Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 207 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Thời nay đoạn kết của Sấm Trạng ? Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
NhapMon
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 201 of 585: Đă gửi: 18 December 2006 lúc 1:39pm | Đă lưu IP Trích dẫn NhapMon

Thưa các bác,

Theo những ǵ đọc được và từ kinh nghiệm của các bác th́ người ta đă tốn nhiều th́ giờ và bút mực để t́m hiểu hai chữ "phá điền" trong câu Sấm:

"Phá điền thiên tử giáng trần"

Theo cách chiết tự của ông Lưu Văn Vịnh, tác gỉa Việt Sử Siêu Linh, th́ khi "phá" chữ điền th́ lời ra chữ Thập, theo ông th́ ám chỉ thầy Nhân Thập và cũng là Thần (Thánh) Tản Viên . Nếu chúng ta chấp nhận kết luận này, chúng ta vẫn chưa "biết" Thánh Tản Viên sẽ "hóa thân" vào người nào, và nhân vật này cầm tinh con ǵ ?

Tui đang "đi t́m" cái con ǵ được Trạng dùng làm cầm tinh trong cái hiểu biết hạn hẹp của tui về Sấm cũng như Tử Vi . Có thể nó sai be sai bét, nhưng cũng để mua vui cũng các bác!

Trong câu

"Phá điền thiên tử giáng trần"

chủ từ của động từ "phá" bị dấu biến, và đó cũng là mấu chốt của vấn đề đưa đến nhiều tranh luận, giải đóan khác nhau! Trong Sấm lại nhắc nhiều đến "Ngưu lang", khiến chúng ta cứ măi đi t́m "trâu", bỏ quên các con khác .

Mời các bác đọc lại đoạn trích dẫn sau đây được bác Thiên Nhân trích và pốt lên trước đây:


thiennhan đă viết:
Code:
BÀI SẤM ĐÍCH THỰC LÀ SẤM TRẠNG TR̀NH

9 - Thiên dữ thần thực thụy
Thụy tŕnh ngũ sắc quang
Kim kê khai lựu diệp
Hoàng cái xuất qúi phương


Trời đất thánh thần cùng báo điềm lành, mây ngũ sắc hiển hiện, gà vàng mở lá lựu, lọng vua xuất hiện phương quí. Ca dao có câu :

Nhất cao là núi Tản viên
Núi thắt cổ bồng
Mà lại có thánh sinh

hoặc đồng dao :

Bổng bồng bông
Núi thắt cổ bồng
Mà có thánh sinh

Câu sấm này lại nhắc tới lọng vua (hoàng cái) tức Tản viên, ở quí phương tức phương vàng (kim 金) là phương Tâỵ Trong chữ lựu có chữ điền, khai lựu diệp cũng có nghĩa như phá điền thiên tử giáng trần, cổ nhân muốn gợi ư thánh Tản xuất. Phá chữ điền lộ ra chữ thập, là thấy danh "nhân thập" trong câu "có thầy nhân thập đi về, tả phù hữu tŕ, cây cỏ làm binh".


Ở đây, ta thấy tác giả Lưu Văn Vịnh cho rằng

"khai lựu diệp" cũng có nghĩa như "phá điền"

nghĩa là, thay v́ nói

"Phá điền thiên tử giáng trần" ,

tác giả Lưu Văn Vịnh cho rằng

"Khai lựu diệp thiên tử giáng trần"

May thay, lần này Trạng có "lộ" ra cái chủ từ. Ai "khai" lựu diệp ? là Kim Kê!

"Kim kê khai lựu diệp
Hoàng cái xuất qúi phương"


Mặt khác, trong Sấm c̣n có câu

"Kỷ mă xu dương tẩu
Phù thăng đại minh


Tui không rành Nho, nhưng cũng hiểu lờ mờ rằng "phù" có nghĩa là "phù trợ", "pḥ trợ", đại khái như Sư Vạn Hạnh "phù trợ" Lư Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, sáng lập ra triều đại nhà Lư!

Kết hợp với các phân tích trước đây, th́ Kim Kê hay con Dậu dường như là cầm tinh của ông kia!

Tóm tắt các chi tiết thu lượm được:

Đinh Dậu
Mệnh: Sơn Hạ Hỏa
Giờ sinh: giờ Dần
Mệnh tọa Sửu cung
Mệnh trong tam hợp Kim: Tỵ Dậu Sửu (Kim: phương Tây)

Cũng nghe nói mấy chú Dậu thường ngủ chuồng trâu (Sửu cung ). Sáng sáng, bay đậu trên cổng chuồng, gáy mấy tiếng kèn thúc quân, thế là trâu ta lục tục ra đồng...làm việc!


Bonus của bác nhoccon1412

Xuân nhật tùng lai xuân nhật tựu (1)
Đông chi nhiên hậu đông chi phân (2)
Kê du phong nguyệt bắc phương động (3)
Khuyển nhập yên hà Nam quốc an (4)
    

(Khi được hỏi về ư nghĩa của 4 câu thi trên, Ơn Trên giải bằng tiếng Nôm như sau:)

Câu (3)

Cất tiếng, kia chẳng quản công
Gió trăng góp lại một đêm ṛng
Cơ binh lục quốc an đồ trận
Bạn, khách ngoài trong chuyển thế công.


Chia xẻ với các bác    

Sửa lại bởi NhapMon : 18 December 2006 lúc 2:02pm


__________________
NhapMon
Quay trở về đầu Xem NhapMon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi NhapMon
 
linhlinhlinh
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 25 November 2006
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 140
Msg 202 of 585: Đă gửi: 18 December 2006 lúc 3:36pm | Đă lưu IP Trích dẫn linhlinhlinh

thưa bác nhap mon:trước tiên xin được nói 1điều :sẽ không có 1 kẻ nào là lưu vong được phép đặt chân lên sâN RỒNG! họ lư (hàn quốc) chớ vọng tưởng nên đừng phí công?kẻ hiểu biết không cần diễn giải?thánh?là ai?bác nhap mon nói :lương nhật nguyệt !tôi đưa  2 lá số :"mệnh lộc tồn.sao chủ thân :thiên lương."phủ tướng chiều viên chung thực lộc.mệnh ở cung thân.2-mệnh cư dần có thiênđồng ,thiên lương toạ thủ đồng cung lại có thiên cơ - nguyệt hợp chiếu(cơ nguyệt đồng lương ).bác coi rồi cho ư kiến.theo linh cảm :tôi tin thánh đă ra đời.tứ trụ người đó tôi cũng thử dự đoán...như trên?mong bác góp ư.thanks.
Quay trở về đầu Xem linhlinhlinh's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi linhlinhlinh
 
NhapMon
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 203 of 585: Đă gửi: 18 December 2006 lúc 6:17pm | Đă lưu IP Trích dẫn NhapMon

Thưa bác Linh,

"Tử Vi không có lá số Thiên Tử, nhưng Thiên Tử th́ có lá số"

Câu này tui chôm của bác VDTT bên Tử Vi, nhưng thay chữ "vĩ nhân" của bác ấy bằng chữ "Thiên Tử".

Để t́m một lá số tốt, tứ trụ tốt, mọi thứ đều tốt th́ không khó . Tui không làm vậy, mà chỉ từ Sấm, chứ không từ TV hay môn nào khác, rút ra một lá số, sau đó sẽ phối hợp với thiên văn địa lư để chứng minh tính "nhất quán" của nó nếu điều kiện cho phép . Nếu qúa tŕnh này thực hiện xong, th́ bước kế tiếp là...ngồi đợi thầy Nhân Thập xuất hiện, lúc ấy mới dám kết luận!

Tui rất muốn cùng bác phân tích các lá số bác đề nghị, nhưng v́ lư do giải thích trên đây, mong bác thông cảm chọ

C̣n về họ Lư hay Nguyễn hay Phạm, hoặc bất kỳ họ ǵ khác, th́ tui cũng không quan tâm. Một khi Thánh Tản đă "chọn" để hóa thân, th́ có chạy đằng trời! , và dù có ở chổ nào đi nữa, Thánh cũng "tạo cơ hội" khiêng hắn về, bỏ lên ngai vàng, h́ h́...nếu phe ta tin vào Thánh, tin vào Trạng và tin vào Sấm!

Cái chúng ta lo lắng không phải là cái "lư lịch" của thầy Nhân Thập, mà chúng ta trông mong ông ấy sẽ giúp biến nước VN trở thành một quốc gia phú cường, mọi người được ấm no an lạc    

Sửa lại bởi NhapMon : 20 December 2006 lúc 12:28pm


__________________
NhapMon
Quay trở về đầu Xem NhapMon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi NhapMon
 
vannuoc_77
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 20 December 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 9
Msg 204 of 585: Đă gửi: 20 December 2006 lúc 7:14pm | Đă lưu IP Trích dẫn vannuoc_77

Chào các bạn
Tôi may mắn có được một tập sách Giải Mă Sấm Trạng Tŕnh trong lúc viếng thăm VN.  Tập sách do một đạo sư ẩn danh để lại trong hang Ông Thẻ nơi  Thiên Cấm Sơn. Một người dân lấy được và phổ biến chui.  Trong tập sách tiết lộ về chân tướng của vị lănh đạo mà sấm Trạng đề cập. Rất hay.  Nếu các bạn muốn th́ email cho tôi ( vannuoc_77@yahoo.com ).  Tài liệu dài khoảng 30 trang, dạng PDF (cần có Acrobat Reader  để  đọc). Chào.
Quay trở về đầu Xem vannuoc_77's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vannuoc_77
 
linhlinhlinh
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 25 November 2006
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 140
Msg 205 of 585: Đă gửi: 21 December 2006 lúc 2:03am | Đă lưu IP Trích dẫn linhlinhlinh

to vannuoc_77 : cám ơn nhă ư của bác.được vậy th́ tốt quá.anh -em chúng tui đang "bí" phần tài liệu.nếu bác có tài liệu có thể nhờ ban quản trị pots bài lên diễn đàn cho bạn hữu xa gần vừa đọc vừa b́nh giải sấm th́ "xôm tụ" hết biết. ngoài ra khách thập phương cứ diễu qua quán "giải sấm " này sẽ ghé thăm có thêm được thông tin (những khách tới trễ cũng được đọc ).xin cho phép làm phiền bác vậy.(mong được bác cho ư kiến.thanks.)

 

Quay trở về đầu Xem linhlinhlinh's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi linhlinhlinh
 
boduc
Học Viên Lớp Dịch Lư
Học Viên Lớp Dịch Lư


Đă tham gia: 20 July 2006
Nơi cư ngụ: Ghana
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 20
Msg 206 of 585: Đă gửi: 21 December 2006 lúc 5:47am | Đă lưu IP Trích dẫn boduc

Tui cũng thấy hay nhất là post lên forum cho mọi người cùng luân.

Thanks

Quay trở về đầu Xem boduc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi boduc
 
vannuoc_77
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 20 December 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 9
Msg 207 of 585: Đă gửi: 21 December 2006 lúc 5:32pm | Đă lưu IP Trích dẫn vannuoc_77




Sửa lại bởi vannuoc_77 : 21 December 2006 lúc 5:34pm
Quay trở về đầu Xem vannuoc_77's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vannuoc_77
 
vannuoc_77
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 20 December 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 9
Msg 208 of 585: Đă gửi: 21 December 2006 lúc 7:43pm | Đă lưu IP Trích dẫn vannuoc_77

Giải Mă  Sấm Trạng Tŕnh

 

Truy T́m Tung Tích

Của Vị Chân Đế  Theo Những Lời Tiên Tri Bất Hủ

 

Ất Dậu 2005

 

 

Lời Mở Đầu

 

“Một ngày thu năm Nhâm Dần ( 1542 ) đang tựa án đọc sách, chợt thấy mây ngũ sắc hiện ra, Trạng liền gieo quẻ bói xem thời vận nước nhà, lúc ấy đời vua thịnh trị nhất triều Mạc là Mạc Đăng  Doanh mới mất, Trạng bốc được quẻ Càn, động hào Sơ cửu, liền đoán ‘Liên Mậu, Kỷ, Canh, Tân can qua sinh biến’ nghĩa là loạn liên tiếp vào năm Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi (1548-49-50-51).  Cụ lại giảng tiếp cho học tṛ là Trương Thời Cử rằng :

 

             1. Bốc đắc Càn thuần quái

                           Bói được quẻ thuần Càn

 

             2. Sơ cửu thoái tiềm long

                           Sơ hào 9 thấy rồng về ẩn

            

             3. Ngă bát thế chi hậu

                           Tám đời sau ta

 

             4. Binh qua khởi trùng trùng

                           Binh loạn liên miên . . . [cho đến khi]

            

             5. Tinh tụ bảo giang thượng  

                           Sao tụ trên sông quư 

            

             6. Đại nhân cư chính trung

Đại nhân trú ở trung ương         

 

Bài này chính là ch́a khóa để mở mật ngữ và ẩn nghĩa trong toàn bộ Sấm Trạng Tŕnh, một bài Sấm không ai phủ nhận được giá trị chân xác may mắn được truyền lại, trong khi tập Sấm đă bị tam sao thất bản, thêu dệt thêm bớt qua 500 năm.  Bói được quẻ Càn (Trời), thấy rồng lui ẩn, hồng vận chân chúa chưa xuất hiện, tám đời sau, khoảng 1735 khi Tiến sĩ Vũ Khâm Lân tới thăm hậu duệ đời thứ 7 và thứ 8 của Trạng Tŕnh tại chính nền nhà xưa, đúng là thời loạn liên tiếp giữa các phe Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn...Cho tới triều Nguyễn Gia Long cũng chỉ được hơn 60 năm lại bị Thực dân xâm lăng, mà trong 60 năm đó, loạn lạc vẫn liên miên tại miền Bắc bộ (riêng hai đời Minh Mệnh, Thiệu Trị 1820-1847 đă có tới 250 vụ loạn) , cho tới thập niên 1980 mới tạm gọi là yên ổn. Phải đợi tới khi sao Ngưu, chủ tinh của bậc đại nhân xuất hiện trên Bảo Giang th́ đất nước mới lại phục hưng, đại hồng vận non sông mới rực rỡ.  Bài Sấm trên cho thấy Trạng Tŕnh đă dùng tới Dịch lư và phải cộng thêm với Chiêm tinh (Thái Ất, Thái Huyền?) mới tính ra được thời ‘sao tụ’ trên Bảo giang và ‘tám đời sau binh qua’ mà một quẻ Dịch thường không ‘động’ cho một quăng thời gian dài cả 500 năm như vậy  . . . Sấm cũng như Kinh, đ̣i hỏi người đọc một vài tiêu chuẩn tâm thức giúp cho việc lĩnh hội. Người viết Sấm như Trạng Tŕnh khi bốc quẻ đă phải hết sức tập trung và thành tâm th́ quẻ mới ứng, chưa kể kỹ thuật tính toán suy diễn đ̣i hỏi rất nhiều tâm huyết.  Người viết Sấm thuộc loại Thánh nhân, người đọc Sấm cũng cần tĩnh tâm để đốt lửa soi gan kim cổ. Phá chấp kiến, vượt ngă mạn, trực chỉ nhân tâm mà kiến cái ‘Huyền’ của lịch sử.  Sấm Trạng Tŕnh luận giải về Lịch sử dân tộc 500 năm sau tức là vào hiện đại. Nh́n dân tộc như một khối sinh động trôi trong thời gian, thịnh suy theo chu kỳ tinh đẩu thiên địa nhân nhất thể, Trạng Tŕnh không phải chỉ đoán sự mà c̣n để cái tâm vào cuộc thăng trầm của dân tộc mà ông suốt đời thao thức, tận tụy. Thế nên hậu thế đọc Sấm chẳng những để t́m hiểu cái sự biến mà c̣n cảm thông cái sự tâm, th́ mới quán chiếu nổi phần nào nỗi ḷng nặng chĩu của tiền nhân truyền lại.”  Trích VSSL.

 

Tôi trích những lời của ông Hạ Long Lưu Văn Vịnh để làm lời mở đầu này v́ sự kính trọng đối với đóng góp của ông qua quyển Việt Sữ Siêu Linh mà tôi t́nh cờ đọc được.  Một phần khác là v́ nó có liên đới ít nhiều tới một tập sách do một vị đạo sư (không lưu tung tích) cố t́nh để lại trong hang Ông Thẻ trên Thiên Cấm Sơn (Châu Đốc) tặng cho người hữu duyên.  Trang đầu của tập sách (chép tay trong hai quyển vở học tṛ) mang tựa đề là “Giăi Mă Sấm Trạng Tŕnh” với hai câu đối “Chân Đế: Lănh Lệnh Thiên Hoàng Khai Vận Nước.  Trạng Tŕnh: Vâng Lời Tam Giáo Giải Huyền Cơ.”   Tập sách của vị đạo sư đó đă được một khách thập phương t́m gặp và phổ biến “chui” trong giới hâm mộ tại Việt Nam.  Trong một chuyến  thăm quê tôi được một người quen đưa cho đọc và cho phép sao chép để đưa ra hải ngoại.  Tuy chủ ư của tôi là muốn phổ biến tập sách “Giải Mă Sấm Trạng Tŕnh” của vị đạo sư nhưng tôi lại muốn nhân cơ hội này rút ra một số điểm từ cuốn VSSL của ông Lưu Văn Vịnh để bổ túc những điều không được giải thích trong tập sách của vị đạo sư.       

 

Thứ nhất: “chính ở đại địa long mạch Cửu Long mà hai ngàn năm trước đă phát khởi lên cường quốc Phù Nam, là cường quốc đầu tiên ở Đông Nam Á, lan rộng tới Lào, Quảng Nam về phương Bắc, bao cả miền Nam Việt Nam và Cao Miên bây giờ, lan sang Mă Lai ngày nay. Kế tiếp vương quốc Chân Lạp bành trướng lên tới Nam Chiếu, Hạ Lào, ngang ra biển Đông cũng là một vương quốc lớn mạnh một thời. Nền văn hóa Óc Eo, Angkor, mang dấu tích đế quốc Phù Nam, không thua sút văn hóa Trống Đồng của Việt Nam. Tuy Phù Nam suy tàn từ thế kỷ VI, Chân Lạp suy tàn từ thế kỷ XV, nhưng khí lực Cửu Long rất hùng viễn mạch trường thiên kỷ, nên đại địa này c̣n có chu kỳ hưng phát tương lai. So sánh với Đại Việt,cường quốc Phù Nam và Chân Lạp lúc thịnh thời có thể rộng lớn và qui phục nhiều tiểu quốc hơn.  Đấy là nhờ khí lực long mạch Cửu Long đem lại. . . . Trong trường kỳ lịch sử, ta không sợ Bắc phương Hán tộc mà nên đề pḥng long mạch tái phát của dân Phù Nam, Chân Lạp tức dân Miên ngày nay. Đất Cao Miên có đại địa Cửu Long Biển Hồ, đă từng có văn minh Angkor, đă từng là đế đô của cường quốc đầu tiên Đông Nam Á là Phù Nam, đất này c̣n có chu kỳ dấy phát. . . . Nếu nước Việt gồm thâu cả ḍng Cửu Long , Hoàng Liên Sơn, Trường Sơn làm âm dương song hành, cao nguyên Pleiku, Đà Lạt và b́nh nguyên miền Nam làm đại minh đường nh́n ra biển Đông, th́ mới có đại thế để trở thành một đại cường quốc, ngồi vào ghế Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, nếu không, ta chỉ có thể thành cường quốc vùng Đông Á mà thôi.”  Trích VSSL.  Theo tôi hiểu (dựa theo lời giải của vị đạo sư  để lại) th́  chu kỳ  hưng phát đă tới.  Dọc theo ḍng Mekong chỉ c̣n lại một đại huyệt chưa lộ ra và vận hội này sẽ phát sinh từ đại địa đó, nơi được gọi là “xứ hoàng giang sinh thánh” trong sấm của Trạng Tŕnh.  Hoàng giang hoặc bảo giang chính là con sông Mekong, con sông vua (hoàng giang)  mà nhiều sông nhỏ khác phát xuất từ Tây Tạng, Trung Quốc, Miến Điện, Lào, Thái, Miên,Việt phải đổ vào chầu.  Nó cũng là con sông quư (bảo giang), nếu chưa th́ cũng sẽ trở thành con sông quư, v́ trong tương lai một nguồn nước lớn có thể đắc giá hơn mỏ dầu hỏa.  Đại điạ đó là vùng đất dành cho một đất nước mới sau này: Nam Bang.  Nam Bang là một liên bang tại Đông Nam Á (trong đó có Việt Nam) và sau này sẽ trở thành là một cường quốc, mở ra một thời thịnh trị an lạc.  Vùng đất đại địa đó là ân sủng của Thiên Đ́nh ban cho nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam, Cao Miên và Lào cộng thêm một số quốc gia nữa.  Một luồng sinh khí mới sẽ thổi vào vùng ĐNA, sau khi đă trải qua một số biến động rất lớn.  Một sự chuyển ḿnh mang phước lộc đến cho tất cả mọi người trong vùng.  Chúng ta không phải lo sợ người Cao Miên cũng không cần phải dành giật để làm của riêng cho Việt Nam.  Thiên cơ đă định như vậy là như vậy.  Chúng ta, người Việt Nam, phải mở ḷng ra ôm tất cả mọi dân tộc nhỏ bé hơn vào ṿng tay che chở, bằng t́nh thương, th́ chúng ta mới hưởng được cái phước lớn này một cách trọn vẹn và lâu dài.  Đừng quá tham lam.  Đừng lấy mạnh hiếp yếu mà hy vọng sản xuất ra hoà b́nh thịnh trị.  Nếu chúng ta tham lam, chúng ta lấy mạnh hiếp yếu th́ cùng một định luật đó bạo lực và bất hạnh sẽ ụp xuống đầu chúng ta.

 

             Thứ hai: “nh́n trên bản đồ Thế giới, nước Mỹ và Viễn Đông gồm Tàu, Việt, Hàn, Nhật nằm ỡ vị thế đối chiếu, cách nhau 12- 13 múi giờ, nên đă có liên hệ và đă xẩy ra nhiều xung đột luận theo Dịch lư : chiến tranh Mỹ-Nhật, Mỹ-Hàn, Mỹ-Việt và xung đột Mỹ-Tầu.  Trích VSSL.   Theo tôi hiểu th́ (dựa theo lời giải của vị đạo sư để lại)  Thế cuộc xung đột giữa Hoa Kỳ với Trung Hoa sẽ xẩy ra và theo đó khởi lên của đất nước mới: Nam Bang.  Nhờ hoàng phúc đại địa quốc gia mới đó sẽ thành h́nh và được sự công nhận của Liên Hiệp Quốc: một giải pháp chính trị cho toàn vùng.  Trong sấm có câu “bản đồ chẳng sót cho ai; ngh́n năm lại  lấy hội nơi vẹn toàn.”  Nam Bang sinh ra không từ cái “kẻ thắng người bại, kẻ được người mất” mà từ cái chung, “cái tất cả đều được, cái tất cả đều lớn hơn trước và giàu mạnh hơn trước.”  Khẳng định nó phải là một liên bang v́ (a) thời này không ai chấp nhận một sự xâm chiếm sống sượng, (b) nếu một sự xâm chiến sống sượng có xảy ra th́ tiếp theo là binh loạn liên miên để đ̣i lại lănh thổ chớ không thể nào tiêu hóa nổi để đi tới chổ “thanh b́nh âu ca” được, và (c) chỉ có quần thể liên bang mới đưa đến cái chung “chẳng sót cho ai”  và đạt tới chổ “hội nơi vẹn toàn” cho tất cả.  Và muốn “an lạc âu ca” th́ cơ chế điều hành đất nước trên căn bản phải là một cơ chế nhân bản và dân chủ, dầu cho cơ chế đó nếu có thực sự  dành một vai tṛ cho một người được gọi là “ông vua” đi nữa (nói về vị vua thánh, những lời sấm phần lớn gọi ông ta là vua thánh, chúng ta chỉ nên hiểu là “một vị lănh đạo chân chính và có thực tài” chứ đừng nghĩa là sẽ có một người sẽ dấy nghiệp xưng đế như thời cổ xưa).        

 

             Thứ ba: “cuộc Nam Tiến hoàn thành với diện tích đất nước gấp hai đất cũ, với sự sát nhập các sắc dân với văn hóa đa diện, không thể không chấp nhận t́nh trạng phân hóa địa phương. Muốn t́m thế ḥa b́nh nội bộ lâu dài, phải áp dụng câu kinh tuyệt tác của Bụt : “ Cách chăn giữ đàn ḅ hay nhất là thả chúng trên cánh đồng mênh mông “. Nói khác đi, phải địa phương tự trị phân quyền, phải dựa trên địa lư thiên nhiên vàvăn hóa khu vực để chia làm các Châu, Bộ với hệ thống quản trị dân chủ. Từ Nam Sông Mă vào đến Hoành Sơn , Thừa Thiên, không thể gạt bỏ văn hóa Chàm, càng vào phía Nam, càng không thể phủ nhận vết tích lâu bền của Phù Nam, Chân Lạp với Tiểu Thừa và Ấn Độ Giáo kết hợp. Người Việt phát xuất từ Bắc bộ, quanh châu thổ sông Hồng sẽ chuyển hóa theo những yếu tố văn hóa xă hội mới- khoảng 300 năm- đang đi vào chu tŕnh tổng hợp ṇi giống.  Có thế th́ các long mạch kết phát ở địa phương nào cũng mang lại quả tốt cho toàn quốc, bằng không th́ mạch phát ở Đông có thể làm hại cho Tây, huyệt kết ở Bắc e gây họa cho Nam.”  Trích VSSL.  Đúng vậy!  Ba miền, ba nền văn hóa lớn, những bản sắc khác nhau, những nếp sinh hoạt khác nhau, có những nhu cầu khác nhau theo địa lư và văn hoá xă hội từng vùng, đó là chưa nói tới những sắc tộc thiểu số, và đó là chỉ mới nói về đất nước Việt Nam chứ chưa nói tới những quốc gia khác nằm trong cộng đồng liên bang.  Chỉ có một liên bang  nhân bản và dân chủ mới có thể đáp ứng nổi sự đa dạng này.  

             Thứ tư: “Sấm Trạng Tŕnh đầu tiên chắc được giữ kín đáo trong một nhóm môn đệ thân cận như Phùng Khắc Khoan, Trương Thời Cử, Nguyễn Dữ với số môn đệ đào tạo trong hơn 50 năm, lên tới 3000 người, thơ văn sấm kư của ông thầy hẳn đă được sao chép hoặc ít ra cũng được truyền khẩu, chưa kể cả vua, quan và quần chúng đều đă biết rất nhiều về tài tiên tri của Trạng. Tập Sấm đă đi vào mọi giới và mọi nơi, kể cả vào Thuận Quảng với nhóm di dân mang theo cẩm nang ‘Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân’ và có thể có cả người của Trạng Tŕnh gửi theo lớp viễn chinh ấy.  Có thể đặt giả thuyết là Trạng Tŕnh chỉ bốc quẻ, giảng truyền cho môn đệ chứ không viết xuống thành tập.  Bài Sấm giảng cho Trương Thời Cử kể trên là một thí dụ điển h́nh.  Sau đó các cao đồ mới sao chép lại thành tập, đặt ra thành lời thơ năm, sáu chữ rồi lưu truyền. . .  Sấm c̣n truyền tới ngày nay là lời Sấm truyền khẩu hoặc sao chép từ giới sĩ tử học tṛ Trạng Tŕnh, tới thế kỷ 18-19 có nhà nho viết xuống thành tập, thành bài không nhất định, rồi lại dùng thơ lục bát để diễn ư.  Bên cạnh những câu “ chính truyền “, c̣n có các câu sấm “ diễn nghĩa “, rồi tất nhiên xen những câu giả mạo với dụng ư tuyên truyền nhất là vào thế kỷ XX hiện tại. . . Điều chắc chắn là Sấm Trạng Tŕnh đă có ảnh hưởng sâu rộng trong giới tranh bá đồ vương ngay từ thời thế kỷ XVII. Năm 1671, có đảng Bạch Sỉ được thành lập để pḥ Lê diệt Trịnh, tên Bạch Sỉ lấy từ Sấm Trạng Tŕnh,chỉ danh bậc đại nhân sẽ xuất hiện.  Đời Gia Long, đầu thế kỷ XIX, Lê Duy Hoán khởi nghĩa ở Thanh Hóa, làm lá cờ thêu chữ ‘Phá Điền’, lấy từ câu ‘Phá điền Thiên tử giáng trần’ của Sấm Trạng Tŕnh, Lê Duy Hoán tuổi Thân, phá điền chiết tự có thể thành chữ Thân. Thời đầu thế kỷ XX, có nhóm thần Tản Viên ở miền Bắc Việt.  Trong suốt bao mấy trăm năm kể từ khi Sấm Trạng có mặt cho đến nay ‘quần gian đạo danh tự’ cũng đă nhiều.”  Trích VSSL.   Với một thời gian dài và dưới những điều kiện như vậy không ai có thể khẳng định đâu là sấm giả và đâu là sấm thật và cũng không ai có thể khẳng định được lời giải nào đúng và lời giải nào sai.   Tuy nhiên không v́ vậy mà chúng ta gạt bỏ tất cả những ǵ đă được lưu truyền cho tới nay và cũng không v́ vậy mà chúng ta vội kết luận những lời tiên tri hoặc những lời giải mă là “bá láp” không có luận cứ khoa học.  Theo thiển ư cá nhân tôi, sấm Trạng Tŕnh có giá trị của nó.  Đúng như ông Lưu Văn Vịnh đă nói, muốn hiểu được sấm của Trạng Tŕnh không phải dễ.  Phải “kiến được cái huyền” th́ mới hiểu nổi diệu cơ ẩn tàng.  Vị đạo sư để lại tập Giải Mă Sấm Trạng Tŕnh cũng có nói như thế, nhưng nói một cách khác là “nhờ sự trợ điển của ơn trên” nên ông đă “giải mă” một phần lớn những câu sấm do Trạng Tŕnh để lại cho đời (và qua hai câu đối trong trang đầu, “ơn trên đó” h́nh như là linh điển của Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm).

 

                đây tôi chỉ khiêm nhường làm công việc “tŕnh bày lại y nguyên văn” tất cả những điều tôi ghi chép được.  Hy vọng là với những khám phá mới sắp được tŕnh bày, quư vị có được thêm một vài manh mối trung thực về chân tướng của vị chân đế mà mọi người chờ đợi và những biến cố liên quan đến vận nước trong tương lai.  Kính chúc quư vị thân tâm thường lạc.   Kính bút.

 

 

 

Đây Là “Thẻ Lệnh” Đặt Dưới Hang Ông Thẻ Trên Thiên Cấm Sơn, Châu Đốc

 

 

Từ Trang Này Về Sau Được Ghi Chép Y Nguyên Văn Của Tập Viết Tay “Giải Mă Sấm Trạng Tŕnh” Đang Phổ Biến Chui Tại VN, Ngoại Trừ Những Chữ Nằm Trong Ngoặc  Vuông [   ]  Là Do Người Soạn Tài Liệu Chú thích Thêm.

 

Chân Đế: Lănh Chỉ Thiên Hoàng Khai Vận Nước

Trạng Tŕnh: Vâng Lời Tam Giáo Giải Huyền Cơ

 

Tặng Người Hữu Duyên

 

Đoạn Thứ Nhất Nói Về Vị Chân Đế

 

474 - Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết

          Ưù nói: 2 _ _5 (chỉ về năm?) nhất định sẽ có đánh nhau và đó là thiên cơ.

 

475 - Đảo Hoàn Sơn tam liệt ngũ phân

             Đảo = ḥn, cù lao = lật ngược = cầu cúng = công kích = che trùm 

             Hoàn Sơn = một địa danh (Hoàn Sơn? Hoành Sơn? Hoàng Liên Sơn?) = núi vây quanh

             Tam = ba

             Liệt = quay, vặn , xé, bẻ = rách = bày  

             Ngũ= năm

             Phân = chia cắt, tách rời = phút

 

             Nghĩa đen: lật ngược Hoàn Sơn đem chia năm xẻ ba.

 

             Hai câu 474-475  nói: một  cuộc thư hùng vũ lực (nỗ ra ngoài biển Đông?  Tại biên giới Việt-Hoa? hay tại ranh giới Bắc-Trung?) với nhiềulực lượng tham dự.  

 

476 - Tha hồ vô phụ vô quân

             Nghĩa đen: Tha hồ không cha không chúa.  

             Ư nói: một cảnh tượng vô cùng hổn loạn

 

477 - Đào viên tán lạc ngô dân thủ thành

             Đào Viên: điển tích của 3 anh em Lưu Bị, Quan Công và Trương Phi.  Ông Quan Công làm mất Kinh Châu, một thành tŕ nhà Hán mượn của Đông Ngô. 

 

             Ư nói: chính quyền bỏ chạy chỉ c̣n dân lo việc chống đở.

 

478 - Đoài phương phước điạ giáng linh

             Phương Đoài = hướng Tây = kim tinh = bạch hổ = màu trắng (cung đoài hậu thiên bát quái). 

             Phước Địa = vùng đất được Trời ban ân sủng

             Giáng = ngự xuống, nhập xuống, đưa xuống

             Linh = linh hiển (tinh anh của khí âm đúc kết gọi là linh và của khí dương gọi là thần) hoặc chơn linh hay linh căn 

 

             Nghĩa đen: phương Tây đất phước đón linh căn   

             Ư nói: bên phía Tây của Việt Nam (tức bên Campuchia) là vùng đất được trời ban ân sủng. Linh căn sẽ xuống và tụ ở đó với sứ mạng giúp vạn dân bá tánh.  Vùng đất thu hút tinh anh. 

 

479 - Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân

             Cửu trùng = nhà vua = trên cao

             Thụy = thụy tường =  điềm lành

             Ứng = báo = cho thấy = hiện ra

             Long = rồng, vua  = thịnh, hậu, đầy ùn lên = họp lại, tụ lại

             Thành ngũ vân = biến năm sắc mây

 

             Nghĩa đen: trên cao năm sắc mây hiện điềm lành

 

 

Khi một vị chân đế ở nơi nào th́ nơi đó có mây ngũ sắc che chở trên đầu và những thầy giỏi về thiên văn sẽ nh́n thấy.  Lúc hỏi về ư nghĩa của câu 479 có một vị đại tiên đă phóng điển giải thích như thế này: “ngũ vân thường thục đa thanh bạch, chân đế thiện mây toạ hư không.”  

 

             Hai câu 478-479 nói: có một vị chân đế sẽ ở nơi vùng đất được trời ban phước, nằm ở phía Tây của đất Việt Nam (tức đất Camphuchia bây giờ và thuộc vào lănh thổ Nam Bang sau này).

 

480 - Phá điền thiên tử giáng trần

             Điền = ruộng = trống lớn = đi săn

 

             Nghĩa đen: Phá bỏ ruộng ông vua xuống thế

             Ư nói: phá chữ Điền th́ chữ Vương sẽ hiện ra

             Chiết tự: là chữ  Quốc

              

             Chữ Quốc có hai cách viết.  Thông dụng nhất là chữ Quốc    giống như tên nước Trung Quốc.  Chữ Quốc thứ hai  là chữ vương (vua hay thiên tử) nằm bên trong bốn bức tường.

                        

             Mạc Đỉnh Chi đi sứ sang Tàu đă từng dùng câu “Tù, nhân xuất, Vương lai thành Quốc”               để đối với câu “An, nữ khứ, thỉ nhập vi Gia” của triều thần nước Tàu.

            

             Chữ Tùgồm chữ Nhânnằm bên trong 4 bức tường giam             

 

             “Tù: Nhân xuất Vương lai thành Quốc” tức là từ chữ Tù  bỏ đi chữ Nhân th́ c̣n lại  chữ Điền (thiếu nét) rồi đặt vào chữ  Vương th́ thành chữ Quốc

             Chữ điền viết như thế này: . Nhưng đ ôi khi trong lối chiết tự người ta dùng 4 bức tường chung quanh không có gạch thập bên trong  mà vẫn nói là chữ Điền. 

            

             Do đó  câu sấm nói “phá điền thiên tử giángtrần” hay là nói “phá điền thiên tử xuất” tức là nói phá bỏ 4 khung tường  th́ chữ  Vương  (thiên tử)  sẽ hiển lộ.  Đây là lối chiết tự để nói về chữ Quốc.  V́ từ chữ Quốcphá đi 4 bức tường (chử Điền thiếu nét) th́ chữ  Vương sẽ lộ ra.               .

 

             Về mặt huyền cơ, câu 480  có ư tiết lộ danh tánh của vị chân đế và trong tên họ của ông ta có chữ  Quốc. 

            

             Tóm lại 3 câu 478, 479, 480 cho biết là: phiá Tây của nước Việt Nam (tức bên Campuchia) là đất linh địa trời ban cho , sau này sẽ có một vị chân đế về trú nơi đó và vị chân đế mang  chữ Quốc  sẽ xuất lộ từ đất đó.

 

481 - Dũng khí nhược hải mưu thần nhược lâm

             Dũng = gan dạ, mạnh bạo

Nhược = như, giống, tự nhiên, bằng, kịp, thuận =  yếu, suy

             Hải = biển

             Mưu = tính toán, làm kế hoạch

             Thần = người dưới quyền = không ai lường biết được = cái môi

             Lâm = rừng

 

             Nghĩa đen: khí mạnh bạo như biển, mưu khó  thấy như rừng

             Ư nói: hùng khí của vị chân đế đó mạnh mẽ như là biển lớn.  Mưu trí của vị chân đế đó thâm sâu như là rừng dầy  (v́ ông ta là chơn linh lănh lệnh thiên đ́nh xuống thế giúp vạn dân bá tánh  cho nên được sự pḥ trợ của long thần, thiên binh thiên tướng nên khó có ai b́ được).

 

482 - Trần công năi thị phúc tâm

             Trần = họ Trần

             Công = quan

             Thị = coi nhau, đăi nhau

             Phúc tâm = tấm ḷng, hết ḷng

 

             Nghĩa đen: ông quan họ Trần là người đối đăi hết ḷng

             Ư nói:  vị chân đế có một người hợp tác tâm phúc họ Trần. 

 

483 - Giang hồ tử sỉ đào tiềm xuất du

             Tử = con, gă = sắc tím = gánh vác = chết

             Sĩ = học tṛ = quan = đợi; hoặc

             Sỉ = bị cách chức, bị lột mất phẩm phục = xấu hổ

             Xuất = ra ngoài, sinh ra, hiện ra, bỏ

             Du = vụt, thoáng, chốn, nơi = xa, lo lắng = ngắm xem = mưu kế

Đào Tiềm = nhân vật tên Uyên Minh, tự Nguyên Lượng đất Sài Tang, vào đời Tấn, tính t́nh cao thượng, không cần danh lợi, ham học, giỏi thi văn.  Ông làm huyện lệnh Bàng Trạch được 80 ngày th́ từ quan v́ không chịu c̣ng lưng ṿng tay với bọn tiểu nhân.  Sau đó về quê  sống cuộc đời an bần lạc đạo. [Hoặc: đào tiềm xuất du = trốn chạy ra hải ngoại].

            

             Nghĩa đen: gă bị lột mất phẩm phục giống như Đào Tiềm sống cuộc đời giang hồ hải ngoại

            

Ư nói:  người họ Trần tâm phúc của vị chân đế trước đây đă từng làm quan trong một chính quyền nhưng là vị quan với chức vụ rất thấp, không tên tuổi, và chỉ làm quan một thời gian rất ngắn  (theo điển tích của  ông Đào Tiềm) v́ bị lột áo (học tập cải tạo?).   Sau đó ông họ Trần này đi ra hải ngoại (ứng với hai chữ “xuất du”).

.

484 - Tướng thần hệ xuất y chu

             Tướng thần = tướng quốc ngày xưa, vai tṛ thủ tướng ngày nay

             Y = Y Doăn, người có công giúp vua Thành Thang đánh Kiệt diệt Hạ dựng nhà Thươngï,  người tự xem ḿnh có trách nhiệm lo cho bá tánh

             Chu = Chu Công, em Chu Vũ Vương, thay cháu là Chu Thành Vương nhiếp chính lúc vua c̣n bé.  V́ lời dèm pha Chu Công dời chổ ở lánh sang Đông Đô để vua được an ḷng.  Sau vua biết được tấm ḷng trong sạch v́ dân v́ nước v́ vua của ông nên hối hận rồi rướt Chu Công về để  cùng lo việc nước.

 

             Nghĩa đen: tướng quốc thuộc loại Y Doăn, Chu Công

            

Ư nói: cầm đầu nội các là người có tài năng, đức độ và quyết tâm gánh vác trách nhiệm

 

485 - Thứ ky phục kiến Đường, Ngu thi hành

             Thứ = đến = trách = châm, tiêm, chích

             Ky = cơ          

             Phục = trở lại

             Kiến = trông thấy

             Đường, Ngu = nhà Đường và nhà Ngu, hai triều đại được người đời ca tụng

             Thi hành = thực hiện    

 

             Nghĩa đen: đến cơ trông thấy thực hiện trở lại thời Đường, Ngu

             Ư nói =  đến lúc đi vào chu kỳ đại hồng vận của một đất nước, mở ra một triều đại thịnh trị

            

             Hai câu 484 & 485 nói: người họ Trần này sẽ lănh trọng trách cầm đầu nội các thực thi chính     sách tốt đẹp mang lại an lạc cho dân.   

 

486 - Hiệu xưng thiên hạ thái b́nh   

             Ư nói: vị chân đế cùng những người phụ tá sẽ vạch ra một lộ đồ chính trị  và khi họ công bố quyết tâm lănh đạo đất nước (ứng với “hiệu  xưng”) th́ lộ đồ của họ sẽ dẫn tới hoà b́nh, phồn thịnh và an lạc cho tất cả bá tánh (ứng với “thiên hạ thái b́nh”). 

 

487 - Đông tây vô, xứ Nam thành Quốc Gia

             Ư nói: những quốc gia khác sẽ công nhận việc làm của họ và đồng ư giúp.  Một quốc gia mới sẽ h́nh thành (ứng với “xứ Nam” và “thành quốc gia”) với sự công nhận của Liên Hiệp Quốc (ứng với “Đông, Tây vô”). 

 

            

             Tổng Lược Đoạn Thứ Nhất:

             Câu 474 cho tới câu 477 cho biết bối cảnh của đất nước khi vị chân đế xuất lộ.  Vị chân đế sẽ xuất lộ vào lúc có chiến loạn lớn.

            

             Câu 478 cho tới câu 481 cho biết về nơi chốn xuất lộ, danh tánh và trí tuệ của vị chân đế.  Chân đế sẽ xuất lộ trên vùng đất phía Tây của VN.  Vị chân đế có danh tánh dính tới chữ Quốc (hoặc họ, hoặc tên, hoặc chữ lót).

            

             Câu 482 cho tới câu 485 cho biết danh tánh, xuất thân, đức tin và chính sách của nhân vật phụ tá cho vị chân đế.  Một người họ Trần sẽ là vị phụ tá tâm phúc của chân đế.  Vị phụ tá này có ḷng  yêu thương bá tánh và sẽ thực thi những chính sách thể hiện cao độ tính chất nhân bản.

            

             Câu 486 và 487 cho biết bối cảnh thành tựu  sự nghiệp của vị chân đế.  Một đất nước mới sẽ được h́nh thành với sự công nhận của Liên Hiệp Quốc.  Có lẽ là một liên bang của vùng Đông Nam Á Châu được h́nh thành dưới sự khởi xướng của vị chân đế.

 

             Đây là những câu sấm cuối cùng của gần 500 câu trong tập sấm kư của Trạng Tŕnh do đó vô cùng quan trọng.  Chúng hé cho thấy hoàn cảnh xuất lộ và tên/họ của cấp lănh đạo cao nhất, tài năng của họ, và khuynh hướng của những chính sách sẽ được áp dụng trong tương lai.

 

 

 

Quay trở về đầu Xem vannuoc_77's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vannuoc_77
 
vannuoc_77
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 20 December 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 9
Msg 209 of 585: Đă gửi: 21 December 2006 lúc 8:46pm | Đă lưu IP Trích dẫn vannuoc_77

Đoạn Thứ Hai Nói Về Vị Chân Đế

 

115 - Nói cho hay khảm cung rồng dấy

116 - Chí anh hùng xem lấy mới ngoan

             Khảm cung = phương Bắc = thủy = màu đen (phương vị theo hậu thiên bát quái)

             Rồng dấy = chỉ thiên tai sụp lỡ đất đai (cù dậy), rồng chỉ về là núi dài hoặc sông dài = chỉ về binh họa do Tàu Cộng gây ra (con rồng Trung Quốc dấy binh) = chỉ về sự thành h́nh hoặc thành tựu của một triều đại (long thăng).       


             Ư nói: Bắc phương h́nh thành một triều đại.  Người có chí anh hùng chỉ “nh́n” nó thôi (ứng với “xem lấy”) chứ đừng tham dự (ứng với “mới ngoan”) v́ đó là triều đại của bá quyền (dùng sức mạnh mà đoạt)


117 - Chữ rằng lục thất nguyệt gian

118 - Ai mà nghĩ được mới gan anh tài

             Lục = 6

             Thất = 7

             Nguyệt = tháng

             Gian = thời gian. 

            

             Nghĩa đen: mốc thời gian tháng 6, 7 là một ch́a khoá huyền cơ,  ai mà giải mă được mới tài. 

 

             Huyền cơ: tháng 6 AL của năm Giáp Ngọ tức tháng 7 DL năm 1954. 

 

             Ngày 2 tháng 9 năm 1945 Nhật đầu hàng đồng minh và HCM đọc Tuyên Ngôn Độc Lập.  Nhưng dữ kiện này không phải là riêng cho miền Bắc mà là của cả nước Việt Nam, không phải là công của miền Bắc mà là công của cả nước VN.   Từ sau đó cho  đến năm 1954 là một chuổi dài đấu tranh chống Pháp của toàn dân.  Đến ngày 7 tháng 5 năm 1954, Pháp thua trận Điện Biên Phủ đưa đến hội nghị Giơ Neo (Geneva).  Ngày 21 tháng 7 năm 1954 th́ đất nước bị chia đôi.  Chính ngày này mới là ngày đánh dấu HCM và ĐCSVN thành tựu bá  nghiệp (ứng với “khảm cung rồng dấy”), ngày Bắc Việt thực sự biến thành một đất nước riêng (Bắc Việt).  

 

             Thông thường mỗi tháng trong năm đều dính tới ba con số chỉ về tháng.  Nhưng trong năm 1954 th́ chỉ có hai con số chỉ về tháng.  Riêng tháng 7 DL năm 1954, hai con số đó là con số 6 và con số 7 (ứng với “lục thất nguyệt gian”). 

 

             Sự tương quan giữa âm lịch và dương lịch thường th́ sẽ dính tới  ba con số liên tiếp chỉ về tháng trong thời gian từ đầu tháng tới cuối tháng, của bất cứ tháng nào dầu lấy trọn tháng dương lịch hay tháng âm lịch.   Ví dụ như  lấy trọn tháng 7 năm 1955 làm điển h́nh th́ sẽ thấy tháng này dính tới ba con số chỉ về tháng là 5, 6 và 7.  Ba con số đó liên hệ như sau:

 

            - Đầu tháng, ngày 1 tháng 7 năm 1955, tương ứng với ngày 12 tháng 5 năm  Ất Mùi AL.  Cuối tháng, ngày 30 tháng 7 năm 1955, tương ứng với ngày 12 tháng 6 năm Ất Mùi AL.

 

             Một thí dụ khác, lấy trọn tháng 7 của năm 1953 th́ sẽ thấy tháng này dính tới ba con số chỉ về tháng là 5, 6 và 7.  Ba con số đó liên hệ như sau:

 

- Đầu tháng, ngày 1 tháng 7 năm 1953, tương ứng với ngày 21 tháng 5 năm Quí Tỵ AL.  Cuối tháng, ngày 30 tháng 7 năm 1953 tương ứng với ngày 20 tháng 6 năm Quí Tỵ

 

             Duy chỉ có tháng 7 năm 1954 là khác lạ.  Nó chỉ dính tới hai con số chỉ về tháng là số 6 và 7.  Liên hệ của hai con số này như sau: 

 

             - Đầu tháng, ngày 1 tháng 7 năm 1954, tương ứng với ngày 2 tháng 6 năm Giáp Ngọ AL. Cuối tháng, ngày 30 tháng 7 năm năm 1954, tương ứng với ngày 1 tháng 7 năm Giáp Ngọ.

              

             Xét thêm tháng 7 dương lịch trong nhiều năm từ 1950 cho tới 1964, trong suốt 15 năm chỉ có ba lần đúng với hiện tượng này là năm 1954, 1957 và 1960.   Điều này cho thấy sự trùng hợp cũng khá hiếm.    Đó là lư do tại sao Sấm chỉ nói “lục thất nguyệt gian” (thời gian tháng 6, 7)  để nói về tháng sinh của chân đế, tức là chỉ dính tới hai con số chứ không phải 3 con số như thường thấy.  

 

             Thêm vào đó những biến cố lịch sữ được nói đến trong sấm như là: (1)  phương Bắc hoàn thành bá nghiệp (ứng với “khảm cung rồng dấy”); (2) làn sóng người bỏ miền Bắc di cư vào Nam (ứng với “dời đất cũ”); (3) miền Bắc ruộng đất bị bị trưng thu đưa vào của công (ứng với “nhất thổ”);  (4) miền Bắc giới trí thức không c̣n đất đứng (ứng với “thời sĩ”).  Tất cả những hiện tượng này cùng xăy ra trong một thời điểm lịch sử là điều không thể nhầm lẫn. Chúng giúp xác định mốc thời gian đó phải là trong năm 1954.  Kết hợp những ch́a khoá tháng và ch́a khoá năm, chúng ta phải thừa nhận có lẽ trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc chỉ có tháng 7 năm 1954 tức tháng 6 năm Giáp Ngọ mới có sự trùng hợp với những lời tiên tri tới mức độ hoàn hảo đến như vậy.  Xác suất để có sự trùng hợp khác gây ra ngộ nhận sẽ rất nhỏ (gần với số không).  Thiên cơ tuyệt diệu! 

 

[Trong sấm có câu “Nam Việt hữu ngưu tinh” (câu 434).  Căn cứ theo cách an mệnh tinh (có tất cả 28 v́ sao) trong suốt 60 năm vận trung nguyên 1924-1983 th́ “ngưu tinh” chỉ an vào mệnh của những người sinh năm 1926,1954 và 1982.   Như vậy là bên cạnh những bằng chứng vừa tŕnh bày chúng ta c̣n có thêm bằng chứng “hữu ngưu tinh” trỏ vào năm Giáp Ngọ 1954].       


119 - Hể nhân kiến đă dời đất cũ 

             Hể = khi mà

             Nhân = người

             Kiến = nh́n thấy

             Đă dời đất cũ = rời đất cũ = bỏ đi nơi khác

 

             Nghĩa đen: khi mà nh́n thấy người ta bỏ đi

             Ư nói: khi nào thấy một cuộc di dân lớn. 

 

             Trong đời sống của con người di dời chổ ở là một chuyện thường.  Nó chỉ trở thành bất thường đến độ đáng nói trong một bài sấm tiên tri cho 500 năm sau th́  chuyện di dời chổ ở phải là một hiện tượng làm nên lịch sữ.  Câu 119 này chỉ vào cuộc di dân lịch sữ vào năm 1954 khi miền Bắc thành tựu bá nghiệp.    

 

120 - Th́ phụ nguyên mới trổ sinh ra

             Phụ = cha

             Nguyên = cái đầu, nguyên thủ

             Phụ Nguyên = cha chúa, người lănh đạo, chân đế

             Mới trổ sinh ra = mới sinh ra đời

 

             Nghĩa đen: th́ vị cha-chúa mới sinh ra đời

             Hai câu 119 và 120 có ư nói:  khi có cuộc di cư th́ lúc đó vị chân đế sinh ra đời.

 

             Có người cho hai chữ Phụ Nguyên là chiết tự của chữ Nguyễn.   ChữPhụ(cũng là chữ A) hợp với chữ Nguyên thành  chữ Nguyễn .   Tuy nhiên ở đây hai chữ phụ nguyên chỉ đơn giản là “người lănh đạo” (chân đế).                    

 

             Nh́n lại ư nghĩa câu 115 “khảm cung rồng dấy” cộng với ư nghĩa câu 116 “chí anh hung xem lấy mới ngoan” cộng với ư nghĩa câu 119 “hể nhân kiến đă dời đất cũ” th́ sự việc hiện ra rất rơ; đó là, tất cả đều liên hệ tới năm 1954.   Ư nghĩa toàn diện là: khi nào thấy miền Bắc thành được bá nghiệp và nh́n thấy một cuộc di dân lớn th́ chính đó là mốc thời gian.   Thêm vào câu 117 “chữ rằng lục thất nguyệt gian” (tháng 6, 7 chứ không phải từ tháng 6 tới tháng 7) và câu 120 “th́ phụ nguyên mới trổ sinh ra” cho thấy sự việc càng rơ hơn.  Đó là, vị chân đế sẽ ra đời trong tháng 7 dương lịch năm 1954 tức là tháng 6 âm lịch năm Giáp Ngọ.    

 

121 - Bốn phương chẳng động can qua

             Ư nghĩa: bốn phương sẽ thôi tranh chấp nhau

 

122 - Quần hùng các xứ đều ḥa làm tôi

             Quần hùng các xứ = những nhân vật lănh đạo của các quốc gia

             Đều = cùng nhau

             Hoà = đồng ư chấp nhận

             Làm tôi = chịu đặt dưới sự lănh đạo của vị chân đế       

 

             Ư nghĩa: những nhân vật lănh đạo của các nước trong vùng sẽ chấp nhận sự lănh đạo của vị chân đế

 

123 -    Bấy giờ mỡ rộng qui khôi

             Ư nghĩa: lúc đó lănh thổ sẽ mở rộng và các quốc gia gộp về một mối

            

124 - Thần châu thu cả mọi nơi vẹn toàn.

             Ư nghĩa: thực lực lănh đạo sẽ gom được các quốc gia này lại với nhau một cách tốt đẹp.           

 

             Câu 121 cho tới 124 có ư nói: theo sau sự ra đời của vị chân đế là một giai đoạn an b́nh thịnh trị (dĩ nhiên là phải đợi cho đến lúc ông ta trở thành người lănh đạo th́ mới mong tạo lập được hoà b́nh cho bá tánh).   Khi vị chân đế xuất lộ th́ sẽ đưa ra một giải pháp để gom các quốc gia lại thành       một quần thể lớn mạnh và tất cả quốc gia đều vui ḷng chấp nhận.  Với những chữ “mở rộng và qui khôi” cho thấy có lẽ giải pháp đó là h́nh thành một liên bang cho vùng ĐNAC.

 

125 - Lại nói xứ hoàng giang sinh thánh

             Hoàng = vua

             Giang = sông

             Hoàng Giang = là tên một con sông vùng Gia Miêu tỉnh Thanh Hoá, nhưng ở đây “hoàng giang” chỉ có nghĩa là con “sông vua” tức sông Mêkông

             Sinh =  phát sinh, xuất lộ

 

             Nghĩa đen: lại nói về vùng đất hoàng giang, nơi sẽ xuất lộ một vị Thánh đế.

 

             Ư nói: nơi vùng đất vị chân đế sẽ xuất lộ tại đó có một con sông lớn chảy qua, con sông vua (hoàng giang), con sông mà những sông khác đều phải chầu về (chảy vào).  Đó là lư do ở một vài nơi khác trong cuốn sấm c̣n gọi là bảo giang (con sông quư).  Khẳng định không phải là tên riêng của một con sông (tại vùng Gia Miêu tỉnh Thanh Hóa).  Với ư nghĩa “song vua” và “sông quư” th́ chắc chắn câu 125 chỉ về sông Mekong.

 

126 - Hoàng phúc xưa đă định tây phong

             Hoàng Phúc = là tên một tướng Tàu giỏi phong thủy, giữ chức Bố Chính và Án Sát coi việc cai trị Đại Việt dưới thời Minh.  Nhưng “hoàng phúc” ở đây có ư nói là “phúc vận đế vương”

             Phong = sắc phong, ban cho = bờ cỏi

             Tây = phương Tây

             Xưa đă định =  đă sắc tứ cho phương Tây từ lâu

 

             Ư nghĩa: phúc vận đế vương trời ban cho phía Tây từ lâu  

 

             Hai câu gộp lại có ư nghĩa: lại nói về vùng đất mà vị chân đế sẽ xuất lộ là một vùng đất được phúc vận đế vương (ứng với “hoàng phúc”) do Thiên Đ́nh ban cho từ lâu, vùng đất đó nằm ở hướng Tây của VN (trên đất Campuchia).  Trên vùng đất đó có con sông vua quư hiếm chảy qua (sông MeKong).  Đây là vùng “đất hứa”, vùng đất hoàng phúc đại địa, vùng đất thủ phủ dành riêng cho một liên bang của ĐNA sau này (Nam Bang).

 

127 - Làu làu thế giới sáng trong

             Ư nói: có  nhân sinh quan trong sáng

 

128 - Lồ lộ mặt rồng đầu có chữ Vương.

             Ư nói: có cốt cách lănh đạo

 

129 - Rơ sinh tài lạ khác thường

130 - Thuấn Nghiêu là chí, Cao Quang là tài

             Ư nói: có tài năng an bang tế thế (như Cao Quang) kết hợp với hoài bảo lớn (xây
             đời thịnh trị như vua Thuấn vua Nghiêu).

            

             Câu 127 cho tới  câu 130 có ư nói: một con người đáng gọi là thánh nhân.

 

131 - Xem ư trời có ḷng đăi thánh

132 - Đốc sinh hiền điều đỉnh hộ mai

133 - Chọn đầu thai những v́ sao cả

 

             Ba câu trên có ư nói: xem ra Thiên Đ́nh cũng có ḷng đăi ngộ vị thánh nhân này cho nên chọn những tinh quân lớn cho xuống trần đầu thai để mai sau giúp việc cho chân đế.

 

134 - Dùng ở tay phụ tá vương gia

135 - Bắc phương chính khí sinh ra

136 - Có ông bạch sĩ điều ḥa hôm mai

             Bạch Sĩ = chỉ về thần núi Tản Viên (Tản Viên Sơn Thánh) linh hiển của miền Bắc. Cũng có thể chỉ về một người hàn sĩ gốc miền Bắc.

 

             Ư nghĩa của 3 câu này là: trong số những vị phụ tá cho chân đế sẽ có một vị là kỳ tài do kết tụ của linh khí Bắc phương (có thể là mồ mă cha mẹ hay ông bà chôn ở đất Bắc chứ không nhất thiết là người sinh ra ở miền Bắc Việt Nam) và vị này có thể là một hoá thân của thần Tản Viên [Sơn Thánh].  

            

137 - Song thiên nhật rạng sáng soi 

138 - Thánh nhân chẳng biết th́ coi cho tường        

             Song thiên = thiên thiên = ngày ngày     

            nhật rạng sáng soi = mặt trời chiếu sáng. 

 

             Ư nghĩa: ngày ngày mặt trời toả sáng, không biết thánh nhân th́ hăy xem cho rơ.

 

139 - Đời này thánh kế vị vương

             Ư nghĩa: đời này thánh xuống thế gian để đảm trách vai tṛ lănh đạo

 

140 - Đủ no đạo đức văn chương trong ḿnh

             Ư nghĩa: bản thân của vị chân đế này có đầy đủ đạo đức (có ḷng lo cho dân cho nước), đầy đủ kiến thức và học vị (bằng cấp cao)

 

141 - Uy nghi trạng mạo khác h́nh

             Ư nghĩa: có một dáng dấp dễ thu hút quần chúng (ngoại h́nh đẹp)

 

142 - Thác cư một góc Kim tinh phương đoài

             Phương Đoài = hướng tây = kim tinh = bạch hổ = màu trắng

             Thác = nhờ, gởi h́nh tích

             Cư = ở, chiếm = nương cậy, chống giữ

 

             Nghĩa đen: tạm cư ở một góc hướng tây 

             Ư nói: tạm trú thân trên vùng đất hứa nằm ở phía tây của Việt Nam bây giờ, có hoàng giang Mêkông chảy qua (tức là trên đất Cao Miên, vùng đất hoàng phúc đại địa  dành cho hồng vận của Nam Bang kéo dài 500 năm)

            

143 - Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi

             cùng nhau = chân đế và vị phụ tá của chân đế

             khuya sớm dưỡng nuôi = ngày ngày ung đúc đạo đức và chí lớn chờ thời;

 

             Ư nghĩa: họ siêng năng tu tâm dưỡng tánh nuôi chí chờ ngày xuất lộ.  

 

144 - Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân  

             Cơ = huyền cơ; không phải là thời cơ

 

             Ư nói: chờ đúng năm, tháng, ngày, giờ theo lệnh của Thiên Đ́nh th́ mới xuất lộ để giúp bá tánh

 

145 - Binh thơ mấy quyển kinh luân

             Ư nghĩa: có nhiều kiến thức về sách lược trị nước an dân

 

146 - Thiên văn địa lư nhân luân càng mầu

Thiên văn địa lư nhân luân = biết rơ thiên thời địa lợi nhân ḥa

             Mầu = mầu nhiệm, hay ho

 

             Ư nói: có năng lực tâm linh nên thông hiểu thiên cơ, am tường địa lư, giỏi việc dùng người

            

147 - Ở đâu anh hùng hẳn biết

148 - Xem sắc mây đă biết thành long

149 - Thánh nhân cư có thụy cung

             Cư = ở, trú ngụ

             Thụy = thụy tường = điềm lành

             Cung = bày ra

 

             Ư nói: thánh nhân ở chổ nào th́ chư vị anh hùng đă biết rồi (như đă tiết lộ); là chổ có mây lành bày ra, nếu biết nh́n thiên tượng th́ cứ theo đó mà đi t́m.

 

150 - Quân thần đă định ǵn ḷng chớ tham

             Ư nghĩa: người nào là nguyên thủ, người nào là phụ tá đă được Thiên Đ́nh sắp xếp cả rồi, muốn cũng không được mà không muốn cũng không được, đừng có vọng động cưởng cầu.

 

151 - Lại dặn đấng tú nam chí cả

152 - Chớ vội vàn tất tả chạy rong

             Ư nghĩa: các vị anh tài nuôi chí lớn đừng có sợ mất cơ hội mà hối hả chạy t́m lăng xăng.

 

153 - Học cho biết lư kiết hung

             Ư nghĩa: hảy ráng lo trao dồi cho thông lẽ kiết hung, biết phân tích tường tận và nhận thức được cái ǵ là tốt cái ǵ là xấu trong chính sách an bang tế thế, biết cái nào mang lại an lạc hạnh phúc cho bá tánh cái nào là tàn hại chúng sanh, biết cái nào là giá trị tốt đẹp trường tồn cái nào là mỵ dân giả ngụy.

 

154 - Biết phương hướng hội, chớ dùng làm chi

             Ư nghĩa: để biết phương hướng mà hội ngộ với chân đế.  “Biết phương hướng” ở đây không những có ư nói là biết phương hướng tạm trú của chân đế mà c̣n là biết phương hướng trong sách lược trị quốc an dân của chân đế.  Nói một cách khác, có thể t́m ra ai là vị chân đế nhờ vào “lư kiết hung” ẩn tàng trong sách lược trị quốc an dân được đề xướng để mà cùng nhau hội lại.  Hội ở đây cũng có nghĩa là gặp nhau trong lư tưởng, hổ trợ cho sách lược của vị chân đế đưa ra.  Và có thể đoán không sợ sai nó là một sách lược lớn đặt trên nền tảng nhân bản dân chủ giải quyết được cuộc diện khó khăn cho toàn vùng.

 

155 - Hể trời sinh xuống phải th́      

156 - “Bất kỳ chi ngộ” màng ǵ tưởng trông

             Ư nghĩa: nếu đúng là tinh quân Trời sai xuống thế để nhận sứ mạng phù trợ chân đế giúp cho vạn dân bá tánh th́ sẽ bất ngờ gặp mặt vị chân đế đó trên bước đường dun rủi, khỏi phải mơ tưởng làm ǵ cho mệt

 

 

          Tổng Lược Đoạn Thứ Hai:

             Câu 115 cho tới 120: nói về thời điểm xuống trần gian của vị chân đế.  Lúc đó miền Bắc VN chính thức h́nh thành một triều đại, một cuộc di dân lớn xảy ra cùng năm, rồi vị chân đế sinh ra trong mốc thời gian tháng 7 dương lịch (cũng là tháng 6 âm lịch) cùng năm.  Nói một cách khác là vị chân đế sinh ra trong tháng 7 năm 1954 tức là tháng 6 năm Giáp Ngọ. 

 

             Câu 121 cho tới  câu 124: nói về việc làm của vị chân đế.  Bối cảnh chính trị chuyển hóa tới đoạn kết. Các nước trong vùng sẽ không tranh chấp vũ lực với nhau nữa và gộp lại thành một quần thể liên bang.  Chỉ có h́nh thái liên bang th́ tất cả các nước mới đều mở rộng cùng một lúc (ứng với “mở rộng”) và chỉ có h́nh thái liên bang th́ các nước mới cùng một lúc tuân thủ thực thể lănh đạo (ứng với “qui khôi”) và chỉ có h́nh thái liên bang mới là giải pháp vẹn toàn (ứng với “mọi nơi vẹn toàn” vừa mở rộng vừa qui khôi cùng lúc).

 

             Câu 125  cho tới 126: nói về vùng đất từ đó vị xuất lộ.  Vùng đất hứa đó ở về hướng tây của     nước Việt Nam, có hoàng giang/bảo giang Mêkông chảy ngang qua, là vùng đất thiên định hoàng vận 500 năm, vùng đất dành cho thủ phủ của một liên bang mới sẽ ra đời và Việt Nam sẽ là một tiểu bang trong quần thể đó.

 

             Câu 127 cho tới câu 130: cho biết nhân sinh quan, cốt cách, tài năng, học vị và chí hướng của vị chân đế.

 

             Câu 131 cho tới 138: cho biết những người giúp việc cho vị chân đế đều là những vị thiên tinh giáng thế.  Một vị phụ tá của chân đế có gốc miền Bắc, kết phát từ linh khí đại địa Bắc Việt, và có thể là hoá thân của Tản Viên Sơn Thánh.    

 

             Câu 139 cho tới 149: nói thêm về diện mạo, cốt cách, tài năng, chổ ẩn cư và sự chuẩn bị âm thầm của họ (chờ cho đến năm tháng ngày giờ thiên định để xuất lộ).  

 

             Câu 150 cho tới 156: lời khuyên cho những người mang chí lớn.

 

             Tóm lại: vị chân đế ra đời trong tháng 7 dương lịch năm 1954 tức tháng 6 âm lịch năm Giáp Ngọ.  Bối cảnh trong năm đó là (a) bá quyền phương Bắc thành tựu và (b) một cuộc di dân rất lớn xảy ra.  Rồi về sau vị chân đế sẽ xuất lộ từ một vùng đất nằm về phía Tây của nước Việt Nam, có con sông Mêkông (Cửu Long) chảy qua. Vùng đất đó sau này sẽ là thủ phủ của liên bang mới thành lập. Vị chân đế, người phụ tá tâm phúc và những người giúp việc bên cạnh vị chân đế đều là những vị thiên tinh Trời đưa xuống để giúp bá tánh.     

 

[chú thích của người soạn: kim tinh phương đoài chưa hẳn chỉ về phía Tây của Việt Nam (tức Campuchia) mà có thể là Miền Tây (nam bộ) của nước Việt.] 

 

 

Quay trở về đầu Xem vannuoc_77's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vannuoc_77
 
vannuoc_77
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 20 December 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 9
Msg 210 of 585: Đă gửi: 21 December 2006 lúc 10:02pm | Đă lưu IP Trích dẫn vannuoc_77

Đoạn Thứ Ba Nói Về Vị Chân Đế

 

199 - Phá điền đầu khỉ cuối thu

             Phá Điền = chữ Giáphoặc chữ Thân

 

             Phá điền ở đây khác với phá điền trong câu 480.  Ở đây chữ phá điền  đứng trên đầu chữ khỉ [Thân] cho nên rơ ràng là nó chỉ về Can.  Trong thập thiên can chỉ có chữ Giáp là phá điền. [Trong thập nhị địa chi th́ chữ Thân cũng là phá điền]. 

 

             Ư nghĩa: năm Giáp Thân vào cuối mùa thu (2004?)

 

200 - Tái binh mới động thập tḥ liền sang

             Tái Binh = đă đánh VN trước đây bây giờ đem quân trở lại (chỉ vào Trung Quốc? Pháp? Hoa Kỳ?)

             Thập Tḥ = hành động lén lút, không công khai

 

201 - Lọ chẳng thường trong năm không xiết

202 - Vả lại thêm hung kiệt mất mùa

203 - Lưu tinh hiện trước đôi thu

204 - Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm

205 - Xem thấy những sương sa tuyết lạnh

 

             Ư nói: Những thiên tai do thời tiết giá lạnh sương mù xảy ra vài năm trước khi binh biến xảy đến

 

206 - Loài bất b́nh tranh cạnh hung hăng

207 - Thành câu cá lữa tưng bừng

208 - Kẻ ngàn Đông Hải người rừng Bắc Lâm

209 - Chiến trường chốn chốn cát lầm

210 - Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông

211 - Sang thu chín huyết hồng tứ giả

212 - Noi đàng dê tranh phá đôi nơi

213 - Đua nhau đồ thán quần lê

214 - Bấy giờ thiên hạ không bề tưạ nương

215 - Kẻ th́ phải thủa hung hoang

216 - Kẻ th́ binh hoả chiến trường chết oan

217 - Kẻ th́ mắc thửa hung tàn

218 - Kẻ th́ bận của bổng toan khốn ḿnh

219 - Muông (?) dựng ổ cắn tranh

220 - Điều th́ làm chước xuất binh thủ thành

221 - Bời bời đua mạnh tranh giành

222 - Ra đâu đánh đấy đem binh sớm ngày

223 - Bể thanh cá phải ẩn cây

224 - Đất bằng nổi sấm cát bay mịt mù

225 - Nào ai đă dễ nh́n U (United States?)

226 - Thủy chiến bộ chiến mặc dù đ̣i cơn

227 - Cây bay lá lưả đôi ngàn (hoả tiển?)

228 - Một làng c̣n mấy chim đàn bay ra

229 - Bốn phương cùng có can qua

230 - Làm sao cho biết nơi nào bảo thân

 

             Câu 207 cho tới 230: cho thấy một cuôc chiến loạn lớn gây nhiều thương tổn chết chóc, bá tánh không nơi nương tựa, không biết đi đâu về đâu để tránh nạn đao binh.

 

231 - Đoài phương thực có chân nhân

232 - Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người

233 - T́m cho được chốn được nơi

234 - Thái nguyên một dải lần chơi trú đ́nh

235 - Bốn bề núi đá riễu quanh

236 - Một đường tiểu mạch nương ḿnh dấy an

 

             Câu 231 cho tới 236: chỉ cho mọi người biết là lúc đó tại vùng đất hứa nằm ở hướng Tây của nước Việt Nam, vùng đất hoàng giang sinh thánh,sẽ có một nhóm người là những vị tinh quân xuống thế sẽ giúp cho một vị chân đế dấy nghiệp ở tại đó, và bá tánh hăy t́m tới đó lánh nạn.  Nhóm “quần tiên” này đang tụ tập tại một thái nguyên kín đáo (có lẽ là đang chăn nuôi hay trồng trọt) trong vùng đất hoàng giang sinh thánh và thái nguyên đó chung quanh có núi vây bọc che chở và có một nhánh sông chảy lượn giửa núi đồi.    

 

 

257 - Lại nói xứ hoàng giang sinh thánh

258 -  Sông bảo giang thiên định ai hay

             Hoàng Giang = bảo giang = con sông vua, con sông quư = sông Mêkông, sông Cữu Long

             Xứ hoàng giang = xứ có con sông vua, sông quư chảy qua = xứ có sông Mêkông chảy qua

             Sinh Thánh = phát sinh ra một vị thánh

             Thiên định = trời đă định

 

             Ư nói:  vùng đất ở hướng Tây của nước Việt Nam (Campuchia) có con sông Mêkông chảy qua  sẽ có một vị chân đế xuất lộ và đó là ư trời (ứng với “thiên định”). 

 

“xứ hoàng giang” và “sông bảo giang” đi liền nhau trong hai câu 257 và 258 giúp khẳng định “hoàng giang” là chỉ về con sông Mêkông chứ không phải là tên riêng của con song vùng Gia Miêu, Thanh Hoá.  

 

259 - Lục thất cho biết ngày này

             Ư nghĩa: mốc thời gian “lục thất nguyệt gian” tàng ẩn thiên cơ.

 

260 - Phụ nguyên ấy thực ở rày tào khê

             Ư nghĩa: vị chân đế ấy thực sự trú nơi vùng đất hứa đó

 

261 - Có thầy nhân thập đi về

             Trong 4 chữ  Tản Viên Sơn Thánh th́ chữ Tản chứa năm chữ Nhânvà một chữ Thập .  Như vậy có phải “thầy nhân thập” là chỉ về ngài Tản Viên Sơn Thánh?

 

             Trong chữ Hiệpcũng có 4 chữ Nhânhoặc   và một chữ Thập             

 

             Hiệp là v́ nghĩa cứu người.  Chữ Hiệp gồm chữ người đứng cạnh chữ Giáp

             (kềm cặp, giữ hai bên) hay nói một cách khác Hiệp là người bảo vệ.

 

             Như vậy phải chăng những chữ “thầy nhân thập”  có ư nói về một vị sư tăng/ đạo sĩ/ thầy ḍng/ linh thần có nhiệm vụ bảo vệ chân chúa? 

 

262 - Tả phụ hữu tŕ cây cỏ làm binh

             Ư nghĩa: Vị thần thánh hoặc thần nhân đó đem binh ngũ hành để phù tŕ cho chân đế với quyền phép vô vi của ḿnh

 

             Tóm lại, hai câu 260-261 có ư nói là: vị chân chúa được sự bảo vệ hoặc của thần thánh hoặc của thần nhân.

 

263 -  Dốc hết sức sửa sang vương nghiệp

264 - Giúp vạn dân cho đẹp ḷng trời

265 - Ra tay điều đỉnh hộ mai

266 - Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân

267 - Lọ là phải nhọc kéo quân

268 - Thấy nhân ai chẳng mến nhân t́m về

             Điều đỉnh =  thu xếp, lo cho xong việc ------>>調                      

             Hộ = bảo vệ, che chở, giúp đở --------->>

 

             Câu 263 cho tới câu 268 cho thấy vị chân đế sẽ v́ t́nh thương lớn mà hoàn thành sự nghiệp giúp bá tánh vạn dân.  Và, nhờ vào t́nh thương đó mà vị chân đế được người ủng hộ 

 

327 - Chờ cho động đất chuyển trời

328 - Bấy giờ thánh sẽ nên tay anh hùng

             Ư nghĩa: vị chân đế cùng với những người tài ba (quần tiên) chỉ xuất lộ vào thời điểm “động đất chuyển trời “ (những biến cố rung chuyển ĐNA hoặc làm rúng động thế giới).

 

331 - Đời ấy những quỉ cùng ma

332 - Chẳng c̣n ở thật người ta đâu là

             Ư nghĩa: vào thời chân đế xuất lộ con người băng hoại cùng cực trở thành như ma quỷ

 

333 - Trời cao đất rộng bao xa

334 - Làm sao cho biết cửa nhà đế vương

             Ư nói: khó mà biết chân đế nơi đâu

 

335 - Dù cho ai chửa biết tường

336 - Nhất thổ thời sĩ khảm phương thuở này

             Nhất = cùng chung, cùng như nhau(như trong câu  及其成工一也 cập ḱ thành công nhất dă)

             Thổ = đất đai

             Nhất thổ = cùng chung đất đai

             Thời =  được thời hoặc thất thời

             Sĩ = người có học thức (chữ Sĩ có nghĩa là người biết từ 1 cho tới 10 )

             Sĩ = cách chức, lột áo (học tṛ bị lột mất áo lễ gọi là sĩ cách 褫革 )

             Khảm phương = hướng Bắc

             Thuở này = thời gian này

 

             Ư nói: tuy là vậy nhưng có ba ch́a khóa mật mă cho biết thời gian (ứng với “thuở này”) chân đế ra đời.   Đó là: ruộng đất bị xung vào hợp tác xă (ứng với “nhất thổ “ tức là “cùng chung đất đai”); trí thức bị khai trừ (ứng với “thời sĩ”); và  tại nơi miền Bắc (ứng với khảm phương).

 

337 - Ư ra lục thất gian nay

             Lục thất gian = mốc thời gian 6,7 (ch́a khóa thứ tư: thời gian chân đế sinh ra đời)

 

338 - Thời vận đă định thời nầy hưng vương

             Thời này hưng vương = thời này là thời gầy dựng lại đế chế; hoặc giải một cách khác, thời này là thời của người lănh đạo mang chữ Hưng (ch́a khóa thứ 5)

 

             Giữa hai cách giải thích, đế chế là một điều khó có thể xảy ra dù rằng sấm sử dụng chữ chân đế (chỉ nên hiểu hai chữ  “chân đế” là “một người lănh đạo vĩ đại” thôi chứ không nên đi xa hơn).  Xét lẽ th́ câu 338 có ư nói thời vận này dành cho vị chân đế mang chữ Hưng (tên hoặc họ hoặc chữ lót hoặc hiệu xưng).

 

             Tóm lại, câu 335-338 nói: Trời đă định thời vận chân đế sẽ xuống thế (hồng vận chân đế ra đời lập lại thời thánh đức thịnh trị).  Thời vận đó bắt đầu với những biến cố lớn tại VN, đánh dấu bởi 5 ch́a khoá mật mă, đó là ruộng đất bị trưng thu, trí thức bị khai trừ, những sự kiện tên xảy ra tại miền Bắc Việt Nam, và thời vận này là thời  vận của vị chân đế có danh tánh mang chữ Hưng, sinh    ra đời vào tháng 7 năm 1954 tức tháng 6 năm Giáp Ngọ (mốc thời gian lục thất, xem câu 117 cho tới 120 đă giải mă).  

 

339 - Trí xem nhiệm nhặt cho tường

             Ư nghĩa: hăy dùng trí để suy xét cho thật rơ mà t́m ra ư nghĩa của những ch́a khóa mật mă trên

 

340 - Bảo giang thánh xuất trung ương thuở nầy

             Ư nghĩa: vị chân đế sẽ xuất lộ từ vùng đất có con sông quư chảy (sông Mêkông), đó là vùng đất “trung ương” của liên bang (sẽ biến thành thủ phủ của liên bang), vùng đất trung ương hoàng thổ của đại địa Nam Bang sau này [có thế núi dài Trường Sơn và sông vua  Mêkông làm long hổ tả hữu bảo vệ hai bên sườn, giao hội âm dương linh khí, chở che ba đào của bể Đông như ông Lưu Văn Vịnh đă nói].

 

341 - Vua ngự thạch bàn xa thay

342 - Đại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng

343 - Gà kêu vượn hót vang lừng

344 - Đường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn ḍ

345 - Nhân dân vắng mạt bằng tờ

346 - Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay

347 - Vua c̣n cuốc nguyệt cày mây

348 - Phong điều vũ thuận thú rày an dân

349 - Phong đăng hoa cốc chứa chan

350 - Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây

            Ư nghĩa: vị chân đế ở trên thái nguyên bạt ngàn thưa người để làm ruộng và chăn nuôi. 

 

351 - Chính cung phương khảm vần xoay

352 - Tức th́ thiên tử ra tay trị đời

             Ư nghĩa: đến khi nào Bắc triều (ứng với “chính cung phương khảm”) măn hạn (ứng với “vần xoay”) th́ chân đế mới thực sự xuất lộ ra tay trị đời lập cơ “thánh trị” đă do Trời định đặt.

 

             Tổng Lược Đoạn Thứ Ba:

             Câu 199 - 200: Nói về  âm mưu thôn tính của ngoại bang bắt đầu từ mùa thu Giáp Thân (2004?)

             Câu 201 -205: Nói về thiên tai mất mùa trước khi binh biến xảy ra

             Câu206 - 230: Chiến tranh loạn lạc lớn, dân chúng không biết trốn chạy đi đâu

             Câu 231 - 236: Chỉ cho nơi an toàn để lánh nạn.  Đó là vùng đất ở hướng Tây của VN có con sông Mêkông chảy qua (tức là trên đất Cao Miên bây giờ).  Nơi đó là nơi chân đế đang ở ẩn với một nhóm người là những vị thiên tinh xuống thế giúp cho chân đế tại một thái nguyên kín đáo.

             Câu 257 - 260: Xác định lại lần nữa là sẽ có vị chân đế ở nơi vùng đất hứa, vùng đất được trời định có thánh xuất lộ nhưng ít người biết và tin.

             Câu 261 - 262: Cho biết vị chân đế được sự phù trợ, bảo vệ của thần thánh (ngài Tản Viên Sơn Thánh?) hoặc của thần nhân với quyền phép vô vi.

             Câu 263 - 268: Cho biết công nghiệp của vị chân đế

             Câu 327 - 334: Cho biết vị chân đế chỉ xuất lộ khi “trời long đất lỡ” và lúc đó con người đă băng hoại cùng cực không khác chi ma quỷ.

             Câu 335 - 340: Cho biết 5 ch́a khoá mật mă liên quan đến thời gian chân đế giáng sinh

             Câu 341 - 350: Cho biết trước khi xuất lộ th́ vị chân đế đó về ở ẩn trên thái nguyên đất hứa

             Câu 351 - 352: Cho biết chân đế chỉ xuất lộ khi Bắc triều hết thời.

 

             Tóm lại, từ câu 199  cho đến câu 352, cộng với những đoạn trước,  chúng ta rút ra được một số chi tiết quan trọng: (a) chân đế giáng sinh vào thời gian tháng 6 năm Giáp Ngọ tức tháng 7 năm 1954; (b) lúc đó miền Bắc vừa thành tựu bá nghiệp và tại miền Bắc đất đai bị trưng thu, giới trí thức bị khai trừ, một cuộc di dân lớn xảy ra; (c) danh tánh của vị chân đế mang chữ Hưng [và chữ Quốc ở đoạn một]; (d) vị chân đế ẩn cư tại một vùng đất nằm ở hướng Tây của VN, vùng đất đó có con sông Mêkông chảy qua, và vị chân đế sẽ xuất lộ từ đất đó với một nhóm “quần tiên” nhưng chỉ xuất lộ khi Bắc triều hết thời [cùng lúc có nhiều chuyện “long trời lở đất” xảy ra]; và (e) sứ mạng của vị chân đế và hồng vận của Nam Banglà do Trời định.

 

 

Quay trở về đầu Xem vannuoc_77's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vannuoc_77
 
vannuoc_77
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 20 December 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 9
Msg 211 of 585: Đă gửi: 21 December 2006 lúc 10:30pm | Đă lưu IP Trích dẫn vannuoc_77

Đoạn Thứ Tư Nói Về Vị Chân Đế

(Thời Vận Chân Đế Giáng Sinh)

 

251 - Xem tượng trời biết đường đời trị

             Ư nghĩa: nh́n xem thiên văn biết giai đoạn nào là đời trị.  Nói ngược lại, tức biết giai đoạn nào là thánh trị (như câu 292 là “biết chừng đời trị biết đường đời suy”).

 

252 - Gẫm về sau: họ Lư xưa nên

253 - Ḍng nhà để lấy dấu truyền

254 - Gẫm xem bốn báu c̣n in đời đời

             Gẫm về sau = bài học cho hậu thế suy nghĩ

             Họ Lư xưa nên =  họ Lư xưa kia đă làm nên

Ḍng nhà để lấy dấu truyền . . . c̣n in đời đời = ḍng họ nhà nàyđă để lại dấu ấn của một triều đại thịnh trị và để lại bốn món báu cho dân tộc.  Bốn món đó là An Nam Tứ Khí (Tháp Báo Thiên, Phật Quỳnh Lâm, Vạc Phổ Minh, Chuông Phả Lại).  Chữ 4 báu c̣n hàm một y khác cao siêu hơn.  Đó là Từ Bi Hỉ Xă, tứ vô lượng tâm.  Nhờ nền tảng này (từ bi hỉ xả) mà nhà Lư đă lập một triều đại thịnh trị lâu dài.

 

273 - Bản đồ chẳng sót cho ai

             Ư nghĩa: lănh thổ không dành riêng cho ai mà dành cho tất cả [mọi sắc dân]

 

274 - Ngh́n năm lại lấy hội nơi vẹn toàn

             Ư nghĩa: một ngàn năm sau khởi từ nhà Lư dựng nghiệp th́ thời Thánh trị lại tái lập.   Nhà Lư dựng nghiệp 1010.  Một ngàn năm sau là 2010.  Như vậy chân đế sẽ xuất lộ vào khoảng năm 2010 để khởi cơng nghiệp tái lập thời thịnh trị. 

 

283 - Quyển vàng mở lấy sấm trời

284 - Từ Đinh đổi đời chí lục thất gian

             Từ Đinh đổi đời = nghĩa là từ lúc chấm dứt nhà Đinh chuyển tay sang nhà Lê (thái hậu Dương Vân Nga bàn giao ngôi vị của ấu quân cho Lê Đại Hành ) rồi lọt vào tay nhà Lư 

             Chí = cho tới

             Lục Thất Gian = mốc thời gian lục thất

 

             Câu 283-284 nói:  quyển sấm của Trạng Tŕnh tiên tri chuyện một vị chân đế giáng sinh (Tính từ khi nhà nhà Đinh mất [ngôi] nhà Lê lập nghiệp [đế] cho đến đến mốc thời gian      tháng 7 dương lịch năm 1954 tức tháng 6 âm lịch năm Giáp Ngọ [cũng] là [vào] khoảng một ngàn năm, đúng với câu 274, và [điều này] giúp xác định thời điểm chân đế giáng sinh là đúng như đă tŕnh bày).  Tính tới lúc chân đế xuất lộ 2010 th́ người đă được tṛn 56 tuổi tây).

 

462 - Tộ truyền nhị thập ngũ

             Tộ = lộc, ngôi, vận nước nối đời thịnh vượng

             Truyền = nhau, đem của người này trao cho người kia

 

             Ư nghĩa: vị chân đế sẽ làm việc (lănh trách vụ lănh đạo) được 25 năm sau đĩ truyền lại cho người khác,

 

463 - Vận khải ngũ diên trường

             Vận = khí số

             Khải = bày giải = mở ra, khai sáng

             Ngũ = 5          

Diên = diễn = Kinh Dịch nói số đại diễn có năm mươi số, thông dụng chữ đại diễn là số 50  

Trường = lâu dài

 

             Ư nghĩa: hồng vận thịnh trị của đất nước mở ra và kéo dài 5 x 50 = 250 năm dài. 

 

          Tổng Lược Đoạn Thứ Tư:

             Thời vận thánh trị sẽ đến với bá tánh Đông Nam Á vào khoảng 1000 năm sau, tính từ nhà Lư dựng nghiệp.  Chân đế sẽ giáng sinh tại nước Việt vào khoảng tháng 7 năm 1954 tức tháng 6 năm Giáp Ngọ.  Chân đế sẽ xuất lộ vào khoảng năm 2010.  Chân đế sẽ lănh đạo đất nước (Nam Bang) 25 năm.  Hồng vận thịnh trị của Nam Bang (tức là liên bang ĐNA Châu) sẽ kéo dài 250 năm (hơn hoặc kém tùy vào đức độ và phước báo của dân chúng về sau).

Quay trở về đầu Xem vannuoc_77's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vannuoc_77
 
vannuoc_77
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 20 December 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 9
Msg 212 of 585: Đă gửi: 21 December 2006 lúc 11:24pm | Đă lưu IP Trích dẫn vannuoc_77

Đoạn Thứ Năm Nói Về Vị Chân Đế

(Thân Thế Và Sinh Quán)

 

446 - Thủy trung tàng bảo cái

             Thủy= nước 

             Trung= chính giữa, trung tâm, khoảng giữa phía trên và phía dưới ( tức ngang hông)  

             Tàng = tạng = che mất, án ngữ, không thấy             

Bảo= cái ấn, con dấu của vua 

             Cái=  ô, dù, lộng, cái mui xe, cái ô, cái dù, cái lọng, v.v. tất cả những thứ dùng để che, đậy đều gọi là cái

 

             “Bảo cái” có thể giải thích là lộng quư nhưng cũng có thể giải thích là cái ấn và cái lộng. 

 

             Ư nghĩa: nước ngang hông che cái ấn,  cái lộng 

             Chiết tự: chữ Hà (sông)

 

             Đây là một câu chiết tự nói về chữ Hà (sông) .  Chữ Hà gồm có bộ Thủy  bên trái che chữ  Khả ngang bên hông.   Chữ Khả nh́n giống như h́nh một cái lộng  che một cái ấn  [tượng h́nh]

 

 

447 - Hứa cập thánh nhân hương

             Hứa = nơi chốn

             Cập = kịp, đến, cùng tận

             Thánh nhân 聖人= người sáng suốt, cái ǵ cũng biết tỏ = chỉ vị chân đế

             Hương = quê, làng

 

             Ư nghĩa: là đến nơi quê hương thánh; hoặc, nơi tận cùng là quê hương thánh

 

448 - Mộc hạ châm, châm khẩu

             Mộc = cây           

             Hạ = dưới, xuống, rời khỏi, cuốn = bề dưới = gởi đi

             Châm = cái búa bổ củi

             Châm = cái đe (anvil), cái chày đá

             Khẩu = miệng 

 

             Ư nghĩa: cây rời khỏi cái búa, cái đe, cái miệng.  “Cây rời khỏi cái búa” tức là “cái cán búa”.      Như vậy câu trên cũng có nghĩa là “cái cán búa, cái đe, cái miệng”.

            

Chiết tự: chữ Kha , bỏ chữ Mộcc̣n lại chữ Khả . 

 

Cán búa là chữ Kha   bỏ đi chữ Mộc (cây) th́  c̣n lại chữ Khả            trong giống như cái miệng và cái đe [tượng h́nh].                                

 

449A - Giục thức thánh nhân danh   hoặc là  449B.  Danh thế xuất nan lường

             Ư nghĩa của câu 449A: Tức khắc biết danh tánh thánh

             Ư nghĩa của câu 449B:  Xuất thân của chân đế khó mà lường (có lẽ muốn nói từ một ḍng họ không có tiếng tăm hoặc một ḍng họ ít ai biết tới).             

 

Chữ Nhân trong câu 449A không cần thiết để làm sáng nghĩa nhưng được dùng để cố ư nhấn mạnh chữ Nhân nối kết với chữ Khả chiết tự từ câu trên.   Nếu đem chữ Khả trong câu 448 ráp với bộ Nhânđược cố ư nhấn mạnh trong câu 449A th́ thành chữ Hà  là chữ để đặt câu hỏi thí dụ như hà dă  (sao vậy?) hay hà cố (cớ ǵ?) hoặc là chữ để chỉ họ Hà.             

 

             Hai câu 446 - 447 nói: Chữ Thủy ngang hông che chữ Khả, tức chữ Hà, nơi chốn tận cùng là quê hương của thánh nhân.  Hai câu 448-449 nói: Chữ Kha rơi mất chữ Mộc, tức c̣n lại chữ Khả, hợp với chữ Nhân thành chữ Hà, tức khắc biết danh tánh thánh.

 

             Chữ Khả hiện ra trong câu 446, giống h́nh tượng cái ấn và cái lộng,  cũng là chữ Khả trong câu 448, được h́nh tượng hóa thành cái miệng và cái đe.

 

             Cả hai cặp 446-447  và 448-449 đều chỉ về chữ Hà.  Nhưng chữ  Hà trong hai câu 446-447 là chữ Hà (sông) có bộ Thủy chỉ về địa danh của quê hương vị chân đế c̣n chữ Hà trong hai câu 448-449 là chữ Hà (họ Hà) có bộ Nhân chỉ về danh thế của vị chân đế.  

 

             Theo sấm đă nói “nơi tận cùng là quê hương thánh” và chữ Hà là địa danh của quê hương thánh.  Như vậy, quê hương thánh phải là ở nơi tận cùng của lănh thổ đất nước (cực Bắc, cực Nam hoặc sát biên giới)  và có mang chữ Hà (thí dụ như Hà Tiên 河 仙  ở tận miền nam nước Việt).  

 

             Tóm lại, 5 câu 446-449B nói là: Chữ Hà bộ Thủy là nơi quê hương thánh.  Chữ Hà bộ Nhân là danh tánh tộc họ thánh.  Ông ta xuất thân từ một ḍng họ khó ai ngờ.  Nơi chôn nhau cắt  rốn là ở tận cùng miền Nam hoặc tận cùng của miền Bắc hoặc sát biên giới.

 

430 - Phú quí hồng trần mộng

             Ư nghĩa: Phú quí là ảo mộng của cuộc đời         

 

431 - Bần cùng bạch phát sinh

             Ư nghĩa: từ chỗ thật nghèo mà bước lên đỉnh công danh.  Hai chữ “bạch phát” ở đây không phải “tóc trắng” mà là “bạch ốc phát công danh”

 

432 - Anh hùng vươn kiếm kích

             Ư nghĩa: lập sự nghiệp chính trị hoặc quân sự

 

             Ba câu 430 - 432 nói: Chuyện giàu sang đối với vị chân đế là ảo mộng.  Ông từ hai bàn tay trắng mà vươn lên sự nghiệp chính trị.  

 

             Tổng Lược Đoạn Thứ Năm:

             Toàn thể đoạn năm cho thấy một vài sự kiện quan trọng: (1) Vị chân đế được  sinh ra trên quê hương mang chữ Hà bộ thủy (Hà Giang? Hà Nội? Hà Tây? Hà Tỉnh? Hà Tiên?) ở tận cùng của miền Nam hoặc tận cùng của miền Bắc hoặc sát biên giới; (2) danh tánh vị chân đế cũng mang chữ Hà bộ nhân (họ Hà, ứng với hai chữ “danh thế”); (3) Vị chân đế xuất thân từ một ḍng họ khó ai ngờ (tầm thường? hiếm thấy? hay thiểu số?); và (4) Vị chân đế sống một cuộc đời thanh bạch, không trụ vào một nơi cố định, vươn lên sự nghiệp chính trị từ hai bàn tay trắng.

Quay trở về đầu Xem vannuoc_77's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vannuoc_77
 
vannuoc_77
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 20 December 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 9
Msg 213 of 585: Đă gửi: 21 December 2006 lúc 11:57pm | Đă lưu IP Trích dẫn vannuoc_77

Đoạn Thứ Sáu Nói Về Vị Chân Đế

(Thân Thế Và Sinh Quán)

 

[Phần này không đáng tin lắm v́ văn bản đă bị sửa đổi nhiều lần nhưng  xin đưa ra ba giả thuyết để ráp nối đoạn thứ sáu vào năm đoạn trước cho ăn khớp với những ǵ đă được giải mă].

 

Giả thuyết thứ nhất (những câu này nói về con cháu nhà Nguyễn và nguyên ăn chép từ sách như sau:)

 

375 - Thiên sinh thiên tử ư hỏa môn

             Ư nghĩa: Trời sinh vua tận hỏa môn

 

             Hỏa môn là nơi đâu?  Hay “hỏa môn” phải sửa là “hỏa thôn” mới đúng.  Nếu thực là hỏa thôn th́  ư  của toàn câu lại là “trời sinh vua ở một làng thôn tận miền nam nước Việt” v́ quẻ càn thuộc hướng nam hành hỏa [hành hỏa trong quẻ càn thuộc hướng nam].      

 

376 - Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn

             Ư nghĩa: là con cháu của ḍng họ phúc đức nhà Nguyễn

 

             Ngôn ngữ quá quá lộ liễu, không hợp với tính cách ẩn ẩn huyền huyền của Sấm Trạng.  Lại không phù hợp với câu  “danh thế xuất nan lường” v́ họ Nguyễn là một ḍng họ lớn có tiếng tăm.

 

377 - Tiền sinh cha mẹ đà cách trở

             Ư nghĩa: khi sinh ra cha mẹ đă cách trở (tức kẻ c̣n người mất)

. . .

 

418 - Dục thức thánh nhân hương

             Ư nghĩa: muốn biết quê hương thánh

            

 

419 - Quá kiều cư Bắc Phương

             Ư nghĩa: qua cầu ở phương bắc

 

             Nói đến quê hương là nói đến nơi chôn nhao cắt rốn.   Ngoại trừ  Chúa Tiên và những người con ông ta, c̣n lại về sau quê hương họ Nguyễn đều ở miền Trung th́ làm sao có thể nói là quê hương ở miền Bắc được?  Rơ ràng hai câu 418 và 419 không thuận với câu 376 (và câu 420 tiếp theo sau).

 

420 - Danh vi Nguyễn gia tử

             Ư nghĩa: con cháu nhà họ Nguyễn

 

             Ngôn ngữ quá lộ liễu trong khi chính trong câu này có chữ vi ư nghĩa là ẩn, dấu và Nguyễn là một ḍng họ lớn trong khi chữ vi c̣n có nghĩa là nhỏ bé (do đó, danh + vi = ḍng nhọ nhỏ bé).         

 

             Kết Luận Giả Thuyết Thứ Nhất: h́nh như những câu sấm này đă bị sửa đổi một vài chữ để “đạo danh tự” có lợi cho ḍng họ Nguyễn.

 

Giả thuyết thứ hai (những câu này nói về Lư Công Uẩn và nguyên văn chép từ sách như sau:)

 

375 - Thiên sinh thiên tử ư hỏa môn

             Ư nghĩa: Trời sinh chân đế tại hỏa môn

 

376 - Một nhà họ Lư phúc sinh tôn

             Ư nghĩa: là con cháu của ḍng họ phúc đức nhà Lư

 

377 - Tiền sinh cha mẹ đà cách trở

             Ư nghĩa: lúc sinh ra cha mẹ đă cách trở (chết cha hoặc chết mẹ)

. . .

 

418 - Dục thức thánh nhân hương

             Ư nghĩa: muốn biết quê hương thánh

 

419 - Quá kiều cư Bắc Phương

             Ư nghĩa: qua cầu ở phương Bắc

 

420 - Danh vi Lư  gia tử

             Ư nghĩa: con cháu nhà họ Lư

 

             Kết Luận Giả Thuyết Thứ Hai: cũng tương tự như giả thuyết thứ nhất, h́nh như những câu sấm này đă bị sửa đổi một vài chữ để “đạo danh tự” có  lợi cho ḍng họ Lư.  Nhưng, xét về    một mặt khác, có thể những câu sấm này đă hiện hữu từ lâu và nói về vị vua đầu tiên của triều đại nhà Lư là Lư Công Uẩn th́ đúng hơn.  Nếu là vậy th́ tại sao lại xuất hiện trong tập sấm của Trạng Tŕnh??

 

Giả thuyết thứ ba (những câu này nói về chân chúa quê hương chữ Hà và danh thế chữ Hà theo như sự phân tích trong đoạn số năm)

 

375 - Thiên sinh thiên tử ư hỏa môn thôn

             Ư nghĩa: Trời sinh chân đế tại một làng nhỏ (ứng với chữ “thôn”) tận (ứng với chữ “ư”) miền nam (ứng với chữ “hoả”). 

 

             Sữa câu này như vậy [sữa từ chữ môn ra chữ thôn] th́ mới phù hợp với quê hương có chữ Hà (v́ Hà Tiên ở tận cuối bản đồ đất nước, tận cùng của phương nam) như đă thấy ở nhữngđoạn chiết tự giăi mă nằm trong 4 câu 446-449 và đồng thời phù hợp với câu “tiết đế thị trần diện kiến giao, bất bất năng duyên tứ Đông Hồ” của Thánh Mẫu Liễu Hạnh (ngài đă              phóng điển cho biết khi hỏi về lai lịch của vị chân đế).

 

             Tiết Đế = vị vua thanh bạch

             Thị Trần = nương tựa trần đời

             Diện Kiến Giao = gặp mặt và giao tiếp

             Bất Bất = hữu [hai chữ “không không” biến thành “có”]

             Năng = thuận theo

             Tứ = ban cho.  

 

             Tức là “vị vua thanh bạch giữa trần đời gặp mặt giao tiếp, thuận theo duyên nên Trời ban ân sũng cho Đông  Hồ.”

 

             Đông Hồ là một danh thắng tại Hà Tiên, là tên của  một cái hồ lớn nằm cạnh cửa biển, có cây cầu bắt ngang, bên kia cầu là núi Tô Châu, bên này cầu là phố chợ.  Hà Tiên là một quận nhỏ vừa nằm ở cuối bản đồ của nước Việt lại nằm sát biên giới Campuchia.  Nói tới Đông Hồ cũng là nói tới Hà Tiên. “Trời ban ân sũng cho Đông Hồ” tức là Trời ban ân sũng cho Hà Tiên.  Ân sũng Trời ban cho chính là “Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn” vậy.          

 

376 - Một nhà họ Nguyễn ḍng tộc nhỏ phúc sinh tôn

             Ư nghĩa: là con cháu của một ḍng họ nhỏ có phúc đức. 

             Sửa câu này lại như vậy th́ mới phù hợp với câu 449 “danh thế xuất nan lường” đă được giăi mă. 

 

377 - Tiền sinh cha mẹ đà cách trở trắc trở

             Ư nghĩa: trước khi sinh ra chân đế, cả cha lẫn mẹ đă một lần găy đổ nhân duyên rồi hai người gặp nhau và chấp vá.  Hoặc cha mẹ đă ly dị nhau trước khi sinh ra chân đế.

 

418 - Dục thức thánh nhân hương

             Dục  =  cùng đường

             Thức  = biết, phân biệt, thấy mà nhận biết được

             Hương = làng, quê hương

 

             Ư nghĩa: cùng đường th́ biết quê hương của thánh nhân

 

             Câu này cho thấy quê hương chân đế nằm ở chổ tận cùng trên bản đồ hoặc sát biên giới.  Phối hợp với câu 375 th́ vị chân đế phải sinh ra ở một nơi tận cùng của miền nam nước Việt.  Sự giải thích này cũng phù hợp hoàn toàn với sự tiết lộ của Thánh Mẫu Liễu Hạnh.    

 

419 - Quá kiều cư bắc hỏa phương

             Quá = vượt, qua

             Kiều = cầu

             = ở

             Hỏa= hành hỏa, phương nam, màu đỏ 

 

             Ư nghĩa: vượt qua một cây cầu ở về phương Nam

 

             Chữ hỏa phương (thay v́ bắc phương) th́ nó mới hợp với câu 375  “thiên sinh thiên tử ư hoả

             thôn” và với câu 418  “dục thức thánh nhân hương” đồng thời hợp với những ǵ đă được giải

             mă trong hai câu 446-447 nơi đoạn thứ năm trang 29.

 

420 - Danh vi Nguyễn hà gia tử

             Ư nghĩa thứ nhất: con cháu nhà họ nào vậy? 

             Ư nghĩa thứ hai: con cháu nhà họ Hà

 

             Chữ Hà vừa đặt câu hỏi vừa ám chỉ họ Hà trong câu này mang tính cách vừa úp vừa mở, nghĩa đôi, phù hợp với lối nói của sấm hơn và đồng thời phù hợp với những ǵ được giải mă trong hai câu 448 và 449 nơi đoạn thứ năm.

 

             Tổng Lược Đoạn Thứ Sáu:

             Hai giả thuyết đầu (giữ y nguyên văn) cần phải được loại bỏ v́ (a) không thấy thêm bằng chứng ở những nơi khác hổ trợ cho ư nghĩa của những đoạn văn trên; (b) ngôn ngữ quá lộ liễu không đúng với tinh thần của sấm; và (c) nội dung của những câu sấm h́nh như không hài ḥa nhau. 

 

             Ngược lại, giả thuyết thứ ba (tức là sau khi được sửa lại vài chữ) th́ có  nhiều bằng chứng được lập đi lập lại từ nhiều góc độ, và ngôn ngữ lại phù hợp với tính cách của sấm hơn.   Tuy nhiên, đây chỉ là giả thuyết.  Nhưng, dầu cho giả thuyết có đúng hay sai th́ nhận xét một cách toàn diện [từ đoạn một tới đoạn sáu] chúng ta vẫn có đầy đủ những ǵ chúng ta muốn biết về vị chân đế.

 

Quay trở về đầu Xem vannuoc_77's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vannuoc_77
 
vannuoc_77
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 20 December 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 9
Msg 214 of 585: Đă gửi: 22 December 2006 lúc 12:09am | Đă lưu IP Trích dẫn vannuoc_77

Đoạn Thứ Tám Nói Về Thiên Tai Thảm Khốc

Sẽ Xảy Đến

 

434 - Nam Việt hữu Ngưu tinh

             Nghĩa đen: Nam Việt có sao Ngưu. 

 

435 - Quá thât thân thủy sinh 

             Nghĩa đen: quá vong thân nên nước phát sinh

 

436 - Địa giới xỉ vị bạch

             Nghĩa đen: biên giới răng c̣n trắng

 

437 - Thủy trầm nhi Bắc Kinh

             Nghĩa đen: nước nhận ch́m Bắc Kinh

 

             Câu 434 cho tới 437 có ư nói: Trung Quốc quá bất nhân cho nên nạn nước (thủy nạn) mới phát sinh và Trung Quốc  sẽ bị nhận ch́m xuống biển khi mà những cột mốc đánh dấu (ứng với chữ “xỉ”) biên giới (ứng với chữ “địa giới”) vẫn c̣n mới (ứng với chữ “bạch”)  tức là màu sơn trắng [của những cột mốc biên giới] chưa kịp đóng rêu.  Và Nam Bang sẽ hưng thịnh nhờ có vị chân đế xuống thế tại đất Việt. 

 

             Nước đủ sức nhận ch́m cả Trung Quốc là sóng thần? hay địa chấn làm sụp cả lục địa? Đây chắc chắn là một sự việc làm rúng động cả địa cầu (ứng với câu “chờ cho động đất chuyển trời”)  Nếu là vậy th́ tai nạn này cũng không c̣n xa (v́ câu 328 có nói “bấy giờ thánh sẽ nên tay anh hùng” mà thánh nên danh chung quanh mốc thời gian 2010)  và có thể chân đế được biết đến sau biến động này [có phải chăng chân chúa có mặt trong những người đảm trách công tác cứu trợ?]

 

 

 

Lời Bạt

 

Bá tánh Nam Việt từ bấy lâu nay không ít người đọc sấm Trạng Tŕnh nhưng hiếm kẻ có đủ căn duyên để thực sự thông đạt huyền cơ.  Nay vận  hội đă điểm, được sự trợ điển của ơn trên, cho nên bần đạo mạo muội bày giải huyền cơ, chỉ cho bá tánh tông tích của vị chân đế.  Bần đạo xin gởi tập giải mă này đến tay những vị huynh đệ có duyên lành dầy phúc phận, ước mong bá tánh biết rơ ngày tháng đă cận kề lo trao dồi đạo đức, chuẩn bị đón tiếp thánh ân, thuận thiên hành đạo.

 

        Thiên Cấm Sơn 2004

                

                 Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni

                 Phật!

 

                 Nam Mô Long Hoa Giáo Chủ Di Lạc

                 Vương Phật!

 

*** Hết Phần Sao Chép ***

Quay trở về đầu Xem vannuoc_77's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vannuoc_77
 
nhoccon1412
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 15 March 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 329
Msg 215 of 585: Đă gửi: 22 December 2006 lúc 2:36am | Đă lưu IP Trích dẫn nhoccon1412

xin cám ơn bác nhiều !

__________________
_/|\_ Nam Mô A Di Đà Phật _/|\_

http://phapam.good.to
Quay trở về đầu Xem nhoccon1412's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nhoccon1412
 
NhapMon
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 216 of 585: Đă gửi: 22 December 2006 lúc 2:43am | Đă lưu IP Trích dẫn NhapMon

Cám ơn bác vannuoc_77 đă post.

Bài giải mă này chỉ là một trong nhưng ư kiến đóng góp. Nhưng thú thật, lời giải không có tính thuyết phục, coi nhẹ cái logic, sự chính xác của Sấm, và cái uyên bác của Trạng Tŕnh NBK . Nếu đem so với bài viết của ông Lưu Văn Vịnh, th́ bài này chỉ thuộc hàng sơ đẳng, được dùng để mê hoặc những người mê tín dị đoan!

__________________
NhapMon
Quay trở về đầu Xem NhapMon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi NhapMon
 
nhoccon1412
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 15 March 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 329
Msg 217 of 585: Đă gửi: 22 December 2006 lúc 2:59am | Đă lưu IP Trích dẫn nhoccon1412

tương lai sao mà khó biết quá ,thôi th́ ḿnh cứ tu tâm dưỡng tánh đi , ở hiền th́ gặp lành , nếu như thời động mà tâm không động th́ đạt đến cái thân tâm an lạc đó sao ? phải nói cuộc đời ,con người ,quốc gia ,thế giới đều nằm trong bánh xe luân hồi có thịnh có suy , có phát có thối ṿng vo trong một chiếc bánh xe quay đi quay lại , chắc vậy nên mới có câu

Đời là bể khổ

Chúng sinh sống trong cái vui ,cái khổ để rồi mất đi không c̣n biết vui ,biết khổ là ǵ nữa ,thôi ḿnh cứ sống tu thân tích đức ,bố thí giúp người , giữ tâm an định c̣n cái thế giới này cái ǵ đến sẽ đến ra sao th́ ra .   

__________________
_/|\_ Nam Mô A Di Đà Phật _/|\_

http://phapam.good.to
Quay trở về đầu Xem nhoccon1412's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nhoccon1412
 
LuuBi.
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 18 May 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1992
Msg 218 of 585: Đă gửi: 22 December 2006 lúc 3:00am | Đă lưu IP Trích dẫn LuuBi.

Nick mới nên Bị nghĩ Vannuoc_77 không ai khác là 1 người đă từng post bài trong topic này! Biết rồi nhưng không dám chắc!

__________________
Xuất Ḱ đông môn,
Hữu nữ như vân .
Tuy Tắc Như Vân,
Phỉ ngă tư tồn .
Cảo Y kỳ cân,
Liêu Hạc ngă vân
Quay trở về đầu Xem LuuBi.'s Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi LuuBi.
 
linhlinhlinh
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 25 November 2006
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 140
Msg 219 of 585: Đă gửi: 22 December 2006 lúc 10:09am | Đă lưu IP Trích dẫn linhlinhlinh

''đă tự đem ḷng cho h́nh sai khiến -cớ sao cứ một ḿnh buồn bă u sầu "!văn khó mê được người. người mê bởi tâm.tâm không mê làm sao văn mê hoặc được người?xin cám ơn bác vn_77.đă tốn công nhọc sức giúp vui chung diễn đàn.cũng là khuyến khích bác nào có tài liệu có nhiệt thành góp vui xin được cám ơn trước.bất luận mới -cũ cũng đáng mà tham khảo tài liệu & chính kiến từ nhiều phía.có mà bàn tán là vui rồi.có "tán "mới có lúc ra cổ - ra kim rồi may mà thành sự cũng nên..? nên..người th́ sao?có vậy mới biết cái chí,cái mộng của người việt ta cũng có ghê có gớm là có thực.đâu phải  là hư truyền  cả đâu?hấp dẩn đấy chứ?phải không các bác.         &n bsp; 
Quay trở về đầu Xem linhlinhlinh's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi linhlinhlinh
 
ngoctrongdda
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 26 November 2006
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 142
Msg 220 of 585: Đă gửi: 22 December 2006 lúc 10:33pm | Đă lưu IP Trích dẫn ngoctrongdda

Như vậy chúng ta lại có thêm 1 tài liệu mới của nhà sư ở Thiên cấm sơn đại ư nói rằng : vị lănh tụ này xuất thân ở miền Tây hay ở campuchia ǵ đó, sinh tháng 7 (âm lịch thấng) , tuổi giáp ngọ năm 1954 ,chắc đang ở nước ngoài năm 2010 sẽ về VN lănh đạo 25 năm. H́nh như thấy sấm hay nhắc nhiều đến miền bắc & không thấy nói đến tuổi Ngọ (?).... nhưng chúng ta cứ ủng hộ cho là nhà sư đúng đi. 

Không thấy nhà sư nói đến câu :mẫu thân tam thập lục tuế

                                                     hậu sinh thiên tử bảo giang môn

Theo như tôi hiểu bậy là : nếu người này tuổi Ngọ 1954 -> mẹ người này cũng tuổi Ngọ 1918 , và bởi chữ hậu sinh -> có khả năng 1 người anh hoặc chị cũng tuổi Ngọ 1942 ( như người ta gọi là tam nguyên? thể?tinh? hay tam hoa tụ hội ǵ đó???)  , để đến lúc nào đó ông bố bực tức nói đúng là 1 lũ ngựa , trâu hay gà qué ǵ đó. Không hiểu vị này đă thỏa măn điều kiện nói trên chưa???

Câu này không nói đến bố mẹ cách trở....nhưng nếu có giải đoán là bố mất hay ly dị, th́ cũng có khả năng là ông ta đang trong quân ngũ chiến đấu  chưa biết sống hay chết,nên lúc sinh ra vắng mặt....

Đă, đang & sẽ có nhiều bút mực đổ ra để khám phá chữ mật phá điền.Ở đây , nhà sư cho tôi biết được mặt chữ Hán.....chữ quốc là có chữ vương ở trong chữ khẩu , chữ điền là có chữ thập ở trong chữ khẩu -> tôi không biết chữ Hán ,vậy có lối chiết tự nào mà chữ quốc phá khẩu th́ ra chữ vương không ( hay thiên tử  phá khẩu?) ???

Dù thế nào đi nữa cũng cám ơn nhà sư & bạn Vậnnuoc-77, hy vọng có thêm thông tin mới th́ cứ update cho anh em được biết.Và mời các bạn cao nhân hay thấp nhân cũng được cứ có kiến giải ǵ hay & logic th́ cứ post lên đừng ngại , góp vui mục này free miễn làm sao kéo ra vị này càng sớm càng tốt để cụ Trạng Tŕnh được tiếng ,dân tộc Việt được miếng

Tb: tôi vẫn khẳng định Phá điền là động từ chính & thiên tử là chủ từ chính của câu : Trâu phá điền ,thiên tử xuất ! Ntd

Quay trở về đầu Xem ngoctrongdda's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ngoctrongdda
 

<< Trước Trang of 30 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 2.5000 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO