|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Thống Kê
|
Trang đã được xem
lượt kể từ ngày 05/18/2010
|
|
|
|
|
|
|
Chủ đề: Thời nay đoạn kết của Sấm Trạng ?
|
|
Tác giả |
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 1 of 585: Đă gửi: 25 November 2006 lúc 8:30am | Đă lưu IP
|
|
|
Người Trung Hoa phục tài Trạng Tŕnh Việt Nam nên đă có lời ca tụng “An Nam lư học hữu Tŕnh Tuyền” : Nước Nam về khoa Lư học có ông Tŕnh Tuyền.
Tương truyền những sự việc sau đây đă ứng nghiệm đúng theo lời sấm truyền của Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm.
1. Tiên Tri về Nhà Tây Sơn dấy nghiệp :
“Chân cung xuất nhật
Đoài cung vẩn tinh”
Nghĩa là :
Mặt trời xuất hiện ở phương Đông
Sao sa ở phương Tây.
Theo Bát Quái có tám quẻ là : Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Chấn ở phương Đông. Theo kinh Dịch cung Chấn chỉ về người trên. Yù nói người anh cả của họ Nguyễn Tây Sơn là Nguyễn Nhạc sẽ dấy nghiệp. Sao sa ở phương Tây ư nói nhà Tây Sơn xuất hiện.
Sáu câu :
“Bao giờ trúc mọc qua sông
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây
Đoài cung một sớm đổi thay
Chấn cung sao cũng sa ngày chẳng c̣n
Đầu cha lộn xuống chân con
Mười bốn năm tṛn hết số th́ thôi”
Sáu câu nầy ứng vào việc Tôn Sĩ Nghị đem quân Thanh sang cướp nước Nam. Khi đến Thăng Long,Sĩ Nghị cho quân sĩ lập một chiếc cầu nối bằng tre ngang sông Hồng. Sau khi dẹp được giặc Thanh. Nguyễn Huệ xưng là Quang Trung Hoàng Đế (hai câu 1-2)
Nhờ tài ngoại giao của Ngô Thời Nhiệm Quang Trung được vua nhà Thanh là Càn Long phong chức An Nam Quốc Vương.
Sau hai năm ở ngôi vua, Hoàng đế Quang Trung mất. Đoài cung câu 3 có nghĩa là phương Tây. Theo Kinh Dịch, cung Đoài là kẻ dưới, ư nói người em là Nguyễn Huệ mất. Năm sau, Nguyễn Nhạc v́ tức vua Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản, con của Quang Trung) chiếm thành Qui Nhơn nên thổ huyết mà thác (Chấn cung câu 4 ám chỉ Nguyễn Nhạc, người anh của nhà Tây Sơn). Câu 5 chỉ tên vua Quang Trung và vua Cảnh Thịnh. Chiết tự chữ “Quang” của vua Quang Trung gồm chữ “Tiều” ở trên mà chữ “Cảnh” của vua Cảnh Thịnh lại có chữ “Tiều” ở dưới. Thế nên mới nói : Đầu cha lộn xuống chân con. Câu 6 nói nhà Nguyễn Tây Sơn chỉ làm vua được 14 năm.
2. Tiên Tri về việc Phong hầu cho dân làng vĩnh lại
“Bao giờ ngựa đá qua sông
Th́ dân Vĩnh Lại quận công cả làng”
Nghĩa là :
Khi nào ngựa đá qua sông được th́ dân làng Vĩnh Lại đều được phong hầu.
Khi vua Lê Chiêu Thống lánh nạn Tây Sơn trốn qua làng Vĩnh Lăi dân chúng ủng hộ nhà vua chống lại Tây Sơn, vua Lê sẵn ấn tín đem theo ḿnh liên phong tước hầu cho người cầm đất dân làng. Tin truyền ra dân chúng tranh nhau xin vua phong tước hầu cho ḿnh. Sợ dân chúng sinh ḷng phản trắc, nhà vua liền phong tước hầu cho tất cả dân làng.
Nhiều người cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm nhờ nghiên cứu những điều bí ẩn trong bộ sách Thái Ất Thần Kinh mà thông suốt mọi việc quá khứ vị lai.
3. Tiên tri về tương lại của Nhà Nguyễn :
“Phụ nguyên chính thống hẳn hoi
Tin dê lại mắc phải mồi đàn dê”
Ư nói nhà Nguyễn mới là ḍng dơi chính thống. Vua Gia Long nhờ sự trợ giúp của người Pháp để diệt nhà Tây Sơn. Nhưng nhà Nguyễn cũng mất chủ quyền về tay người Pháp. Chữ “dê” dịch nghĩa Hán là “dương” ám chỉ người Tây Dương.
Bốn câu :
“Để loài bạch quỷ Nam xâm
Làm cho trăm họ khổ trăm lưu ly
Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy
Gia đ́nh một ở ba đi dần dần”
Hai câu đầu chỉ việc thôn tính của người Pháp ở Việt Nam làm cho dân chúng khốn khổ “Bạch quỷ Nam xâm” làm nhân dân cực khổ điêu đứng v́ cảnh chia ĺa.
Hai câu kế, v́ chống lại sự xâm lăng của Pháp, ba vị vua của nhà Nguyễn là Hàm Nghi (bị đày sang Algérie), Thành Thái và Duy Tân (bị đày sang đảo Réunion) chỉ c̣n một ḿnh Khải Định ở lại làm vua ứng nghiệm vào câu: “Gia đ́nh một ở ba đi dần dần”.
4. Tiên tri những cuộc khởi nghĩa kháng Pháp
Ḱa ḱa gió thổi lá rung cây
Rung Bắc, rung Nam, Đông tới Tây”
Sau ngày Pháp thôn tính Việt Nam các phong trào Cần Vương trong nước và Văn Thân đều nổi dậy khắp nơi.
Bốn câu :
Tan tác KIẾN kiều AN đất nước
Xác xơ CỔ thị sạch AM mây
LÂM giang nổi sóng mùa THAO cát
HƯNG địa tràn dâng HOÁ nước đầy.
Ứng vào cuộc khởi nghĩa Việt Nam Quốc Dân Đảng kháng Pháp tại Kiến An, Cổ Am, Lâm Thao và Hưng Hoá. Thật là cảnh đất nước xác xơ như cành cổ thụ cắn trụi. Sóng gió, cát bụi nổi lên mịt trời hoà cùng máu của các chiến sĩ gục ngă để giành lại chủ quyền độc lập. Câu “Đồ, Môn, Nghệ, Thái dẫy đầy can qua” chỉ phong trào tranh đấu chống thực dân Pháp ở Đô Lương, Hóc Môn, Nghệ An và Thái Nguyên.
5. Tiên tri toàn quyền Pasquier tử nạn máy bay
Hai câu :
“Giữa năm hai bảy mười ba
Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây”
Tám gà : Hán văn là Bát kê. Đúng vào năm âm lịch nhuần hai tháng bảy, mười ba tháng, Toàn quyền Đông Dương Pasquier măn nhiệm trở về Pháp, dọc đường máy bay bị nạn, Pasquier bị chết cháy giữa không trung đúng vào câu “Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây”
Sau đây là Cảm đề và Sấm kư của Trạng Tŕnh
CẢM ĐỀ :
Thanh nhàn vô sự là tiên
Năm hồ phong nguyệt ruỗi thuyền buông chơi
Cơ tạo hoá
Phép đổi dời
Đầu non mây khói toả
Mặt nước cánh buồm trôi
Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi
Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh trời
Tuổi già thua kém bạn
Văn chương gởi lại đời
Dở hay nên tự ḷng người cả
Bút nghiên soi hoa chép mấy lời
Bí truyền cho con cháu
Dành hậu thế xem chơi
THẾ SỰ
Non Đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu;
Có một đàn xà đánh lộn nhau.
Vượn nọ leo cành cho sĩ bóng;
Lợn kia làm quái phải sai đâu.
Chuột nọ lăm le mong cắn Tổ;
Ngựa kia đủng đỉnh buớc về Tàu.
Hùm ở trên rừng gầm mới dậy,
T́m về quê cũ khúc ngựa Tần.
Bài số 1
SẤM KƯ :
Nước Nam từ họ Hồng Bàng
Biển dâu cuộc thế, giang sơn đổi vần
Tự Đinh, Lê, Lư, Trần thuở trước
Đă bao lần ngôi nước đổi thay
Núi sông thiên định đặt bày.
Đồ thư một quyển xem nay mới rành
Hoà đao mộc lạc
Thập bát tử thành
Đông Á nhật xuất
Dị mộc tái sinh.
Chấn cung xuất nhật
Đoài cung vẫn tinh
Phụ nguyên chi thống
Đế phế vi đinh
Thập niên dư chiến
Thiên hạ cửu b́nh
Lời thần trước đă ứng linh
Hậu lai phải đoán cho minh mới tường
Hoà đao mộc hồi dương sống lại
Bắc Nam thế thời đại nhiễu nhương
Hà thời biện lại vi vương,
Thử thời Bắc tận Nam trường xuất bôn
Lê tồn Trịnh tại
Trịnh bại Lê vong
Bao giờ ngựa đá sang sông
Th́ dân Vĩnh Lại Quận Công cả làng
Hà thời thạch mă độ giang
Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu
Chim bàng cất cánh về đâu?
Chết tại trên đầu hai chữ Quận Công
Bao giờ trúc mọc qua sông
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây
Đoài cung một sớm đổi thay
Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng c̣n
Đầu cha lộn xuống thân con
Mười bốn năm tṛn hết số th́ thôi
Phụ nguyên chính thống hẳn hoi
Tin dê lại phải mắc mồi đàn dê
Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu
Gà kia vỗ cánh trập trùng bay
Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa
Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày
Nói cho hay khảm cung ong dậy
Chí anh hào biết đấy mới ngoan
Chữ rằng lục thất nguyệt gian
Ai mà giữ được mới nên anh tài
Ra tay điều đỉnh hộ mai
Bấy giờ mới rơ là người an dân
Lọ là phải nhọc kéo quân
Thấy nhân ai chẳng mến nhân t́m về
Phá điền than đến đàn dê
Hễ mà chuột rúc th́ dê về chuồng
Dê đi dê lại tuồn luồn
Đàn đi nó cũng một môn phù tŕ
Thương những kẻ nam nhi chí cả
Chớ vội sang tất tả chạy rong
Học cho biết chữ cát hung
Biết cho phương hướng chớ đừng lầm chi
Hễ trời sinh xuống phải th́
Bất ḱ nhi ngộ tưởng ǵ đợi mong
Ḱa những kẻ vội ḷng phú quí
Xem trong ḿnh một tí đều không
Ví dù có gặp ngư ông
Lưới giăng đâu dễ nên công mà ḥng
Khuyên những đấng thời trung quân tử
Ḷng trung nghiă nên giữ cho ḿnh
Âm dương cơ ngẫu hộ sinh
Thái Nhâm Thái Ất bên ḿnh cho hay
Chớ vật vờ quen loài ong kiến
Hư vô bàn miệng tiếng th́ nói không
Ô hô thế sự tự b́nh bồng,
Nam Bắc hà thời thiết lộ không
Hồ ẩn sơn trung mao tân bạch
Ḱnh cư hải ngoại huyết lưu hồng
Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc
Ngưu xuất Lam điền nhật chính Đông
Nhược đăi ưng lai sư tử thượng
Tứ phương thiên hạ thái b́nh phong
Ngơ may gặp hội mây rồng
Công danh rạng rỡ chép trong vân đài
Nước Nam thường có thánh tài
Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường ?
So mấy lề đè tàng kim quỹ
Kề sau này ngu bỉ được coi
Đôi phen đất lở cát bồi
Đó đây ong kiến dậy trời quỷ ma
Ba con đổi lấy một cha
Làm cho thiên hạ xót xa v́ tiền
Măo, Th́n, Tư, Ngọ bất yên
Đợi tam tứ ngũ lai niên cũng gần
Hoành sơn nhất đái
Vạn đại dung thân
Đến thời thiên hạ vô quân.
Làm vua chẳng dễ, làm dân chẳng lành
Gà kêu cho khỉ dậy nhanh
Phụ nguyên số đă rành rành cáo chung
Thiên sinh hữu nhất anh hùng
Cứu dân độ thế trừ hung diệt tà
Thái Nguyên cận Bắc đường xa
Ai mà t́m thấy mới là thần minh
Uy nghi dung mạo khác h́nh
Thác cư một góc kim tinh phương Đoài
Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi
Chờ cơ mới sẽ ra đời cứu dân
Binh thư mấy quyển kinh luân
Thiên văn, địa lư, nhân dân phép mầu
Xem ư trời ngỏ hầu khải thánh
Dốc sinh ra điều chỉnh hộ mai
Song thiên nhật nguyệt sáng soi
Thánh nhân chẳng biết th́ coi cho tường
Thông minh kim cổ khác thường
Thuấn Nghêu là trí, Cao Quang là tài
Đấng hiên ngang nào ai biết trước
Tài thao lược yêm bác vũ văn
Ai c̣n khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ hung hăng với người
Chưa từng thấy nay đời sự lạ
Chốc lại ṃng gá vạ cho dân
Muốn b́nh sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao lại bắt dân ghê ḿnh
Đă ngu dại Hoàn, Linh đời Hán
Lại đua nhau quần thán đồ lê
Chức nầy quyền nọ say mê
Làm cho thiên hạ khôn bề tựa nương
Kẻ th́ phải thuở hung hoang
Kẻ th́ bận của bóng toan khốn ḿnh
Cửu cửu càn khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo dương đầu mă vĩ
Hồ binh bát vạn nhập Trường an
Nực cuời những kẻ bàng quan
Cờ tan lại muốn toan đường chống xe
Lại c̣n áo mũ xum xoe
C̣n ra xe ngựa màu mè khoe khoang
Ghê thay thau lẫn với vàng
Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng
Thành ra tuyết tán mây tan
Bấy giờ mới sáng rơ ràng nơi nơi
Can qua việc nước tơi bời
Trên thuận ư trời, dưới đẹp ḷng dân
Oai phong khấp quỷ kinh thần
Nhân nghĩa xa gần bách tính ngợi ca
Rừng xanh núi đỏ bao la
Đông tàn Tây bại sang gà mới yên
Sửu, Dần thiên hạ đảo điên
Ngày nay thiên số vận niên rành rành
Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh (*)
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mă đề dương cước anh hùng tận
Thân Dậu niên lai kiến thái b́nh
Sự đời tính đă phân minh
Thanh nhàn mới kể chuyện ḿnh trước sau
Đầu thu gà gáy xôn xao
Mặt trăng xưa sáng tỏ vào Thăng Long
Chó kêu ầm ỉ mùa Đông
Cha con Nguyễn lại bế bồng nhau đi
Lợn kêu t́nh thế lâm nguy
Quỷ vương chết giữa đường đi trên trời
Chuột sa chỉnh gạo nằm chơi
Trâu cày ngốc lại chào đời trước ta
Hùm gầm khắp nẻo gần xa
Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời
Rồng bay năm vẻ sáng ngời
Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng (Satan)
Ngựa lồng quỷ mới nhăn răng
Cha con ḍng họ thầy tăng hết thời (thằng Tây)
Chín con rồng lộn khắp nơi
Nhện giăng lưới gạch dại thời mắc mưu
Lời truyền để lại bấy nhiêu
Phương Đoài giặc đă đến chiều bại vong
Hậu sinh thuộc lấy làm ḷng
Đến khi ngộ biến đường trong giữ ḿnh
Đầu can vô tướng ra binh
Ắt là trăm họ thái b́nh âu ca
Thần Kinh Thái Ất suy ra
Để danh con cháu đem ra nghiệm bàn
Ngay thường xem thấy quyển vàng
Của riêng bảo ngọc để tàng xem chơi
Bởi Thái Ất thấy lạ đời
Ấy thuở sấm trời vô giá thập phân
Kể từ đời Lạc Long Quân
Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian
Mỗi đời có một tôi ngoan
Giúp chung nhà nước dân an thái b́nh
Phú quí hồng trần mộng
Bần cùng bạch phát sinh
Hoa thôn đa khuyển phệ
Mục giả giục nhân canh
Bắc hữu Kim thành tráng
Nam hữu Ngọc bích thành
Phân phân tùng bách khởi
Nhiễu nhiễu xuất Đông chinh
Bảo giang thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành
Rồi đây mới biết thánh minh
Mừng đời được lúc hiển vinh reo ḥ
Nhị Hà một dải quanh co
Chính thực chốn ấy đế đô hoàng bào
Khắp hoà thiên hạ nao nao,
Cá gặp mưa rào có thích cùng chăng ?
Nói đến độ thầy tăng ra mở nước
Đám quỷ kia xuôi ngược đến đâu ?
Bấy lâu những cậy phép mầu
Bây giờ phép ấy để lâu không hào
Cũng có kẻ non trèo biển lội,
Lánh ḿnh vào ở nội Ngô, Tề
Có thầy Nhân Thập đi về
Tả hữu phù tŕ,cây cỏ thành binh
Những người phụ giúp thánh minh
Quân tiên xướng nghĩa chẳng tàn hại ai
Phùng thời nay hội thái lai,
Can qua chiến trận để người thưởng công,
Trẻ già được biết sự ḷng
Ghi làm một bản để ḥng dở xem
Đời này những Thánh cùng Tiên
Sinh những người hiền trị nước an dân
….
Nầy những lúc thánh nhân chưa lại
Chó c̣n nằm đầu khải cuối thu
Khuyên ai sớm biết khuông phù
Giúp cho thiên hạ Đường, Ngu ngơ hầu
Cơ tạo hoá phép mầu khôn tỏ
Cuộc tàn rồi mới rơ thấp cao
Thấy Sấm từ đây chép vào
Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa
(*)2012 - 2013 Nhâm Th́n - Quư Tỵ ?
Bài số 2:
|
Quay trở về đầu |
|
|
Thien Viet Hội viên
Đă tham gia: 09 September 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 1219
|
Msg 2 of 585: Đă gửi: 25 November 2006 lúc 1:37pm | Đă lưu IP
|
|
|
Trong bài này có những đoạn đáng chú ư nói về tương lai thái b́nh âu ca của đất nước:
Phú quí hồng trần mộng
Bần cùng bạch phát sinh
Hoa thôn đa khuyển phệ
Mục giả giục nhân canh
Bắc hữu Kim thành tráng
Nam hữu Ngọc bích thành
Phân phân tùng bách khởi
Nhiễu nhiễu xuất Đông chinh
Bảo giang thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành
Rồi đây mới biết thánh minh
Mừng đời được lúc hiển vinh reo ḥ
Nhị Hà một dải quanh co
Chính thực chốn ấy đế đô hoàng bào
Khắp hoà thiên hạ nao nao,
Cá gặp mưa rào có thích cùng chăng ?
...
Có thầy Nhân Thập đi về
Tả hữu phù tŕ,cây cỏ thành binh
...
Nói về tương lai của đất nước
Nhị Hà có phải là 2 con sông Hồng và sông Cửu Long, hay là nói về 2 con sông Tiền Giang và Hậu Giang. V́ nói về địa danh th́ có quá nhiều Hà: Hà Nội, Hà Bắc, Hà Nam, Hà Tĩnh, Hà Đông
Bảo giang: là nói về địa danh hay là con người vậy
nếu là địa danh th́ ở đâu là Bảo Giang?
Nếu nói về con người th́ tên của người đó (Thiên tử) phải có chữ Bảo và chữ Giang trong đó.
Thầy Nhân Thập là ai? Có phải là Đỗ Mười, hay là ai khác?
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 3 of 585: Đă gửi: 26 November 2006 lúc 4:21am | Đă lưu IP
|
|
|
Nostradamus codee: World War III - 2007 -2012 Nhâm Th́n - Quư Tỵ ?
http://nostradamusonline.com/
không phải tên người, phần sau lại nhắc đến thầy Nhân Thập, là một thánh nhân sẽ xuất hiện
Đời này thánh kế vị vương
Đủ no đạo đức văn chương trong ḿnh
Uy nghi trạng mạo khác h́nh
Thác cư một gốc kim tinh phương đoài
Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi
Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
Binh thơ mấy quyển kinh luân
Thiên văn địa lư nhân luân càng mầu
Hiện nay chưa 1 kẻ nào đáng được gọi là thầy Nhân Thập
Nhị Hà là sông Hồng
Bảo giang là 1 nơi sinh Thánh
Thiên sinh hữu nhất anh hùng
Cứu dân độ thế trừ hung diệt tà
Thái Nguyên cận Bắc đường xa
Ai mà t́m thấy mới là thần minh
Uy nghi dung mạo khác h́nh
Thác cư một góc kim tinh phương Đoài
Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi
Chờ cơ mới sẽ ra đời cứu dân
Binh thư mấy quyển kinh luân
Thiên văn, địa lư, nhân dân phép mầu
Sửa lại bởi thiennhan : 26 November 2006 lúc 4:24am
|
Quay trở về đầu |
|
|
Thien Viet Hội viên
Đă tham gia: 09 September 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 1219
|
Msg 4 of 585: Đă gửi: 26 November 2006 lúc 8:05am | Đă lưu IP
|
|
|
Kính thưa các Bác,
Tại sao sông Nhị Hà là sông Hồng nhĩ?
Thầy Nhân Thập, chữ Nhân ghép thêm với chữ thập (theo chữ Hán) th́ ra chữ ǵ nhĩ?
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 5 of 585: Đă gửi: 26 November 2006 lúc 8:26am | Đă lưu IP
|
|
|
Các cụ có câu ví: "Nhân vô thập toàn" . Có thể thầy Nhân Thập là con người vẹn toàn chăng ?
Vài lời bàn vui .
Thiên Sứ
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
Thien Viet Hội viên
Đă tham gia: 09 September 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 1219
|
Msg 6 of 585: Đă gửi: 26 November 2006 lúc 8:45am | Đă lưu IP
|
|
|
Trái đất mà c̣n méo, vũ trụ mà c̣n cong, Phật tổ c̣n phải nhận bát vàng của Đường tăng th́ không có người nào thập toàn. Cho nên Sấm chắc không nói đến chuyện đó.
Xin bàn vui,
TV
|
Quay trở về đầu |
|
|
linhlinhlinh Hội viên
Đă tham gia: 25 November 2006
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 140
|
Msg 7 of 585: Đă gửi: 26 November 2006 lúc 11:06am | Đă lưu IP
|
|
|
sấm cụ TR̀NH mà luận giải rơ ra được hẳn phải là bậc thánh!có hiểu khó nói ra được v́ ai mà tin?ai dám nói đây bởi "thiên cơ bất khả lậu!".dầu muốn biết,mà có biết rồi trước khi nói hăy đi xin phép cụTR̀NH đă...mà làm sao gặp cụ đây??vậy cứ luận bàn cho vui -cho biết là cực khó...với kiếp phàm trần mà thôi!
|
Quay trở về đầu |
|
|
LuuBi. Hội viên
Đă tham gia: 18 May 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 1992
|
Msg 8 of 585: Đă gửi: 26 November 2006 lúc 2:26pm | Đă lưu IP
|
|
|
Thien Viet đă viết:
Kính thưa các Bác,
Tại sao sông Nhị Hà là sông Hồng nhĩ?
Thầy Nhân Thập, chữ Nhân ghép thêm với chữ thập (theo chữ Hán)
th́ ra chữ ǵ nhĩ? |
|
|
thầy nhân thập theo cháu có nghiă hơi khác 1 chut' là thầy xuất sứ từ chuà chiền hoặc là công giáo v́ cây thánh giáo là h́nh chữ thập mà chữ "Vạn" trong phật cũng là h́nh chữ thập!! cho nên có thễ người này từ nhơ đă mộ đạo phật pháp và thuộc lầu kinh thư chỉ đợi thời ra giúp nước!! nhưng bất chiến tự nhiên thành cũng có thễ noí lên cuộc diện chính trị trong t́nh trạng sụp đỗ cuă chế độ và cũng là thời cho người này đứng ra dựng cờ khỡi nghiă!
__________________ Xuất Ḱ đông môn,
Hữu nữ như vân .
Tuy Tắc Như Vân,
Phỉ ngă tư tồn .
Cảo Y kỳ cân,
Liêu Hạc ngă vân
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 9 of 585: Đă gửi: 26 November 2006 lúc 8:04pm | Đă lưu IP
|
|
|
Tôi có ư cho rằng bài sấm Trạng ở trên chưa hẳn đă do cụ Trạng viết hoàn toàn . Có nhiều câu cú, danh từ có vẻ như mới được viết vào đầu thế kỷ 20 .
Cụ Trang thường làm thơ Thất Ngôn, ở đây lại có nhiều câu lục bát và ngôn từ không phù hợp với thế kỳ 15 - 16 là thời của cụ Trạng .
Vài lớ góp ư .
Thiên Sứ
|
Quay trở về đầu |
|
|
nongdan Hội viên
Đă tham gia: 27 February 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 21
|
Msg 10 of 585: Đă gửi: 26 November 2006 lúc 9:17pm | Đă lưu IP
|
|
|
sấm sét ǵ mà quư vị cứ bàn tán người ta lại càng đánh giá thấp và tưởng là....
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 11 of 585: Đă gửi: 27 November 2006 lúc 2:40am | Đă lưu IP
|
|
|
sông Nhị Hà:
Code:
C̣n có các tên gọi khác như Hồng Hà (Tiếng Hoa: 紅河 Honghe), hay sông Cái (người Pháp đă phiên tên gọi này thành Song-Koï). Đoạn chảy trên lănh thổ Trung Quốc được gọi là Nguyên Giang (元江, pinyin yuan2 jiang1), đoạn đầu nguồn có tên là Lễ Xă Giang (禮社江). Đoạn từ Lào Cai đến Việt Tŕ gọi là Sông Thao, đoạn qua Hà Nội c̣n gọi là Nhĩ Hà hoặc Nhị Hà. |
|
|
xem thêm:
song Hong
Trong Sấm Trạng có các thể thơ Lục bát, Thất ngôn lục bát, thất ngôn bát cú, tứ ngôn, ngũ ngôn...và các bản t́m được viết liền từ trên xuống dưới nên rất khó đọc, chưa thấy bản nào được phân tách ra, tôi làm thử chưa chắc chuẩn, lại c̣n đảo trên dưới lung tung, thời điểm cũng bị xáo trộn.
Trải qua 500 năm Sấm Trạng lưu truyền trong dân gian không làm sao tránh được "tam sao thất bốn" lại c̣n bị người đời sau thêm bớt sáng tác ra thêm và viết sai chính tả, nếu t́m chi tiết khó mà đúng c̣n xem đại thể cũng tạm hiểu được đôi phần, nếu có bản gốc như của ông Nguyễn Phúc Giác Hải th́ sẽ rơ hơn.
Tham khảo:
Code:
Ai đặt quốc hiệu Việt Nam đầu tiên?
Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải cho biết, ông và một số đồng nghiệp đă phát hiện tổng số 12 bia niên đại thế kỷ 16, 17 có hai tiếng Việt Nam. Ngoài ra, c̣n một bản in khắc gỗ từ năm 1752 cũng có danh xưng Việt Nam. Như vậy, hai tiếng Việt Nam đă có từ lâu, và theo ông Giác Hải, Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể là người đầu tiên sử dụng tên gọi này như quốc hiệu.
* V́ sao ông lại quan tâm đến vấn đề này?
- Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải: Cách đây nhiều năm, tôi t́nh cờ đọc được một thắc mắc đăng trên báo quốc hiệu Việt Nam có từ bao giờ. Câu hỏi tưởng chừng rất đơn giản nhưng tôi dám chắc phần lớn học sinh trung học, thậm chí đại học không trả lời được, v́ đại đa số các sách giáo khoa của chúng ta không đề cập đến vấn đề này, c̣n tại sao th́ xin dành cho các nhà biên soạn sách và các sử gia.
Ngay cuốn Lịch sử Việt Nam do Ủy ban Khoa học xă hội xuất bản năm 1976 cũng không hề nói tới điều này. C̣n cuốn Bách khoa toàn thư Anh (1992) th́ cho nhận định, hai tiếng Việt Nam bắt đầu từ thời Nguyễn do việc nhà Thanh bên Trung Hoa năm 1804 đă đảo ngược hai chữ Nam Việt mà Gia Long đề nghị sắc phong năm 1802. Điều này quả cũng có thực. Trong cuốn chính sử nhà Nguyễn Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhất kư có ghi lại sự kiện này.
* Chính sử thời ấy đă khá rơ ràng, v́ sao ông, một nhà nghiên cứu về sinh học và ngoại cảm lại không bằng ḷng với cách giải thích này?
- Năm 1974, khi công tác ở Viện Khoa học Việt Nam, tôi bắt đầu nghiên cứu về ngoại cảm, về khoa học dự báo và tôi có được đọc tập sách dự báo Sấm Trạng Tŕnh, được coi là của Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585). Khi nghiên cứu tập sấm này, đến bản AB 444 trong kho sách của Viện Hán Nôm, tôi bất đồ t́m thấy hai chữ Việt Nam ngay trong những ḍng đầu tiên: Việt Narn khởi tổ xây nền. Theo quan niệm chính thống, hai chữ Việt Nam không được phép có mặt trước năm 1804, trong khi cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm lại sống cách ta 500 năm. Vấn đề đặt ra là có thật hai chữ Việt Nam đă được dùng cách đây hơn 500 năm để chỉ tên gọi đất nước? Trước Nguyễn Bỉnh Khiêm c̣n những ai đă dùng danh xưng Việt Nam? Liệu có những bằng chứng khảo cổ về vấn đề này? Song lúc đó không có điều kiện tiếp xúc với bản gốc nên phải tạm gác lại. Đến 1980, khi được tiếp xúc với bản gốc, tôi đă dành hơn 20 năm nay để nghiên cứu. Theo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (thế kỷ 19), th́ từ thời nhà Trần, tiến sĩ Hồ Tông Thốc đă viết bộ sách Việt Nam thế chí. Cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trăi, trong thế kỷ 15 cũng đă nhiều lần nhắc đến hai tiếng Việt Nam. Song đáng tiếc, Việt Nam thế chí không c̣n nữa, chỉ c̣n được dẫn bài tựa trong Lịch triều hiến chương loại chí; c̣n Dư địa chí chỉ được khắc ván in ở thế kỷ 19 khi đă có quốc hiệu Việt Nam rồi, những bản trước không có niên hiệu rơ ràng.
* Ông có thể nói rơ hơn về quá tŕnh t́m kiếm nguồn gốc tên gọi đất nước?
- Sau khi đọc được bản gốc Sấm Trạng Tŕnh, tôi đă khẳng định được hai tiếng Việt Nam đă được sử dụng từ thế kỷ 15. Song bản sấm này được truyền lại qua những bản chép tay, cũng không ai dám chắc tác giả là cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tôi liền chuyển qua tra cứu thơ văn của cụ để so sánh. Thật bất ngờ, hai tiếng Việt Nam được cụ nhắc tới bốn lần: Trong tập thơ Sơn hà hái động thường vịnh (Vịnh về núi non sông biển) đă đề cập tới. Rơ hơn, trong các bài thơ gửi trạng Giáp Hải, cụ có viết: "Tuệ tinh cộng ngưỡng quang mang tại, Tiền hậu quang huy chiếu Việt Nam"; c̣n trong bài gửi trạng Nguyễn Thuyến, "Tiền đồ vĩ đại quân tu kư / Thùy thị công danh trọng Việt Nam".
Dẫu sao, đó cũng mới chỉ là những văn bản chép tay. Để khẳng định thêm, tôi đă đi t́m trong bi kư (bài kư trên bia đá). Nhờ một số nhà khoa học Viện Hán Nôm, tôi đă t́m ra trong bia trùng tu chùa Phúc Thánh (Quế Vơ, Bắc Ninh) năm 1664, phần bài Minh có câu Việt Nam cảnh giới, Kinh Bắc thừa tuyên. Sau đó là bia trùng tu chùa Bảo Lâm (Chí Linh, Hải Dương) năm 1558, Việt Nam đại danh lam bất tri kỳ cơ, bia chùa Cam Lộ (Hà Tây), năm 1590, Chân Việt Nam chi đệ nhất. Tuy nhiên, phát hiện quan trọng nhất là tấm bia Thủy Môn Đ́nh ở biên giới Lạng Sơn do trấn thủ Lạng Sơn Nguyễn Đ́nh Lộc soạn năm Cảnh Trị thứ tám (1670), có câu : Việt Nam hầu thiệt trấn bắc ải quan (Cửa ải phía Bắc Việt Nam). Đây là tấm bia có niên đại muộn hơn song nó có danh tính người soạn, hơn nữa đây là một mệnh quan triều đ́nh, là phát ngôn chính thức.
Cho đến nay, sau tôi một số nhà nghiên cứu khác đă phát hiện tổng số 12 bia có hai tiếng Việt Nam. Tất cả đều có niên đại thế kỷ 16, 17. Ngoài ra, c̣n một bản in khắc gỗ có danh xưng Việt Nam năm 1752. Như vậy, hai tiếng Việt Nam đă có từ lâu, và cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm là người đầu tiên sử dụng, sử dụng nhiều nhất và có ư thức nhất.
* Theo những nghiên cứu của ông, có thể lư giải v́ sao Nguyễn Bỉnh Khiêm là nguời đầu tiên sử dụng hai tiếng Việt Nam?
- Dân tộc ta bắt nguồn từ một bộ tộc Việt trong Bách Việt - chỉ tất cả các dân tộc phía nam Trung Hoa. Trong toàn bộ lịch sử, ta luôn dùng tử việt, để chỉ dân tộc và đất nước ta. Song cha ông ta cũng dùng từ "Nam" với ư nghĩa tương tự. Bài thơ Thần-tuyên ngôn độc lập đầu tiên, Lư Thường Kiệt viết: Nam quốc sơn hà nam đế cư. Từ Nam được dùng với nghĩa phương Nam để đối lại với phương Bắc (Trung Quốc). Trong thế kỷ 18, danh y Tuệ Tĩnh khi viết bộ sách khảo cứu về cây thuốc nước ta, lấy tên là Nam dược thần hiệu. Ngày nay ta vẫn nói thuốc nam-thuốc bắc.
V́ sao có thể coi Nguyễn Bỉnh Khiêm là người đầu tiên sử dụng Việt Nam như là quốc hiệu? Thế kỷ 15, nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê ở nước ta, nhà Minh bên Trung Quốc lấy cớ đem quân can thiệp. Nhà Mạc đầu hàng, Đại Việt lúc đó bị biến thành một quận của Trung Quốc, không c̣n quốc hiệu. Mạc Đăng Dung được nhà Minh phong làm An Nam đô sứ ty. Trên thực tế Mạc Đăng Dung vẫn là vua một nước, để vừa đối phó với triều đ́nh phương Bắc, vừa an dân, tên nước được gọi là Việt Nam. Lúc ấy, Nguyễn Bỉnh Khiêm là học giả đứng đầu cả nước, nên nhiều khả năng ông đặt ra cách gọi này.
Do Trạng Tŕnh được coi là một nhà tiên tri lỗi lạc, cũng có người muốn thần bí hóa bằng cách giải thích: Do nh́n thấy trước việc nhà Thanh phong vương cho Gia Long và gọi nước ta là Việt Nam nên ông đă gọi trước tên nước là Việt Nam để tránh sự lúng túng cho hậu thế: Tên gọi là do ngoại quốc áp đặt. Trên thực tế, vài chục năm sau, nhà Nguyễn để tránh bị phụ thuộc đă đổi tên nước là Đại Nam.
Dù giải thích thế nào, th́ quốc hiệu Việt Nam cũng được Trạng Tŕnh sử dụng đầu tiên, nhiều nhất và có ư thức nhất. Từ nguồn gốc này, lịch sử quốc hiệu đất nước không c̣n phụ thuộc vào hai triều đại phong kiến nữa.
* Nhân đây, ông có thể giải thích thế nào là quốc danh, quốc hiệu?
- Các tên gọi Văn Lang, Vạn Xuân, Đại Việt... đều được các sử gia sử dụng làm quốc hiệu. C̣n các học giả xưa vẫn viết "Ngă Việt quốc, ngă Nam nhân" (Nước Việt ta, người Việt ta). Hai tiếng Việt Nam, qua các thư tịch cổ th́ mới chỉ là quốc danh, song rất hạn chế. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, tên gọi Việt Nam chính thức thành tên gọi đất nước (quốc danh). Hiến pháp 1946 viết "Nước Việt Nam là một nước theo chế độ dân chủ cộng ḥa". Như vậy, Việt Nam dân chủ cộng ḥa mới trở thành quốc hiệu, đến nay 1976 quốc hiệu này được đổi thành Cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nguyễn Phúc Giác Hải, nhà sinh học trở thành chủ nhiệm môn Khoa học Dự báo
Xuất thân là dân sinh vật học, sau khi ra trường, Nguyễn Phúc Giác Hải về dạy ở Trường Bổ túc văn hóa Trung ương, Trường Trung cấp sư phạm Trung ương, năm 1964, ông về Viện Khoa học Việt Nam nghiên cứu di truyền học.
Sau thời gian nghỉ việc tới năm 1990 ông trở lại Viện Khoa học Việt Nam (nay là Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ quốc gia), làm đúng công việc từng khiến ông phải ra đi: Nghiên cứu ngoại cảm. Hiện giờ, Nguyễn Phúc Giác Hải đang là chủ nhiệm bộ môn Khoa học Dự báo (Dự báo học) thuộc Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người. "Tôi phải cảm ơn số phận, nhờ có 14 năm long đong, tôi có điều kiện tự do nghiên cứu những ǵ ḿnh thích. Nếu như cuộc đời cứ b́nh lặng, có lẽ tôi đă đi sâu nghiên cứu về di truyền, làm vài công tŕnh, rồi bảo vệ luận án... Nếu không đi sâu t́m hiểu về ngoại cảm, có lẽ tôi đă không đọc sấm trạng Tŕnh và cũng chẳng t́m ra nguồn gốc hai tiếng Việt Nam và cũng chẳng dính dáng ǵ đến Khoa học Dự báo" - ông tâm sự.
C̣n một năm nữa, ông sẽ bước sang tuổi "cổ lai hy". Ông đang chạy đua với thời gian để hoàn chỉnh bốn nghiên cứu mới của ḿnh: Mă số vũ trụ; Những vấn đề bí ẩn về hoạt động của bộ năo; kinh dịch dưới ánh sáng của khoa học; Dự báo học và những nhà tiên tri xuyên thế kỷ. C̣n trước mắt, ông sẽ cho ra đời cuốn sách "Đi t́m cội nguồn tên gọi đất nước: Hai tiếng Việt Nam có từ bao giờ?
THÀNH LÂN thực hiện
(Báo Đại đoàn kết) |
|
|
Tham khao
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 12 of 585: Đă gửi: 27 November 2006 lúc 3:25am | Đă lưu IP
|
|
|
Phần II
(Bài này ông Nguyễn Phúc Giác Hải đă nói đến như ở trên)
2. SẤM TRẠNG TR̀NH
Vận lành mừng gặp tiết lành
Thấy trong quốc ngữ lập thành nên câu
Một câu là một nhiệm màu
Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao
Trải v́ sao mây che Thái Ất
Thủa cung tay xe nhật phù lên
Việt Nam khởi tổ xây nền
Lạc Long ra trị đương quyền một phương
Thịnh suy bỉ thái lẽ thường
Một thời lại một nhiễu nhương nên lề
Đến Đinh Hoàng nối ngôi cửu ngủ
Mở bản đồ rủ áo chấp tay
Ngự đao phút chốc đổi thay
Thập bát tử rày quyền đă nổi lên
Đông A âm vị nhi thuyền
Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh
Chấn cung hiện nhật quang minh
Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
Đoài cung vẻ rạng trăng thu
Ra tay mở lấy Đế đô vạn toàn
Sang cửu thiên ám vầng hồng nhật
Dưới lẫn trên năng vẫn uống quen
Sửa sang muôn việc cầm quyền
Ngồi không ai dễ khẳng nh́n giúp cho
Ḱa liệt vương khí hư đồ ủng
Mặc cường hầu ong ỏng tranh khôn
Trời sinh ra những kẻ gian
Mặt khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài
Áo vàng ấm áp đà hay
Khi sui đắp núi khi say xây thành
Lấy đạt điền làm công thiên hạ
Được mấy năm đất lở giếng ṃn
Con yết ạch ạch tranh khôn
Vô già mở hội mộng tôn làm chùa
Cơ trời xem đă mê đồ
Đă đô lại muốn mở đô cho người
Ấy ḷng trời xuôi ḷng bất nhẫn
Suốt vạn dân cừu giận oán than
Dưới trên dốc chí lo toan
Những đua bán nước bán quan làm giàu
Thống (統 ?) rủ nhau làm mồi phú quí
Mấy trung thần có chí an dân ?
Đua nhau làm sự bất nhân
Đă tuần bốn bể lại tuần đầu non
Dư đồ chia xẻ càn khôn
Mối giềng man mác khiếp ṃn ḷng nhau
Vội sang giàu giết người lấy của
Sự có chăng mặc nọ ai đôi
Việc làm thất chính tơi bời
Minh ra bổng lại thất thôi bấy giờ
Xem tượng trời đă giơ ra trước
C̣n hung hăng bạc ngược quá xưa
Cuồng phong cả sớm liền trưa
Đă đờn cửu khúc c̣n thơ thi đề
Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết
Để vạn dân dê lại giết dê
Luôn năm chật vật đi về
Âm binh ở giữa nào hề biết đâu
Thấy nội thành tiếng kêu ong ỏng
Cũng một ḷng trời chống khác nào
Xem người dường vững chiêm bao
Nào đâu c̣n muốn ước ao thái b́nh
Một góc thành làm tâm chứng quỷ
Đua một ḷng ích kỷ hại nhân
Bốn phương rời rỡ hồng trần
Làng khua mỏ cá lăng phân điếm tuần
Tiếc là những xuất dân làm bạo
Khua dục loài thỏ cáo tranh nhau
Nhân danh trọn hết đâu đâu
Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê
Hùm già lạc dấu khôn về
Mèo non chi chí t́m về cố hương
Chân dê móng khởi tiêu tường
Nghi nhau ai dễ sửa sang một ḿnh ?
Nội thành ong ỏng hư kinh (M-L?)
Đầu khỉ tin sứ trèo thành lại sang
Bở mồ hôi Bắc giang tái mă
Giửa hai xuân bỗng phá tổ Long
Quốc trung kinh dụng cáo không
Giữa năm giả lai kiểm hung mùa màng
Gà đâu sớm gáy bên tường
Chẳng yêu th́ cũng bất tường chẳng không
Thủy binh cờ phất vầng hồng
Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng
Đứng hiên ngang đố ai biết trước
Ấy Bắc binh sang việc ǵ chăng ?
Ai c̣n khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ tưng bừng đôi nơi
Chưa từng thấy đời nay sự lạ
Bổng khiến người giá họa cho dân
Muốn b́nh sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày
Đă nên si Hoàn Linh đời Hán
Đúc tiền ra bán tước cho dân
Xum xoe những rắp cậy quân
Chẳng ngờ thiên đạo xây dần đă công
Máy Hoá công nắm tay dễ ngỏ
Ḷng báo thù ai dễ đă nguôi ?
Thung thăng tưởng thấy đạo trời
Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra
Cát lầm bốn bể can qua
Nguyễn th́ chẳng được sẽ ra lại về
Quân hùng binh nhuệ đầy khe
Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời
Bấy giờ càng khốn than ôi
Quỉ ma trật vật biết trời là đâu ?
Thương những kẻ ăn rau ăn giới
Gặp nước bung con cái ẩn đâu
Báo thù ấy chẳng sai đâu
T́m non có rẫy chừng sau mới toàn
Xin những kẻ hai ḷng sự chúa
Thấy đâu hơn th́ phụ thửa ân
Cho nên phải báo trầm luân
Ai khôn mới được bảo thân đời này
Nói cho hay Khảm cung rồng dấy
Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
Chử rằng lục thất nguyệt gian
Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
Hễ nhân kiến đă dời đất cũ
Th́ Phụ Nguyên mới trổ binh ra
Bốn phương chẳng động can qua
Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi
Bấy giờ mở rộng qui khôi
Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn
Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Hoàng phúc xưa đă định tây phong
Làu làu thế giới sáng trong
Lồ lộ mặt rồng đầu có chử vương
Rỏ sinh tài lạ khác thường
Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài
Xem ư trời có ḷng đăi thánh
Dốc sinh hiền điều đỉnh nội mai
Chọn đầu thai những v́ sao cả
Dùng ở tay phụ tá vương gia
Bắc phương chính khí sinh ra
Có ông Bạch sĩ điều hoà sớm mai
Song thiên nhật rạng sáng soi
Thánh nhân chẳng biết th́ coi cho tường
Đời này thánh kế vị vương
Đủ no đạo đức văn chương trong ḿnh
Uy nghi trạng mạo khác h́nh
Thác cư một gốc kim tinh phương đoài
Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi
Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
Binh thơ mấy quyển kinh luân
Thiên văn địa lư nhân luân càng mầu
Ở đâu đó anh hùng hẳn biết
Xem sắc mây đă biết thành long
Thánh nhân cư có thụy cung
Quân thần đă định ǵn ḷng chớ tham
Lại dặn đấng tú nam chí cả
Chớ vội vàng tất tả chạy rong
Học cho biết lư kiết hung
Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi
Hễ trời sinh xuống phải th́
Bất kỳ chi ngộ màng ǵ tưởng trông
Ḱa những kẻ vội ḷng phú quí
Xem trong ḿnh một thí đều không
Ví dù có gặp ngư ông
Lưới chài đâu sẵn nên công mà ḥng
Xin khuyên đấng thời trung quân tử
Ḷng trung nghi ai nhớ cho tinh
Âm dương cơ ngẩu ngô sinh
Thái nhâm thái ất trong ḿnh cho hay
Văn th́ luyện nguyên bài quyết thắng
Khen Tử Pḥng cùng đấng Khổng Minh
Vơ thông yên thủy thần kinh
Được vào trận chiến mới càng biến cơ
Chớ vật vờ quen loài ong kiến
Biết ray tay miệng biếng nói không
Ngỏ hay gặp hội mây rồng
Công danh sáng chói chép trong vân đài
Bấy giờ phỉ sức chí trai
Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc ḿnh
Nặng ḷng thật có vĩ kinh
Cao tay mới ngẩm biết t́nh năm nao
Trên trời có mấy v́ sao
Đủ nho biền tướng anh hào đôi nơi
Nước Nam thường có thánh tài
Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường
So mấy lời để tàng kim quĩ
Chờ hậu mai có chí sẽ cho
Trước là biết nẻo tôn pḥ
Sau là cao chí biết lo mặc ḷng
Xem Đoài cung đến thời bất tạo
Thấy Vĩ tinh liệu rạo (chạy) cho mau
Nguôi ḷng tham tước tham giàu
T́m nơi tam hiểm mới hầu bảo thân
Trẻ con mang mệnh tướng quân
Ngỡ oai đă dấy ngỡ nhân đă nhường
Ai lấy gương vua U thủa trước
Loạn ru v́ tham ngược bất nhân
Đoài phương ong khởi lần lần
Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn
Man mác một đỉnh Hoành Sơn
Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
Ấy là những binh thù Thái Thái
Ḷng trời xui ai nấy biết ru ?
Phá điền đầu khỉ cuối thu
Tái binh mới động thập tḥ liền sang
Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết
Vả lại thêm hung kiệt mất mùa
Lưu tinh hiện trước đôi thu
Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm
Xem thấy những sương săm tuyết lạnh
Loài bất b́nh tranh mạnh hung hăng
Thành câu cá, lửa tưng bừng
Kẻ ngàn Đông Hải người rừng Bắc Lâm
Chiến trường chốn chốn cát lầm
Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông
Sang thu chín huyết hồng tứ giả
Noi đàng dê tranh phá đôi nơi
Đua nhau đồ thán quần lê
Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
Kẻ th́ phải thủa hung hoang
Kẻ th́ binh hỏa chiến trường chết oan
Kẻ th́ mắc thủa hung tàn
Kẻ th́ bận của bỗng toan khốn ḿnh
Muông vương dựng ổ cắn tranh
Điều th́ làm chước xuất binh thủ thành
Bời bời đua mạnh tranh giành
Ra đâu đánh đấy đem binh sớm ngày
Bể thanh cá phải ẩn cây
Đất bằng nổi sấm cát bay mịt mù
Nào ai đă dễ nh́n U
Thủy chiến bộ chiến mặc dù đ̣i cơn
Cây bay lá lửa đôi ngàn
Một làng c̣n mấy chim đàn bay ra
Bốn phương cùng có can qua
Làm sao cho biết nơi nào bảo thân
Đoài phương thực có chân nhân
Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
T́m cho được chốn được nơi
Thái nguyên một giải lần chơi trú đ́nh
Bốn bề núi đá diễu quanh
Một đường tiểu mạch nương ḿnh dấy an
Hễ Đông Nam nhiều phen tàn tạc
Tránh cho xa kẻo mắc đao binh
Bắc kinh mới thật Đế kinh
Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào ?
Chim hồng vỗ cánh bay cao
T́m cho được chốn mới vào Thần kinh
Ai dễ cứu con thơ sa giếng
Đưa một ḷng tranh tiếng dục nhau
Vạn dân chịu thủa u sầu
Kể dư đôi ngủ mới hầu khoan cho
Cấy cày thu đăi thời mùa
Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
Nhân ra cận duyệt viễn lai
Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm
Xem tượng trời biết đường đời trị
Ngẩm về sau họ Lư xưa nên
Gịng nhà để lấy dấu truyền
Ngẩm xem bốn báu c̣n in đời đời
Thần Qui cơ nổ ở trời
Để làm thần khí thủa nơi trị trường
Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Sông Bảo Giang thiên định ai hay
Lục thất cho biết ngày dài
Phụ nguyên ấy thực ở đầy tào khê
Có thầy nhân thập đi về
Tả phụ hửu tŕ cây cỏ làm binh
Giốc hết sức sửa sang Vương nghiệp
Giúp vạn dân cho đẹp ḷng trời
Ra tay điều chỉnh hộ mai
Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
Lọ là phải nhọc kéo quân
Thấy nhân ai chẳng mến nhân t́m về
Năm Giáp Tí vẽ khuê đă rạng
Lộ Ngũ tinh trinh tượng thái hanh
Ân trên vũ khí vân hành
Kẻ thơ kư tuư kẻ canh xuân đài
Bản đồ chẳng sót cho ai
Ngh́n năm lại lấy hội nơi vẹn toàn
Vững nền Vương cha truyền con nối
Dơi muôn đời một mối xa thư
Bể ḱnh tâm lặng bằng tờ
Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
Âu vàng khỏe đặt vững chân
Càng bền thế nước Vạn Xuân lâu dài
Vừa năm Nhâm Tư xuân đầu
Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
Quyển vàng mở thấy sấm trời
Từ Đinh đổi đời chí lục thất gian
Mỗi thời có một tôi ngoan
Giúp trong việc nước gặp an thái b́nh
Luận chung một tập kim thời
Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đ̣i
Trượng phu có chí thời coi
Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng
Tài nầy nên đấng vẻ vang
Biết chừng đời trị biết đường đời suy
Kể từ nhân đoản mà đi
Số chưa gặp th́ biết hoà chép ra
Tiếc thay hiền sĩ bao già
Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
Thử cho tay giúp ra dùng
Tài này so cùng tài trước xem sao ?
Trên trời kể chín tầng cao
Tay nghe bằng một ti hào biết hay ?
Hiềm v́ sinh phải thời này
Rấp thù mở nước tiếc thay chưng đời
Hợp đà thay thánh ngh́n tài
Giáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời
Nói ra th́ lậu sự đời
Trái tai phải lụy tài trai khôn luần
Nói ra am chúa bội quân
Đương thời đời trị xoay vần được đâu
Chờ cho nhân đoản hết sau
Đến chừng đời ấy thấy âu nhiễu nàn
Trời xui những kẻ ắt gian
Kiếp độc đạo thiết lăng loàn có hay
Vua nào tôi ấy đă bày
Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn
Đua nhau bội bạn nghịch vi
Ích gia phi kỉ dân th́ khốn thay
Tiếc tài ngẩm được thời hay
Đă sao như vậy ra tay sẽ dùng
Tài trai có chí anh hùng
Muốn làm tướng súy lập công xưng đời
Khá xem nghiệm nhặt tội trời
Cơ mưu nghiệm nhặt mấy trai anh hùng
Đi t́m cho đến đế cung
Rấp phù xuất lực đế cung được toàn
Bảo nhau cương kỷ cho tường
Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài
Chờ cho động đất chuyển trời
Bấy giờ thánh sẽ nên tay anh hùng
C̣n bên th́ náu chưa xong
Nhân lực cướp lấy thiên công những là
Đời ấy những quỉ cùng ma
Chẳng c̣n ở thật người ta đâu là
Trời cao đất rộng bao xa
Làm sao cho biết cửa nhà đế vương ?
Dù trai ai chửa biết tường
Nhất thổ thời sĩ Khảm phương thuở này
Ư ra lục thất gian nay
Thời vận đă định thời nầy hưng vương
Trí xem nghiệm nhặt cho tường
Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy
Vua ngự thạch bàn xa thay
Đại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
Gà kêu vượn hót vang lừng
Đường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn ḍ
Nhân dân vắng mạt bằng tờ
Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay
Vua c̣n cuốc nguyệt cày mây
Phong điều vũ thuận thú rày an dân
Phong đăng hoà cốc chứa chan
Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
Chính cung phương Khảm vần mây
Thực thay thiên tử là nay trị đời
Anh hùng trí lượng thời coi
Công danh chẳng ngại t́m đ̣i ra đi
T́m lên đến thạch bàn khê
Có đất sinh thánh bên kia cuối làng
Nh́n đi nh́n lại cho tường
Dường như chửa có sinh vương đâu là
Chảng t́m th́ đến b́nh gia
Thánh chưa sinh thánh báo ca địa b́nh
Nh́n xem phong cảnh cũng xinh
Tả long triều lại có thành đợt vây
Hửu hổ uấn khúc giang này
Minh Đường thất diệu trước bày mặt tai
Ở xa thấy một con voi
Cúi đầu quen bụi trông vời hồ sâu
Ấy điềm thiên tử về chầu
Tượng trưng đế thánh tô lâu trị đời
Song thiên nhật nguyệt sáng soi
Sinh đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu
Đến đời thịnh vượng c̣n lâu
Đành đến tam hợp chia nhau sẽ làm
Khuyên cho Đông Bắc Tây Nam
Muốn làm tướng súy th́ xem trông này
Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn
Một nhà họ Nguyễn (?)* phúc sinh tôn
Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn
Ḱa cơn gió thổi lá rung cây
Rung Bắc sang Nam Đông tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây
Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
Hưng địa tràng giang hóa nước đầy
Một gió một yên ai sùng bái
Cha con người Vĩnh Bảo (?)* cho hay
(?)*Đoạn này vua Tự Đức sửa
Con mùng búng tít con quay
Vù vù chong chóng gió bay trên đài
Nhà cha cửa đóng then cài
Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân
Tiếc tám lạng thương nửa cân
Biết rằng ai có du phần như ai
Bắt tay nằm nghỉ dông dài
Thương người có một lo hai phận ḿnh
Canh niên tân phá
Tuất Hợi phục sinh
Nhị Ngũ dư b́nh
Long Hổ Xà đầu khởi chiến tranh
Can qua tứ xứ loạn đao binh
Mă đề Dương cước anh hùng tận
Thân Dậu niên lai kiến thái b́nh
Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
Có một đàn xà đánh lộn nhau
Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
Lợn kia làm quái phải sai đầu
Chuột nọ lăm le mong cản tổ
Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu
Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
T́m về quê cũ bắt ngựa Tàu
Cửu cửu kiền khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo Dương đầu Mă vĩ
Hồ binh bát vạn nhập trường an
Bảo Giang thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành
Lê dân bảo bảo noản
Tứ hải lạc âu ca
Dục đức thánh nhân hương
Qua kiều cư Bắc phương
Danh vi Nguyễn (?) gia tử
Kim tịch sinh ngưu lang
Thượng đại nhân bất nhân
Thánh ất dĩ vong ân
Bạch hổ kim đai ấn
Thất thập cổ lai xuân
Bắc hữu kim thành tráng
Nam tạc ngọc bích thành
Hỏa thôn đa khuyển phệ
Mục giả dục nhân canh
Phú quí hồng trần mộng
Bần cùng bạch phát sinh
Anh hùng vương kiếm kích
Manh cổ đổ thái b́nh
Nam Việt hữu Ngưu tinh
Quá thất thân thủy sinh
Điạ giới sĩ vị bạch
Thủy trầm nhi Bắc kinh
Kỷ mă xu dương tẩu
Phù kê thăng đại minh
Trư thử giai phong khởi
Th́n măo xuất thái b́nh
Phân phân tùng Bắc khởi
Nhiểu nhiểu xuất Đông chinh
Bảo sơn thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành
Thủy trung tàng bảo cái
Hứa cập thánh nhân hương
Mộc hạ châm châm khẩu
Danh thế xuất nan lương
Danh vi Nguyễn (?) gia tử
Tinh bản tại ngưu lang
Mại dử lê viện dưỡng
Khởi nguyệt bộ đại giang
Hoặc kiều tam lộng ngạn
Hoặc ngụ kim lăng cương
Thiên dử thần thực thụy
Thụy tŕnh ngũ sắc quang
Kim kê khai lựu điệp
Hoàng cái xuất quí phương
Nhân nghĩa thùy vi địch
Đạo đức thực dữ đương
Tộ truyền nhị thập ngủ
Vận khải ngủ viên trường
Vận đáo dương hầu ách
Chấn Đoài cương bất trường
Quần gian đạo danh tự
Bách tính khổ tai ương
Can qua tranh đấu khởi
Phạm địch tánh hung hoang
Ma vương sát đại quỉ
Hoàng thiên tru ma vương
Kiền khôn phú tai vô lương
Đào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng
Cơ nhị ngủ thư hùng vị quyết
Đảo Hoành sơn tam liệt ngũ phân
Ta hồ vô phụ vô quân
Đào viên tán lạc ngô dân thủ thành
Đoài phương phước điạ giáng linh
Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân
Phá điền thiên tử giáng trần
Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm
Trần công nại thị phúc lâm
Giang hồ tử sĩ Đào Tiềm xuất du
Tướng thần hệ xuất Y Chu
Thứ kỵ phục kiến Đường Ngu thi hành
Hiệu xưng thiên hạ thái b́nh
Đông Tây vô sự Nam thành quốc gia .
--- Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm ---
|
Quay trở về đầu |
|
|
Thien Viet Hội viên
Đă tham gia: 09 September 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 1219
|
Msg 13 of 585: Đă gửi: 27 November 2006 lúc 7:52am | Đă lưu IP
|
|
|
Thưa Bác ThienNhan,
Bản trên có phải bản gốc của ông Nguyễn Phúc Giác Hải không?
TV
Sửa lại bởi Thien Viet : 27 November 2006 lúc 8:05am
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThiênY Hội viên
Đă tham gia: 25 April 2006
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 412
|
Msg 14 of 585: Đă gửi: 27 November 2006 lúc 10:25am | Đă lưu IP
|
|
|
Bác thiennhan ơi;
Thiên Y cám ơn bác nhiều lắm. Bác có công sưu tầm những đoạn sấm hiếm có của đấng Thánh Nhân và đăng lên đây cho mọi người đọc. Thật là công việc ngoài sức tưởng tượng rồi.
Thiên Y cũng đă từng nghiên cứu sấm Trạng trong thời trước năm 75. Đặc biệt có dịp người hậu duệ của cụ Trạng đọc cho một lần vào đầu năm 75. Lúc đó nhân dịp có sao chổi xuất hiện ở phương Tây. Người hậu duệ của cụ Trạng có cắt nghĩa từ sấm: - "Đuôi nó chỉ về hướng Đông là đúng rồi!". Người ấy nói tiếp: - "Chừng nào thấy vĩ tinh như vậy phải thoái cho mau!". Quả 2 tháng sau, biến cố năm 75 xẩy đến.
Thiên Y hăy c̣n ghi nhớ những đoạn có liên quan đến thời cuộc lúc bấy giờ. Chẳng hạn bài thơ "Thế sự tự b́nh bồng".
Trong phần 1 bác đăng lên và Thiên Y cũng đă đọc được trong sách xuất bản ở VN cùng có câu:
"Thành ra tuyết tán mây tan Bấy giờ mới sáng rơ ràng nơi nơi."
Nhưng người hậu duệ của cụ Trạng đọc là: "Thánh ra tuyết tán mây tan..." Theo Thiên Y th́ đoạn này cũng đă ứng nghiệm rồi.
Trong sấm có chữ "Lục Thất Gian", tạm dịch là Thời Gian thứ 6 và 7, cũng đă làm Thiên Y suy nghĩ rất nhiều năm, và đến giờ vẫn không hiểu ra dụng ư của cụ Trạng. Vậy bác có ư kiến ǵ về mấy chữ này không?
Ở trên mọi người đă bàn về chữ "Nhân Thập" và bác Thiên Việt thắc mắc nếu 2 chữ này ghép lại th́ ra chữ ǵ? Câu trả lời vẫn là chữ "Thập (什)", hạng chục.
Kính Thiên Y
|
Quay trở về đầu |
|
|
Thien Viet Hội viên
Đă tham gia: 09 September 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 1219
|
Msg 15 of 585: Đă gửi: 27 November 2006 lúc 10:41am | Đă lưu IP
|
|
|
Kính,
chữ Phá Điền, theo chữ Hán: chữ Điền phá ra thành chữ ǵ?
(trong câu Phá Điền Thiên Tử Giáng Trần), h́nh như chữ Quốc có chữ Điền ở trong, hoặc là chữ Điền có chữ Quốc ở trong?
Xin cảm ơn,
TV
|
Quay trở về đầu |
|
|
LuuBi. Hội viên
Đă tham gia: 18 May 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 1992
|
Msg 16 of 585: Đă gửi: 27 November 2006 lúc 5:01pm | Đă lưu IP
|
|
|
Danh vi Nguyễn (?) gia tử
Kim tịch sinh ngưu lang
Thượng đại nhân bất nhân
Thánh ất dĩ vong ân
Bạch hổ kim đai ấn
Thất thập cổ lai xuân 70 tuỗi
đây có phải noí về hoàn cănh gia đ́nh cuă Thiên tữ ko bác thiên nhân ? hết giàu thành nông dân(kim tịch sinh ngưu lang(kẻ trăn châu))...thượng đaị nhân bất nhân là trên ko phăi đạo ư noí là người cầm đầu chính quyền ko phăi đạo ..3 câu sau cháu ko biết phăi nhờ bác ThienNhan rồị
Bắc hữu kim thành tráng
Nam tạc ngọc bích thành
Hỏa thôn đa khuyển phệ
Mục giả dục nhân canh
Phú quí hồng trần mộng
Bần cùng bạch phát sinh
dân chúng lầm than, v́ bần cùng nên phát sinh xấu!
Anh hùng vương kiếm kích
Manh cổ đổ thái b́nh
Nam Việt hữu Ngưu tinh
Quá thất thân thủy sinh
Điạ giới sĩ vị bạch
Thủy trầm nhi Bắc kinh
cuộc chiến nỗi dậy ko c̣n hoà b́nh ...
Nam Việt hữu Ngưu tinh
Quá thất thân thủy sinh
Điạ giới sĩ vị bạch
Thủy trầm nhi Bắc kinh
????
Kỷ mă xu dương tẩu (ngưạ cũ bơ đi)
Phù kê thăng đại minh (phong vương)
Trư thử giai phong khởi (phong hầu)
Th́n măo xuất thái b́nh (th́n măo thaí b́nh)
Phân phân tùng Bắc khởi
Nhiểu nhiểu xuất Đông chinh (tiếp tục xuất chinh)
Bảo sơn thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành
Thủy trung tàng bảo cái
Hứa cập thánh nhân hương thề đi chung
Mộc hạ châm châm khẩu
Danh thế xuất nan lương có tiếng lương thiện
tự nhiên xuất mà ko có căn cứ ?? nên có thễ vị thiên tử này là con cuă người cầm đầu nỗi dậy hoặc là 1 tay traí hoặc phăi cuă người cầm đầu! v́ trên đă cho biết người nỗi dậy cũng đă 70 xuân sanh!
Danh vi Nguyễn (?) gia tử
Tinh bản tại ngưu lang
Mại dử lê viện dưỡng
Khởi nguyệt bộ đại giang
Hoặc kiều tam lộng ngạn
Hoặc ngụ kim lăng cương
Nơi cư ngụ
Thiên dử thần thực thụy
Thụy tŕnh ngũ sắc quang
Kim kê khai lựu điệp
Hoàng cái xuất quí phương
Nhân nghĩa thùy vi địch
Đạo đức thực dữ đương đạo đức giă thật tranh đấu
đang lúc lầm than mà gặp ánh sáng ư nói là dân chúng thấy được ánh sáng từ cuộc nỗi dậy ..
Tộ truyền nhị thập ngủ 25 cái ǵ truyền lại ?
Vận khải ngủ viên trường
Vận đáo dương hầu ách vận trước dương hầu (quan) phá hoại
Chấn Đoài cương bất trường Chấn trên đoài dưới thành lôi thiên đại tráng ư:Quân tử tuy đang thịnh nhưng phăi cần chú ư thêm sự lâu dài
Quần gian đạo danh tự con sâu 1 bầy
Bách tính khổ tai ương
Can qua tranh đấu khởi chiến tranh từ nội
Phạm địch tánh hung hoang
Ma vương sát đại quỉ
Hoàng thiên tru ma vương
cuộc chiến kinh hoàng, Ma sát Quỷ, Thiện lại ghét Ác
Kiền khôn phú tai vô lương Quân tử thất thế
Đào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng
Cơ nhị ngủ thư hùng vị quyết
Đảo Hoành sơn tam liệt ngũ phân
Ta hồ vô phụ vô quân
Đào viên tán lạc ngô dân thủ thành
Trở thành cuộc chiến tam quốc ngày xưa chia 5 xẽ 3 đất nước
Đoài phương phước điạ giáng linh Phương tây có thần giáng trần
Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân 9 từng có rồng gặp mây
Phá điền thiên tử giáng trần
Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm Dũng Sĩ gặp nước mưu giơi như Chúa Sơn Lâm hoặc là mưu cao như núi
Trần công nại thị phúc lâm
Giang hồ tử sĩ Đào Tiềm xuất du
Tướng thần hệ xuất Y Chu
Thứ kỵ phục kiến Đường Ngu thi hành
Nhân tài quỳ dưới chân thiên tử nguyện bơ công ra giúp đất nước
Hiệu xưng thiên hạ thái b́nh
Đông Tây vô sự Nam thành quốc gia .
__________________ Xuất Ḱ đông môn,
Hữu nữ như vân .
Tuy Tắc Như Vân,
Phỉ ngă tư tồn .
Cảo Y kỳ cân,
Liêu Hạc ngă vân
|
Quay trở về đầu |
|
|
ngoctrongdda Hội viên
Đă tham gia: 26 November 2006
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 142
|
Msg 17 of 585: Đă gửi: 27 November 2006 lúc 10:53pm | Đă lưu IP
|
|
|
Thấy anh em giải mă hay quá ! tôi không biết chữ Hán nôm , nhưng hồi c̣n bé có bị nhiễm chuyện chưởng & Đông Chu ,Tam Quốc vậy góp vui từ đoan... Kim kê khai lựu điệp gà đẻ nhiều trứng
Từ Mỹ sẽ xuất hiện 1 người lănh đạo tiên phong cho công cuộc đổi mới ( hoàng cái chưa chắc là Thiên tử? ) trải qua bao đấu tranh gian khổ, có thể khoảng 25 năm sau...Đào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng họp quốc hội tại Hà Nội ( hay tại làng hoa Nhật Tân , 25 năm sau chắc là đô thị) chia ra làm 3,5 thế lực chính trị
Phương Tây của người lập bài sấm này ,hoặc của VietNam ứng với đia lư phong thủy sẽ xuất hiện 1 vị lănh tụ người này tuổi Sửu ( phá điền chỉ con trâu?) văn vơ song toàn? Là 1 người dân chơi b́nh thường(giang hồ tử sĩ) ,họ Trần được bố mẹ cho ra nước ngoài làm ăn king doanh lấy vợ là họ Đào ( sự tích Pham Lăi ra nước Đào kinh doanh ,đổi tên là Đào Chu Công) cùng với vị từ Mỹ kia giống như Y Doăn ,Chu Công giúp vua Nghieu ,Thuấn lănh đạo nước VietNam hùng mạnh !
Những câu hỏi được đặt ra là : Người này nam hay nữ,thời gian nào xảy ra ,Đông tây vô sự (Nam, Bắc th́ sao? ). Bài sấm này thiệt hay giả ,dẫu có thiệt đi chăng nữa chắc ǵ cụ Trạng Tŕnh đă đúng
|
Quay trở về đầu |
|
|
LuuBi. Hội viên
Đă tham gia: 18 May 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 1992
|
Msg 18 of 585: Đă gửi: 28 November 2006 lúc 12:47am | Đă lưu IP
|
|
|
tại sao phá điền thành con trâu được ? mà tại sao ko phăi là con ḅ ?
Quote:
Những câu hỏi được đặt ra là : Người này nam hay nữ,thời gian nào xảy ra ,Đông tây vô sự (Nam, Bắc th́ sao? ). Bài sấm này thiệt hay giả ,dẫu có thiệt đi chăng nữa chắc ǵ cụ Trạng Tŕnh đă đúng
đúng chứ từ khi vũ trụ sinh ra trời đất có 1 câu "Cái ǵ mà ko tiếp tục đi lên tất sẽ đi xuống và tự mất đi" từ khi cuộc chiến tranh trước th́ giờ này cũng hơn 30 năm rồi!
Sửa lại bởi LuuBi. : 28 November 2006 lúc 12:49am
__________________ Xuất Ḱ đông môn,
Hữu nữ như vân .
Tuy Tắc Như Vân,
Phỉ ngă tư tồn .
Cảo Y kỳ cân,
Liêu Hạc ngă vân
|
Quay trở về đầu |
|
|
ngoctrongdda Hội viên
Đă tham gia: 26 November 2006
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 142
|
Msg 19 of 585: Đă gửi: 28 November 2006 lúc 1:01am | Đă lưu IP
|
|
|
Trâu, ḅ th́ cũng lọai OX trong 12 con vật mà
Tại sao cái ǵ như ban nói sao không biến sang dạng khác , mà Bị mất đi làm ǵ cho khổ hả bạn
Sửa lại bởi ngoctrongdda : 28 November 2006 lúc 1:02am
|
Quay trở về đầu |
|
|
LuuBi. Hội viên
Đă tham gia: 18 May 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 1992
|
Msg 20 of 585: Đă gửi: 28 November 2006 lúc 1:10am | Đă lưu IP
|
|
|
ngoctrongdda đă viết:
Trâu, ḅ th́ cũng lọai OX trong 12 con vật mà
Tại sao cái ǵ như ban nói sao không biến sang dạng khác , mà Bị mất đi làm ǵ cho khổ hả bạn |
|
|
cây cơ ko c̣n lớn nữa có biến thành dạng cây khác ko ? con vật khi qua tuỗi trưỡng thành rồi c̣n có biến dạng ko ? người sau khi qua tuỗi trung niên có già yếu đi ko hay là từ nam thành nữ ???
nhưng tại sao Phá Điền lại là Trâu ?
Sửa lại bởi LuuBi. : 28 November 2006 lúc 1:14am
__________________ Xuất Ḱ đông môn,
Hữu nữ như vân .
Tuy Tắc Như Vân,
Phỉ ngă tư tồn .
Cảo Y kỳ cân,
Liêu Hạc ngă vân
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|
|
Bạn không thể gửi bài mới Bạn không thể trả lời cho các chủ đề Bạn không thể xóa bài viết Bạn không thể sửa chữa bài viết Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ
|
Trang này đă được tạo ra trong 3.9277 giây.
|