Nếu như chư vị không tu giáo lư này, th́ dù chúng ta có đối diện cũng vẫn cứ cách xa nhau ngàn dặm. Mỗi người phải tự tu, pháp không đợi chư vị đâu. Chúng ta tạm thời phân tán, Huệ Năng tôi xin quay về núi Tào Khê. Nếu có ai có điều nghi lớn, xin cứ đến núi đó t́m, tôi sẽ phá nghi cũng như chỉ ra thế giới của Phật cho chư vị.

Tất cả các quan liêu, Tăng, tục dưới ṭa đều bái lạy Ḥa thượng, không ai không tán thán:

- Lành thay đại ngộ! Đây là những điều chưa từng nghe thấy bao giờ. Lĩnh Nam lại được phước mà có Phật sanh nơi ấy, thật không ai ngờ nổi! .

Rồi cùng giải tán.

38. Đại sư về Tào Khê và giáo hóa thiên hạ ở hai miền Thiều Châu và Quảng Châu suốt hơn bốn mươi năm. Nếu nói về số môn nhân của ngài th́ cả Tăng lẫn tục, phải nói trên mấy chục ngàn người. Nếu nói về tông chỉ, th́ chuyên truyền thọ bộ Đàn kinh này, coi là căn bản nương tựa. Nếu chưa đắc được Đàn kinh, chưa thể kể là được bẩm thụ. Cần phải biết nơi chốn, ngày tháng và tên tuổi của người được truyền thọ để kèm theo kinh lúc truyền thọ. Ai chưa được Đàn kinh và truyền thừa, th́ chưa phải đệ tử của Nam Tông. Kẻ chưa được truyền thừa, th́ tuy thuyết giảng pháp đốn ngộ, song vẫn chưa hiểu giáo lư căn bản, cuối cùng khó mà tránh khỏi tranh căi. Những người đă đắc pháp rồi chỉ nên chuyên cần tu tập. Tranh căi biểu lộ cái tâm lo được thua, th́ trái ngược với đạo.

39. Người đời ai cũng nói Nam Năng, Bắc Tú, song chưa hiểu nguyên do chính của câu chuyện. Thiền sư Thần Tú tu hành với tư cách là chủ tŕ chùa Ngọc Tuyền ở Đường Dương huyện, Kinh Nam phủ. Đại sư Huệ Năng trú tại núi Tào Khê ở ba mươi lăm dặm về phía Đông thành Thiều Châu. Pháp là một tông, người có Nam Bắc, do đó nơi lập nên Nam tông, Bắc tông. Đốn và Tiệm có nghĩa là ǵ ? Pháp vốn là một, song thấy có nhanh chậm. Thấy chậm là tiệm, thấy nhanh là đốn. Pháp vốn không có đốn tiệm, song người có thông minh chậm lụt, cho nên mới có tên đốn và tiệm.

40. Thiền sư Thần Tú thường nghe người ta nói về giáo lư đốn ngộ và pháp trực chỉ của Huệ Năng.

Thiền sư Thần Tú bèn gọi người Tăng đệ tử là Chí Thành, rồi nói:

- Ông vốn thông minh biết nhiều. Ông đi đến núi Tào Khê giùm tôi, đến nơi của Huệ Năng, bái lạy thầy ta rồi lắng nghe. Đừng nói là tôi sai ông đến. Lắng nghe những giáo lư cốt yếu của thầy ta, ghi nhớ lấy rồi trở về đây nói lại cho tôi nghe, để tôi xem kiến giải của Huệ Năng so với tôi ai mau ai chậm. Ông nhất định về cho sớm, đừng để tôi giận !.

Chí Thành vui vẻ thi hành sứ mệnh kia, trong ṿng nửa tháng đến được Tào Khê, gặp Ḥa thượng Huệ Năng, bái lạy rồi lắng nghe, không nói ḿnh từ đâu đến cả. Chí Thành nghe pháp và lập tức giác ngộ, khế hợp với bản tâm, bèn đứng dậy vái lạy, nói rằng:

- Bạch Ḥa thượng, đệ tử từ chùa Ngọc Tuyền tới. Lúc c̣n học với thầy Thần Tú chẳng đạt được khế ngộ (chí hợp nhau), nay nghe Ḥa thượng thuyết giảng, bèn giác ngộ được bản tâm. Cúi xin Ḥa thượng từ bi chỉ dạy cho đệ tử..

Đại sư Huệ Năng mỉm cười nói:

- Ông từ phương ấy tới, đương nhiên là gian tế.

Chí Thành bạch:

- Không phải.

Đại sư nói:

- Tại sao không phải?.

Chí Thành đáp:

- Lúc Ḥa thượng chưa giảng pháp th́ đệ tử là thế, sau khi Ḥa thượng giảng pháp rồi, đệ tử không c̣n là thế nữa.

Lục Tổ nói:

- Phiền năo tức là Bồ đề, cũng như thế mà thôi.

41. Đại sư nói với Chí Thành:

- Tôi nghe Thiền sư của các ông dạy người ta chỉ truyền giới, định và tuệ. Giới, định và tuệ mà Ḥa thượng của ông dạy người ta là thế nào ? Ông thử nói cho tôi nghe xem.

Chí Thành nói:

- Ḥa thượng Thần Tú dạy về giới, định và tuệ như sau: Không làm các điều ác gọi là giới, làm tất cả những điều thiện gọi là tuệ, tự tịnh ư ḿnh gọi là định. Đây chính là giới, định và tuệ mà Ḥa thượng Thần Tú giảng dạy, không hiểu kiến giải của Ḥa thượng như thế nào ?.

Ḥa thượng Huệ Năng đáp:

- Lối giải thích ấy quả thật là bất khả tư nghị (không thể nghĩ bàn), song kiến giải của Huệ Năng lại khác.

Chí Thành hỏi:

- Khác như thế nào?.

Huệ Năng đáp:

- Cách thấy có nhanh có chậm.

Chí Thành yêu cầu Ḥa thượng giảng về kiến giải của ngài về giới, định và tuệ.

Đại sư nói:

- Ông nghe tôi nói đây, rồi ông sẽ hiểu chỗ thấy của tôi. Tâm địa (nơi ở của tâm) không có nghi hoặc là giới của tự tánh, tâm địa không có động loạn là định của tự tánh, tâm địa không có si (sai lầm mê mẩn) là tuệ của tự tánh.

Đại sư Huệ Năng lại nói:

- Giới, định và tuệ của ông là để khuyến những người có căn cơ thấp, giới, định và tuệ của tôi là để khuyến những người có căn cơ cao. Bởi v́ giác ngộ tự tánh chính là cốt yếu của giáo lư của tôi, thực ra tôi cũng chẳng buồn lập (gây dựng, tạo dựng) giới, định và tuệ.

Chí Thành nói:

- Xin Đại sư giải thích cho đệ tử biết bất lập có nghĩa là ǵ ?.

Đại sư nói:

- Tự tánh không sai, không loạn, không si. Trong từng niệm để trí Bát nhă quán chiếu, luôn luôn xa ĺa pháp tướng, th́ có ǵ để lập ? Tự ngộ tự tánh ḿnh đốn ngộ, đốn tu, chẳng có ǵ là tiệm thứ, cho nên chẳng lập nên bất cứ thứ ǵ cả.

Chí Thành đảnh lễ, rồi không rời núi Tào Khê nữa, trở thành môn nhân và không bao giờ rời xa Đại sư nữa.

42. Lại có một Tăng nhân tên là Pháp Đạt, đă tụng kinh Pháp Hoa suốt bảy năm, song tâm vẫn mê mờ không biết Chánh pháp ở đâu.

Đến núi Tào Khê, bái lạy rồi hỏi:

- Đệ tử có vài điều nghi hoặc về kinh, Đại sư có trí tuệ quảng đại, xin giải quyết các nghi hoặc cho đệ tử.

Đại sư nói:

- Này Pháp Đạt, nói về pháp th́ ông rất là đạt, nhưng tâm ông th́ không đạt. Đối với kinh, ông chẳng có điều nghi hoặc ǵ cả, chỉ v́ chính tâm ông tự nghi mà thôi. Tâm ông tà mà ông đ̣i cầu Chánh pháp. Tâm ḿnh chánh định, tức là tŕ kinh. Tôi suốt cả đời chẳng bao giờ biết chữ. Ông đem kinh Pháp Hoa đến đây, đọc cho tôi nghe một lần, tôi nghe là hiểu ngay.

Pháp Đạt đem kinh đến, đọc cho Đại sư nghe một lần. Sau khi nghe xong, Lục Tổ đă hiểu ư chỉ của Phật, bèn giảng kinh Pháp Hoa cho Pháp Đạt.

Lục Tổ nói:

- Này Pháp Đạt, kinh Pháp Hoa, không có nói ǵ thừa cả. Cả bảy quyển chỉ nói thí dụ về nhân duyên. Như Lai rộng nói ba thừa (cấp bậc), chỉ v́ người đời căn cơ cạn cợt. Kinh văn nói rơ ràng, chỉ có một Phật thừa, không có thừa nào khác.

Đại sư lại nói:

- Này Pháp Đạt, ông hăy lắng nghe về một Phật thừa này, chớ nên cầu Phật thừa thứ hai nào khác mà làm mê mờ bản tánh ḿnh đi. Trong kinh chỗ nào dạy Phật thừa ? Để tôi nói cho ông nghe. Kinh nói: Chư Phật Thế Tôn đều v́ một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trên thế gian. Mười sáu chữ trên là Chánh pháp. Pháp này phải hiểu như thế nào ? Ông nghe tôi nói đây. Tâm con người vốn không liên hệ ǵ với tư tưởng, vốn uyên nguyên (to lớn sâu thẳm) không tịch*. Cắt đứt các tà kiến, tức là cái một đại sự nhân duyên kia. Trong ngoài không mê tức là xa ĺa hai biên kiến. Nếu bên ngoài mà mê tức là bị chấp trước vào tướng, bên trong mà mê tức là bị chấp vào không. Nếu ở trong tướng mà ĺa tướng, ở trong không mà ĺa không, đó là trong ngoài không mê. Nếu như giác ngộ được pháp này th́ trong một niệm tâm lập tức khai mở và ông sẽ xuất hiện trên thế gian. Tâm khai mở vật ǵ ? Khai Phật tri kiến, và Phật có nghĩa là giác ngộ. Giáo lư này phân ra làm bốn cửa: khai giác tri kiến, thị giác tri kiến, ngộ giác tri kiến, nhập giác tri kiến. Đây gọi là khai thị ngộ nhập. Từ một chỗ vào tức là giác tri kiến, và bằng vào đó, ông sẽ thấy được bản tánh của ḿnh và siêu việt thế gian.

Đại sư lại nói:

- Này Pháp Đạt, tôi thường nguyện rằng tất cả người đời thường tự khai Phật tri kiến trên tâm địa ḿnh. Đừng nên khai chúng sanh tri kiến, bởi v́ người đời tâm tà, ngu mê làm ác, cho nên họ mới khai chúng sanh tri kiến. Nếu như người đời tâm chánh, khởi trí tuệ quán chiếu th́ sẽ tự khai mở Phật tri kiến cho ḿnh. Đừng nên khai mở chúng sanh tri kiến. Khai Phật tri kiến có nghĩa là xuất thế gian.

Đại sư lại nói:

- Này Pháp Đạt, đây là Nhất thừa pháp của kinh Pháp Hoa, sau đó lại phân chia ra làm ba, nguyên do là để dẫn độ người mê. Ông chỉ nên dựa vào một Phật thừa mà thôi.

Đại sư lại nói:

- Này Pháp Đạt, nếu ông tu hành nơi tâm th́ ông chuyển Pháp Hoa, nếu không như thế th́ Pháp Hoa chuyển ông. Nếu tâm ông chánh th́ ông chuyển Pháp Hoa, nếu tâm ông tà th́ Pháp Hoa chuyển ông. Nếu khai Phật tri kiến th́ ông chuyển Pháp Hoa, nếu khai chúng sanh tri kiến th́ ông bị Pháp Hoa chuyển.

Đại sư lại nói:

- Nếu ông nỗ lực theo pháp tu hành, đó tức là chuyển kinh.

Pháp Đạt vừa nghe lập tức đại ngộ, cảm động bật khóc, nói:

- Bạch Ḥa thượng, đệ tử quả thực chưa từng chuyển Pháp Hoa, suốt bảy năm nay toàn bị Pháp Hoa chuyển. Từ rày trở đi, đệ tử sẽ chuyển Pháp Hoa, và luôn luôn không ngớt tu hành Phật hạnh.

Đại sư nói:

- Phật hạnh chính là Phật.

Lúc ấy, những người lắng nghe, không ai không giác ngộ.

*Tịch: Im. Như tịch nhiên bất động 寂然不動  im phắc chẳng động. Nhà Phật   cho tu hành sạch hết mê vọng, vào nơi rỗng lặng, hưởng thú chân thường là tịch diệt 寂滅. Tâm thần lặng yên, tự nhiên soi tỏ, không sót tí ǵ gọi là tịch chiếu 寂照.

*Giác : Hiểu biết, hiểu những điều không biết đến gọi là giác. Đạo Phật   cốt nhất phải giác ngộ chân tính tỏ rơ hết mọi lẽ

43. Có một ông Tăng tên là Trí Thường, đến núi Tào Khê bái lạy Ḥa thượng Huệ Năng, rồi hỏi về ư nghĩa của pháp Tứ thừa.

Trí Thường hỏi Ḥa thượng:

- Phật nói Tam thừa, rồi lại nói Tối thượng thừa, đệ tử không hiểu, xin Ḥa thượng chỉ dạy.

Đại sư Huệ Năng nói:

- Ông hăy nh́n vào thân tâm ḿnh, đừng chấp trước vào pháp tướng bên ngoài. Vốn không có Tứ thừa pháp, bởi v́ tâm người có bốn bậc, cho nên pháp mới có Tứ thừa. Thấy, nghe, đọc, tụng là Tiểu thừa. Ngộ pháp hiểu nghĩa là Trung thừa. Y pháp tu hành là Đại thừa. Thông suốt hết vạn pháp, có đủ cả vạn hạnh, không xa ĺa tất cả mà chỉ xa ĺa pháp tướng, tác vô sở đắc (làm tất cả mà chầng được ǵ cả), đó là Tối thượng thừa. Thừa có nghĩa là tu hành, không cốt tranh biện ở miệng. Ông cần phải tự tu, đừng hỏi tôi làm ǵ.

44. Lại có một ông Tăng, tên là Thần Hội, là người hạt Nam Dương, đến núi Tào Khê, bái lạy và hỏi:

- Ḥa thượng lúc ngồi thiền, thấy hay là không thấy ?.

Ḥa thượng đứng dậy đánh Thần Hội ba cái, rồi hỏi:

- Này Thần Hội, lúc tôi đánh ông, ông đau hay không ?.

Thần Hội trả lời:

- Vừa đau vừa không đau.

Lục Tổ nói:

- Tôi cũng vừa thấy vừa không thấy.

Thần Hội lại hỏi:

- Bạch Đại sư, tại sao lại vừa thấy vừa không thấy ?.

Đại sư nói:

- Tôi thấy, nghĩa là thường thấy lỗi lầm của ḿnh, cho nên bảo là thấy; c̣n không thấy, nghĩa là không thấy lỗi lầm của thiên hạ. Cho nên tôi vừa thấy vừa không thấy. C̣n ông tại sao vừa đau vừa không đau ?.

Thần Hội trả lời:

- Nếu không đau, th́ đệ tử đâm ra giống cây, đá vô t́nh. Nếu đau, đệ tử tức đồng với phàm phu, khởi ḷng oán hận.

Đại sư nói:

- Này Thần Hội, cái thấy với không thấy vừa rồi là hai biên kiến, đau với không đau là sanh diệt. Ông ngay cả tự tánh c̣n chưa thấy, đ̣i dám đến đây bỡn người.

Thần Hội bái lạy, không nói ǵ nữa.

Đại sư nói:

- Ông tâm mê không trông thấy, phải hỏi bậc thiện tri thức chỉ đường cho, phải ngộ tâm và tự thấy, cũng như y pháp tu hành. Ông tự mê mà không thấy tự tâm, lại đến hỏi Huệ Năng có thấy hay không. Cho dù tôi có tự thấy, tôi cũng không thể mê giùm ông được. Cũng như ông có tự thấy, ông cũng chẳng thể mê thay cho tôi được. Tại sao ông không tự tu đi cái đă, rồi hăy hỏi tôi thấy hay không.

Thần Hội lễ lạy rồi trở thành môn nhân, không rời núi Tào Khê và luôn luôn ở cạnh Đại sư.

45. Đại sư gọi các môn nhân Pháp Hải, Chí Thành, Pháp Đạt, Trí Thường, Chí Thông, Chí Triệt, Chí Đạo, Pháp Trân, Pháp Như, Thần Hội và nói:

- Các ông, mười đệ tử của tôi, đến đây. Các ông không giống như những người khác. Sau khi tôi diệt độ rồi, các ông mỗi người sẽ lănh đạo một phương. Tôi sẽ giảng pháp cho các ông, để đừng mất bản tông. Tôi sẽ dạy cho các ông tam khoa Pháp môn và ba mươi sáu đôi động dụng, hiện và ch́m đều xa ĺa hai biên kiến. Khi giảng về tất cả các pháp đừng bao giờ ĺa khỏi tánh tướng. Nếu có người hỏi pháp, lời nói ra đều phải tương xứng và luôn luôn phải đối chiếu các pháp. Bởi v́ các pháp hỗ tương làm nhân cho nhau, nếu như thị nguyên (thấy rơ đầu mối) rốt cuộc bị trừ khử hết, chúng không c̣n có nơi nào để hiện hữu. Tam khoa pháp môn là ấm (uẩn : Tích chứa, góp), giới (răn đe, pḥng bị), nhập. Ấm là ngũ ấm, giới là thập bát giới, nhập là thập nhị nhập. Ngũ ấm là ǵ ? Là sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm. Thập bát giới là ǵ ? Là lục trần, lục môn và lục thức. Thập nhị nhập là ǵ ? Là lục trần bên ngoài và lục môn bên trong. Lục trần là ǵ ? Là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Lục môn là ǵ ? Là nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ư. Pháp tánh sanh khởi lục thức - nhăn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ư thức, cùng với lục môn và lục trần. Tự tánh hàm (chứa) vạn pháp, gọi là hàm tàng thức. Tư lương th́ thức chuyển, sanh lục thức, lục trần được thấy xuất ra từ lục môn. Ba sáu là mười tám. Do tự tánh ḿnh tà, mười tám tà sanh khởi. Nếu tự tánh ḿnh chánh, mười tám chánh pháp sẽ sanh khởi. Nếu hàm ác dụng th́ là chúng sanh, thiện dụng là Phật. Dụng phát sanh từ đâu ? Từ sự tương đối với tự tánh.

46. Có năm đối pháp thuộc ngoại cảnh vô t́nh. Trời đối với đất, mặt trời đối với mặt trăng, bóng tối đối với ánh sáng, âm đối với dương, lửa đối với nước. Có mười hai đối pháp trong ngôn ngữ và pháp tướng: Hữu vi và vô vi đối với hữu sắc và vô sắc, hữu tướng đối với vô tướng, hữu lậu (thô tục, hẹp ḥi, thiển lậu) đối với vô lậu, sắc đối với không, động đối với tĩnh, trong đối với đục, phàm đối với thánh, Tăng đối với tục, già đối với trẻ, lớn đối với nhỏ, dài đối với ngắn, cao đối với thấp.

Trong dụng khởi từ tự tánh có mười chín đối pháp: Tà đối với chánh, si đối với tuệ, ngu đối với trí, loạn đối với định, giới đối với sai, thẳng đối với cong, thực đối với hư, dốc đối với bằng, phiền năo đối với Bồ đề, từ (tốt lành) đối với tai hại, vui đối với giận, xả (vất bỏ) đối với tiếc, tiến đối với thoái, sanh đối với diệt, thường đối với vô thường, Pháp thân đối với Sắc thân, Hóa thân đối với Báo thân, thể đối với dụng, tánh đối với tướng, hữu t́nh đối với vô t́nh.

Ngôn ngữ và pháp tướng có mười hai đối pháp. Ngoại cảnh có năm đối pháp. Trong dụng do tự tánh sanh khởi có mười chín đối pháp, tất cả hợp lại thành ba mươi sáu đối pháp. Ba mươi sáu đối pháp này có thể áp dụng để thông tất cả các kinh, xuất thập ǵ cũng xa ĺa được hai biên kiến cả. Tự tánh khởi dụng như thế nào ? Khi nói với người khác về ba mươi sáu đối pháp này, bên ngoài tuy ở trong tướng mà vẫn xa ĺa tướng; bên trong tuy ở trong không mà vẫn không chấp trước không. Nếu chấp trước vào không tức là làm tăng trưởng vô minh; nếu chấp trước vào tướng tức là làm tăng trưởng tà kiến, bài báng pháp và nói bừa rằng không cần đến văn tự. Nếu nói rằng không cần văn tự th́ con người hẳn không được nói năng nữa, bởi v́ lời nói tức là văn tự. Song nói về không bằng tự tánh ḿnh, th́ đó là ngôn ngữ chánh đáng... Bản tánh không là không, v́ ḿnh tự mê tự hoặc, cho nên mới nói trừ bỏ ngôn ngữ. Bóng tối tự nó không phải là bóng tối, v́ có ánh sáng cho nên có bóng tối, bóng tối không tự nó là bóng tối bởi v́ ánh sáng biến thành bóng tối, và bóng tối làm hiển hiện ánh sáng. Ánh sáng và bóng tối là sanh nhân (nguyên nhân sanh ra) của nhau, ba mươi sáu đối pháp cũng giống vậy.

47. Đại sư nói:

- Này thập đệ tử, sau này các ông truyền pháp, hỗ tương giảng dạy một quyển Đàn kinh này, th́ bản tông sẽ không bị mất đi. Ai chưa được truyền thọ Đàn kinh, tức là chưa đắc tông chỉ của tôi. Nay các ông đă đắc rồi phải lưu hành cho các đời sau. Người nào hiểu được Đàn kinh th́ cũng như được tôi đích thân truyền thọ.

Mười môn nhân này sau khi được truyền thọ, chép lại Đàn kinh, lưu truyền cho hậu thế. Bất cứ ai đắc được bộ Đàn kinh cũng đều kiến tánh.

48. Đại sư nhập diệt ngày mồng ba tháng Tám năm Tiên Thiên thứ hai (tức ngày hai mươi tháng Tám năm 713). Ngày mồng tám tháng Bảy, Đại sư gọi các môn nhân đến để cáo biệt. Trong năm Tiên Thiên thứ nhất, Đại sư đă cho xây tháp ở chùa Báo Ân tại Tân Châu, và vào tháng Bảy năm Tiên Thiên thứ hai, Đại sư cáo biệt.

Đại sư nói:

- Các ông đến gần đây, tôi dự định rời thế gian vào vào tháng Tám. Các ông c̣n có điều nghi ǵ mau hỏi, tôi sẽ phá nghi cho các ông. Tôi phải chấm dứt sự mê mờ cho các ông. Tôi phải chấm dứt sự mê mờ của các ông để các ông được an lạc. Sau khi tôi đi rồi, đâu có ai để dạy các ông nữa.

Pháp Hải và chúng Tăng nghe xong, cảm động bật khóc. Chỉ có Thần Hội vẫn bất động mà cũng không khóc lóc.

Lục Tổ nói:

- Này Thần Hội, ông tuy c̣n trẻ mà đă đạt được giác ngộ không để cho thiện, bất thiện, khen hay chê làm động. C̣n những người khác không đắc, mấy năm nay ở trên núi này, các ông tu cái ǵ vậy ? Nay các ông khóc lóc, song có ai lo là tôi không biết nơi ḿnh sẽ đi chăng ? Nếu như tôi không biết tôi sẽ đi về đâu, hẳn tôi đă không chia tay với các ông. Nếu như các ông biết, các ông đă không khóc lóc. Pháp tánh vốn không có sanh diệt khứ lai. Các ông hăy ngồi xuống cả đi, để tôi nói cho các ông một bài kệ, gọi là "Chân-giả, Động tĩnh kệ". Các ông phải tŕ tụng. Hiểu được ư bài kệ này, các ông sẽ giống y như tôi. Y theo kệ mà tu hành, các ông sẽ không mất tông chỉ.

Tăng chúng lễ lạy yêu cầu Đại sư để lại kệ, nguyện sẽ cung kính thọ tŕ. Kệ rằng:

Tất cả không là chân

Đừng mong thấy là chân

Nếu như thấy là chân

Đều là thấy không chân

Nếu tự có được chân

Ĺa giả, tức chân tâm

Tự tâm không ĺa giả

Không chân, đâu là chân

Hữu t́nh ắt biết động

Vô t́nh không biết động

Nếu tu hạnh bất động

Bất động giống vô t́nh

Nếu ngộ chân bất động:

Là bất động trên động

Bất động là không động

Vô t́nh vô Phật chủng

Khéo phân biệt các tướng

Đệ nhất nghĩa bất động

Nếu ngộ được điểm này

Đó là chân như dụng

Nhắc các người học đạo

Phải nỗ lực dụng tâm

Đừng nơi Đại thừa pháp

Chấp trước sanh tử trí

Tương lai gặp người hợp

Phải cùng luận lời Phật

Nếu thật người không hợp

Chắp tay khuyên làm thiện

Giáo này vốn không tranh

Tranh tức mất ư đạo

Chấp mê tranh pháp môn

Tự tánh nhập sanh tử.

49. Chúng Tăng nghe xong, hiểu ư chỉ của Đại sư, lại càng không dám tranh căi, tự biết phải theo pháp tu hành. Tất cả đồng lễ lạy, biết rằng Đại sư không ở măi trên đời này được.

Thượng tọa Pháp Hải bước tới trước nói:

- Bạch Đại sư, sau khi Đại sư khứ thế rồi, y pháp phải trao lại cho ai đây ?.

Đại sư nói:

- Đă trao rồi, ông không nên hỏi nữa. Hơn hai mươi năm sau khi tôi nhập diệt, tà pháp nhiễu loạn, làm mê hoặc tông chỉ của ta. Lúc đó sẽ có người xuất hiện, không tiếc thân mạng, quy định lại thị phi trong Phật giáo, kiến lập tông chỉ, đó chính là Chánh pháp của ta. Y không cần phải truyền nữa. Nếu như ông không tin, tôi sẽ tụng những bài kệ của năm vị tiên Tổ lúc truyền y phó pháp cho ông nghe. Nếu dựa theo ư bài tụng của Đệ nhất Tổ Bồ Đề Đạt Ma, th́ không cần phải truyền y. Nghe tôi tụng cho các ông đây. Tụng rằng:

Bài tụng của Đệ nhất Tổ Ḥa thượng Bồ Đề Đạt Ma:

Ta vốn đến Trung Quốc

Truyền giáo cứu mê t́nh

Một hoa khai năm cành

Kết quả tự nhiên thành

Bài tụng của Đệ nhị Tổ Ḥa thượng Huệ Khả:

Bản lai vốn có đất

Từ đất giống hoa sinh

Nếu bản lai không đất

Hoa do đâu mà sinh?

Bài tụng của Đệ tam Tổ Ḥa thượng Tăng Xán:

Giống hoa tuy do đất

Trên đất giống hoa sinh

Nếu hoa không sinh tánh

Nơi đất cũng chẳng sinh

Bài tụng của Đệ tứ Tổ Ḥa thượng Đạo Tín:

Giống hoa có sinh tánh

Do đất giống hoa sinh

Tiên duyên không ḥa hợp

Tất cả đều chẳng sinh

Bài tụng của Đệ ngũ Tổ Ḥa thượng Hoằng Nhẫn:

Hữu t́nh đến gieo giống

Hoa vô t́nh tức sinh

Vô t́nh lại vô chủng

Tâm địa cũng không sinh

 

Bài tụng của Đệ lục Tổ Ḥa thượng Huệ Năng:

Tâm địa hàm tánh chủng (hạt giống)

Pháp vũ khiến hoa sinh

Tự ngộ hoa tánh chủng

Quả Bồ đề tự thành.

50. Đại sư Huệ Năng nói:

- Các ông hăy nghe hai bài tụng tôi đă làm, dựa theo ư bài tụng của Ḥa thượng Bồ Đề Đạt Ma. Các ông những người c̣n mê mờ nếu y theo bài tụng này mà tu hành, chắc chắn sẽ kiến tánh.

Bài tụng thứ nhất:

Tâm địa tà hoa này

Năm cánh mọc từ cành

Cùng tạo nghiệp vô minh

Kiến bị gió nghiệp thổi

Bài tụng thứ hai:

Tâm địa chánh hoa này

Năm cánh mọc từ cành

Cùng tu Bát nhă huệ

Tương lai Phật Bồ đề.

Sau khi Lục Tổ nói kệ xong, giải tán các môn nhân. Họ ra ngoài suy tư, biết rằng Đại sư không c̣n trụ thế bao lâu nữa.

51. Sau đến ngày mồng ba tháng Tám, sau khi thọ trai xong, Lục Tổ Đại sư nói:

- Các ông ai ngồi vào chỗ nấy đi, bây giờ tôi xin từ biệt với các ông đây.

Pháp Hải hỏi:

- Từ xưa đến nay, pháp môn đốn giáo này truyền thọ đă được bao nhiêu đời rồi ?.

Lục Tổ nói:

- Thoạt tiên được truyền thọ từ Thất Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật là thứ bảy, Đại Ca Diếp là thứ tám, A Nan là thứ chín, Mạt Điền Địa là thứ mười, Thương Na Ḥa Tu là thứ mười một, Ưu Ba Cú Đa là thứ mười hai, Đề Đa Ca là thứ mười ba, Phật Đà Nan Đề là thứ mười bốn, Phật Đà Mật Đa là thứ mười lăm, Hiếp Tỳ Khưu là thứ mười sáu, Phú Na Xa là thứ mười bảy, Mă Minh là thứ mười tám, Tỳ La Trưởng Giả là thứ mười chín, Long Thọ là thứ hai mươi, Ca Na Đề Bà là thứ hai mươi mốt, La Hầu La là thứ hai mươi hai, Tăng Già Na Đề là thứ hai mươi ba, Tăng Già Na Xá là thứ hai mươi bốn, Cưu Ma La Đà là thứ hai mươi lăm, Xa Da Đa là thứ hai mươi sáu, Bà Tu Bàn Đa là thứ hai mươi bảy, Ma Nô La là thứ hai mươi tám, Hạc Lặc Na là thứ hai mươi chín, Sư Tử Tỳ Khưu là thứ ba mươi, Xá Na Bà Tư là thứ ba mươi mốt, Ưu Bà Quật là thứ ba mươi hai, Tăng Già La là thứ ba mươi ba, Tu Bà Mật Đa là thứ ba mươi bốn, con thứ ba của Nam Thiên Trúc quốc vương Bồ Đề Đạt Ma là thứ ba mươi lăm, Trung Quốc Tăng Huệ Khả là thứ ba mươi sáu, Tăng Xán là thứ ba mươi bảy, Đạo Tín là thứ ba mươi tám, Hoằng Nhẫn là thứ ba mươi chín, hiện giờ Huệ Năng tôi là người thọ pháp thứ bốn mươi.

Đại sư lại nói:

- Từ rày trở đi truyền thọ cho nhau, cần có chỗ nương tựa, đừng để làm mất tông chỉ.

52. Pháp Hải lại bạch:

- Nay Đại sư đi, để lại pháp ǵ, những người đời sau phải làm thế nào để thấy Phật ?.

Lục Tổ nói:

- Các ông nghe đây, những người mê của đời sau, chỉ cần hiểu chúng sanh là có thể thành Phật. Nếu không biết chúng sanh, th́ dù có t́m Phật trong vạn kiếp cũng chẳng thể nào thấy được. Nay tôi sẽ dạy cho các ông biết chúng sanh trong tâm ḿnh và thấy Phật tánh trong tâm minh. Tôi cũng sẽ lưu lại một bài tụng gọi là "Kiến chân Phật giải thoát". Nếu mê mờ th́ sẽ không thấy Phật, nếu ngộ th́ sẽ thấy. Này Pháp Hải, hăy lắng nghe, và nhớ lưu truyền lại pháp này từ đời này qua đời khác để măi măi không bị đứt đoạn.

Lục Tổ lại nói:

- Các ông lắng nghe đây, tôi sẽ giảng cho các ông. Những người đời sau nếu muốn thấy Phật, chỉ cần phải biết rằng Phật tâm có trong chúng sanh, là có thể biết Phật. Phật tâm do chúng sanh mà có, ngoài chúng sanh ra không có Phật tâm.

Mê, Phật là chúng sanh

Ngộ, chúng sanh là Phật

Ngu, Phật là chúng sanh

Trí, chúng sanh là Phật

Tâm trệch, Phật chúng sanh

B́nh đẳng, chúng sanh Phật

Một đời tâm mà trệch

Phật lấp trong chúng sanh

Một niệm ngộ b́nh đẳng

Th́ chúng sanh là Phật

Tâm ḿnh tự có Phật

Tự Phật là chân Phật

Nếu ḿnh không Phật tâm

Biết cầu Phật ở đâu ?.

53. Đại sư nói:

- Tôi xin cáo biệt các ông. Tôi để lại một bài tụng, gọi là bài tụng "Tự tánh chân Phật giải thoát". Những kẻ mê mờ đời sau, nếu hiểu được ư chỉ của bài tụng này, lập tức sẽ thấy được chân Phật của tự tâm tự tánh ḿnh. Tôi để lại bài tụng này để cáo biệt các ông. Tụng rằng:

Chân như tự tánh là chân Phật

Tà kiến tam độc là chân ma

Người vướng tà kiến, ma trong nhà

Người có chánh kiến, Phật đến thăm

Tà kiến trong tánh tam độc sanh

Tức là ma vương đến ở nhà

Nếu chánh kiến trừ tam độc tâm

Ma biến thành Phật thật không giả

Hóa thân, Báo thân và Pháp thân

Ba thân vốn gốc là một thân

Nếu tự t́m thấy trong tánh ḿnh

Đó là nhân thành Phật Bồ đề

Tịnh tánh thường ở trong Hóa thân

Tánh khiến Hóa thân thành chánh đạo

Tương lai viên măn thật vô cùng

Dâm tánh là nhân của thanh tịnh

Ngoài dâm nào có thanh tịnh tánh

Trong tánh nếu tự ĺa ngũ dục

Sát na kiến tánh tức là chân

Đời này nếu ngộ pháp đốn giáo

Ngộ tức trước mắt thấy Thế Tôn

Nếu muốn tu hành và kiến Phật

Biết phải t́m chân ở chỗ nào

Nếu biết trong ḿnh đă có chân

Có chân tức là nhân thành Phật

Không tự cầu chân, t́m Phật ngoài

T́m kiếm khác ǵ kẻ ngu si

Đốn giáo pháp môn từ Tây đến

Muốn độ người đời phải tự tu

Báo với các người đời học đạo

Không theo pháp này, sống như không.

Sau khi nói xong bài kệ, Đại sư cáo biệt các môn nhân rằng:

- Các ông ở lại b́nh an, nay tôi xin từ biệt. Sau khi tôi đi rồi, đừng khóc lóc như thế nhân, đừng nhận điếu tang, tiền, lụa; cũng đừng bận áo tang. Nếu các ông làm thế tất không hợp với thánh pháp, cũng chẳng phải là đệ tử của tôi. Hăy vẫn cứ hành xử y như những ngày tôi c̣n bên các ông, cùng nhau tu tập tọa thiền. Chỉ cần vô động vô tĩnh, vô sanh vô diệt, vô khứ vô lai, vô thị vô phi, vô trụ vô văng, thản nhiên tịch tĩnh, tức là đại đạo rồi. Sau khi tôi đi rồi, chỉ cần y pháp tu hành, không khác ǵ những ngày tôi c̣n bên cạnh các ông. Nếu như tôi c̣n tại thế mà các ông vẫn vi bội giáo pháp, th́ tôi có trụ thế cũng vô ích mà thôi.

Sau khi nói những lời này, đến nửa đêm, ngài lặng lẽ khứ thế. Đại sư hưởng thọ bảy mươi sáu tuổi.

54. Vào hôm Đại sư nhập diệt, trong chùa có hương thơm lạ phảng phất, mấy ngày không tan. Núi lở đất động, rừng cây biến thành trắng, mặt trăng mặt trời không c̣n ánh sáng, gió mây mất cả màu sắc.

Đại sư diệt độ vào ngày mồng ba tháng Tám, đến tháng Mười một, linh cữu của ngài được đón về núi Tào Khê để an táng. Từ nơi mộ ngài, bạch quang xuất hiện, chiếu thẳng lên trời, măi đến hai hôm mới tán. Thiều Châu Thứ sử Vi Cứ lập, cho đến nay thiên hạ vẫn đến cúng dường.

55. Đàn kinh này là do Thượng tọa Pháp Hải biên tập. Lúc mất, Thượng tọa giao lại cho người bạn đồng học là Đạo Xán. Lúc Đạo Xán qua đời lại giao cho người đệ tử là Ngộ Chân. Ngộ Chân hiện giờ đang truyền thọ giáo pháp này ở chùa Pháp Hưng, núi Tào Khê, thuộc Lĩnh Nam.

56. Sau này người được giao phó giáo pháp này phải là bậc có trí huệ và căn cơ cao, phải có ḷng tin Phật pháp, lập đại bi tâm tŕ kinh này. Phải coi đó là căn bản để truyền thừa th́ pháp đến nay mới không bị đứt đoạn.

57. Ḥa thượng Pháp Hải vốn là người huyện Khúc Giang, Thiều Châu. Sau khi Đức Như Lai nhập Niết bàn, giáo pháp truyền về phương Đông, nếu truyền măi không đ́nh trệ tức là tâm chúng ta không đ́nh trệ. Bậc chân Bồ tát này thuyết giảng chân tông, tu hành hợp với thực dụ. Đây là y chỉ để dạy các bậc đại trí. Pháp này chỉ được truyền thọ cho những người thệ nguyện cứu độ tất cả, tu hành không ngớt, gặp khó khăn không thối chí, gặp cảnh khổ biết kham nhẫn, do đó có phước đức sâu dày. C̣n những kẻ căn tánh không kham nổi, tài lực không đủ, không nên cầu pháp này làm ǵ. Không được bừa băi truyền thọ Đàn kinh này cho những người phạm giới luật, thiếu đạo đức.
_________________________________
Kinh Pháp Bảo Đàn của Lục Tổ Huệ Năng thuyết giảng các học tṛ Lục Tổ biên chép lại được t́m thấy ở dộng Đông Hoàng là bản Kinh ngắn gọn rơ ràng nhất, lời kinh nhất mạnh đến "tự tu tự ngộ" phá u mê chấp kiến căn cơ sâu thẳm trong mỗi người, người đời luôn vọng tưởng đến một thần lực một ông Phật vô h́nh giúp cho ḿnh được giải thoát khỏi u mê, chứ không ai muốn và tự tin rằng "mọi ngươi nơi tự tánh ḿnh phải độ chính minh", nếu như sâu lắng trầm đọng suy ngẫm những câu Lục Tổ nói, mỗi người chúng sẽ t́m được sự tự nhiên mà an nhiên, không cần t́m đâu cao xa ngút ngàn mờ mịt rồi ê chề thất vọng v́ không dược như ư nguyện. "Tự tu tự ngộ tư độ lấy chính ḿnh" là phương châm của Lục Tổ dậy cho mọi người thoát khỏi sự triền miên u mê trong đạu khổ
  • Pháp thân của người tu hành b́nh đẳng với Phật
  • Không ngộ th́ Phật cũng là chúng sinh
  • Giác ngộ trong một niệm thôi th́ chúng sinh cũng là Phật
Bản dịch của HT Thích Măn Giác c̣n để nhiều câu chữ phiên âm Hán văn nên nhiều người đọc khó khăn thông suốt đến đoạn cuối, thường bỏ dở nửa chừng v́ không hiểu những từ ngữ chuyên dụng. và từ Hán văn, biết ḿnh kiến thức thấp kém cũng cố t́m cách chú thích những từ ngữ và dịch ra Việt ngữ thông dụng, không thể tránh khỏi sai lạc nên những từ ngữ dịch giải thêm cũng để tham khảo và cần mỗi người t́m hiểu thêm cho chính xác
Quay trở về đầu Xem thiennhan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thiennhan
 

Nếu muốn gửi bài trả lời, trước tiên bạn phải đang nhập
Nếu chưa ghi danh, bạn phải Tham gia

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 1.6211 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO