Msg 208 of 585: Đă gửi: 21 December 2006 lúc 7:43pm | Đă lưu IP
|
|
|
Giải Mă
Sấm Trạng Tŕnh
Truy T́m Tung Tích
Của Vị Chân Đế Theo Những Lời Tiên Tri Bất Hủ
Ất Dậu 2005
Lời Mở Đầu
“Một ngày thu năm Nhâm Dần ( 1542 ) đang tựa án đọc sách,
chợt thấy mây ngũ sắc hiện ra, Trạng liền gieo quẻ bói xem thời vận nước nhà, lúc
ấy đời vua thịnh trị nhất triều Mạc là Mạc Đăng
Doanh mới mất, Trạng bốc được quẻ Càn, động hào Sơ cửu, liền đoán ‘Liên
Mậu, Kỷ, Canh, Tân can qua sinh biến’ nghĩa là loạn liên tiếp vào năm Mậu Thân,
Kỷ Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi (1548-49-50-51).
Cụ lại giảng tiếp cho học tṛ là Trương Thời Cử rằng :
1. Bốc đắc Càn thuần quái
Bói được quẻ thuần Càn
2. Sơ cửu thoái tiềm long
Sơ hào 9 thấy rồng về ẩn
3. Ngă bát thế chi hậu
Tám đời sau ta
4. Binh qua khởi trùng trùng
Binh loạn liên miên . .
. [cho đến khi]
5. Tinh tụ bảo giang thượng
Sao tụ trên sông
quư
6. Đại nhân cư chính trung
Đại nhân trú ở trung ương
Bài này chính là ch́a khóa để mở mật ngữ và ẩn nghĩa trong
toàn bộ Sấm Trạng Tŕnh, một bài Sấm không ai phủ nhận được giá trị chân xác
may mắn được truyền lại, trong khi tập Sấm đă bị tam sao thất bản, thêu dệt thêm
bớt qua 500 năm. Bói được quẻ Càn (Trời),
thấy rồng lui ẩn, hồng vận chân chúa chưa xuất hiện, tám đời sau, khoảng 1735
khi Tiến sĩ Vũ Khâm Lân tới thăm hậu duệ đời thứ 7 và thứ 8 của Trạng Tŕnh tại
chính nền nhà xưa, đúng là thời loạn liên tiếp giữa các phe Trịnh, Nguyễn, Tây
Sơn...Cho tới triều Nguyễn Gia Long cũng chỉ được hơn 60 năm lại bị Thực dân xâm
lăng, mà trong 60 năm đó, loạn lạc vẫn liên miên tại miền Bắc bộ (riêng hai đời
Minh Mệnh, Thiệu Trị 1820-1847 đă có tới 250 vụ loạn) , cho tới thập niên 1980
mới tạm gọi là yên ổn. Phải đợi tới khi sao Ngưu, chủ tinh của bậc đại nhân xuất
hiện trên Bảo Giang th́ đất nước mới lại phục hưng, đại hồng vận non sông mới rực
rỡ. Bài Sấm trên cho thấy Trạng Tŕnh đă
dùng tới Dịch lư và phải cộng thêm với Chiêm tinh (Thái Ất, Thái Huyền?) mới
tính ra được thời ‘sao tụ’ trên Bảo giang và ‘tám đời sau binh qua’ mà một quẻ
Dịch thường không ‘động’ cho một quăng thời gian dài cả 500 năm như vậy . . . Sấm cũng như Kinh, đ̣i hỏi người đọc một
vài tiêu chuẩn tâm thức giúp cho việc lĩnh hội. Người viết Sấm như Trạng Tŕnh
khi bốc quẻ đă phải hết sức tập trung và thành tâm th́ quẻ mới ứng, chưa kể kỹ
thuật tính toán suy diễn đ̣i hỏi rất nhiều tâm huyết. Người viết Sấm thuộc loại Thánh nhân, người đọc
Sấm cũng cần tĩnh tâm để đốt lửa soi gan kim cổ. Phá chấp kiến, vượt ngă mạn,
trực chỉ nhân tâm mà kiến cái ‘Huyền’ của lịch sử. Sấm Trạng Tŕnh luận giải về Lịch sử dân tộc
500 năm sau tức là vào hiện đại. Nh́n dân tộc như một khối sinh động trôi trong
thời gian, thịnh suy theo chu kỳ tinh đẩu thiên địa nhân nhất thể, Trạng Tŕnh
không phải chỉ đoán sự mà c̣n để cái tâm vào cuộc thăng trầm của dân tộc mà ông
suốt đời thao thức, tận tụy. Thế nên hậu thế đọc Sấm chẳng những để t́m hiểu cái
sự biến mà c̣n cảm thông cái sự tâm, th́ mới quán chiếu nổi phần nào nỗi ḷng nặng
chĩu của tiền nhân truyền lại.” Trích
VSSL.
Tôi trích những lời của ông Hạ Long Lưu Văn Vịnh để làm lời
mở đầu này v́ sự kính trọng đối với đóng góp của ông qua quyển Việt Sữ Siêu
Linh mà tôi t́nh cờ đọc được. Một phần
khác là v́ nó có liên đới ít nhiều tới một tập sách do một vị đạo sư (không lưu
tung tích) cố t́nh để lại trong hang Ông Thẻ trên Thiên Cấm Sơn (Châu Đốc) tặng
cho người hữu duyên. Trang đầu của tập sách
(chép tay trong hai quyển vở học tṛ) mang tựa đề là “Giăi Mă Sấm Trạng Tŕnh”
với hai câu đối “Chân Đế: Lănh Lệnh Thiên Hoàng Khai Vận Nước. Trạng Tŕnh: Vâng Lời Tam Giáo Giải Huyền Cơ.” Tập sách của vị đạo sư đó đă được một khách
thập phương t́m gặp và phổ biến “chui” trong giới hâm mộ tại Việt Nam. Trong một chuyến thăm quê tôi được một người quen đưa cho đọc
và cho phép sao chép để đưa ra hải ngoại.
Tuy chủ ư của tôi là muốn phổ biến tập sách “Giải Mă Sấm Trạng Tŕnh” của
vị đạo sư nhưng tôi lại muốn nhân cơ hội này rút ra một số điểm từ cuốn VSSL của
ông Lưu Văn Vịnh để bổ túc những điều không được giải thích trong tập sách của
vị đạo sư.
Thứ nhất: “chính ở đại địa long mạch Cửu Long mà hai ngàn
năm trước đă phát khởi lên cường quốc Phù Nam, là cường quốc đầu tiên ở Đông
Nam Á, lan rộng tới Lào, Quảng Nam về phương Bắc, bao cả miền Nam Việt Nam và
Cao Miên bây giờ, lan sang Mă Lai ngày nay. Kế tiếp vương quốc Chân Lạp bành
trướng lên tới Nam Chiếu, Hạ Lào, ngang ra biển Đông cũng là một vương quốc lớn
mạnh một thời. Nền văn hóa Óc Eo, Angkor, mang dấu tích đế quốc Phù Nam, không thua sút văn hóa Trống Đồng của Việt Nam. Tuy
Phù Nam suy tàn từ thế kỷ VI, Chân Lạp suy tàn từ thế kỷ XV, nhưng khí lực Cửu
Long rất hùng viễn mạch trường thiên kỷ, nên đại địa này c̣n có chu kỳ hưng
phát tương lai. So sánh với Đại
Việt,cường quốc Phù Nam
và Chân Lạp lúc thịnh thời có thể rộng lớn và qui phục nhiều tiểu quốc
hơn. Đấy là nhờ khí lực long mạch Cửu
Long đem lại. . . . Trong trường kỳ lịch sử, ta không sợ Bắc phương Hán tộc mà
nên đề pḥng long mạch tái phát của dân Phù Nam, Chân Lạp tức dân Miên ngày
nay. Đất Cao Miên có đại địa Cửu Long Biển Hồ, đă từng có văn minh
Angkor, đă từng là đế đô của cường quốc đầu tiên Đông Nam Á là Phù Nam, đất này
c̣n có chu kỳ dấy phát. . . . Nếu nước Việt gồm thâu cả ḍng Cửu Long ,
Hoàng Liên Sơn, Trường Sơn làm âm dương song hành, cao nguyên Pleiku, Đà Lạt và
b́nh nguyên miền Nam làm đại minh đường nh́n ra biển Đông, th́ mới có đại thế
để trở thành một đại cường quốc, ngồi vào ghế Hội đồng Bảo An Liên Hiệp
Quốc, nếu không, ta chỉ có thể thành cường quốc vùng Đông Á mà thôi.” Trích VSSL.
Theo tôi hiểu (dựa theo lời giải của vị đạo sư để lại) th́
chu kỳ hưng phát đă tới. Dọc theo ḍng Mekong
chỉ c̣n lại một đại huyệt chưa lộ ra và vận hội này sẽ phát sinh từ đại địa đó,
nơi được gọi là “xứ hoàng giang sinh thánh” trong sấm của Trạng Tŕnh. Hoàng giang hoặc bảo giang chính là con sông
Mekong, con sông vua (hoàng giang) mà
nhiều sông nhỏ khác phát xuất từ Tây Tạng, Trung Quốc, Miến Điện, Lào, Thái,
Miên,Việt phải đổ vào chầu. Nó cũng là
con sông quư (bảo giang), nếu chưa th́ cũng sẽ trở thành con sông quư, v́ trong
tương lai một nguồn nước lớn có thể đắc giá hơn mỏ dầu hỏa. Đại điạ đó là vùng đất dành cho một đất
nước mới sau này: Nam
Bang. Nam
Bang là một liên bang tại Đông Nam
Á (trong đó có Việt Nam)
và sau này sẽ trở thành là một cường quốc, mở ra một thời thịnh trị an lạc. Vùng đất đại địa đó là ân sủng của Thiên Đ́nh
ban cho nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam, Cao Miên và Lào cộng thêm một
số quốc gia nữa. Một luồng sinh khí mới
sẽ thổi vào vùng ĐNA, sau khi đă trải qua một số biến động rất lớn. Một sự chuyển ḿnh mang phước lộc đến cho tất
cả mọi người trong vùng. Chúng ta không
phải lo sợ người Cao Miên cũng không cần phải dành giật để làm của riêng cho
Việt Nam. Thiên cơ đă định như vậy là như vậy. Chúng ta, người Việt Nam, phải mở ḷng ra ôm tất cả mọi
dân tộc nhỏ bé hơn vào ṿng tay che chở, bằng t́nh thương, th́ chúng ta mới
hưởng được cái phước lớn này một cách trọn vẹn và lâu dài. Đừng quá tham lam. Đừng lấy mạnh hiếp yếu mà hy vọng sản xuất ra
hoà b́nh thịnh trị. Nếu chúng ta tham
lam, chúng ta lấy mạnh hiếp yếu th́ cùng một định luật đó bạo lực và bất hạnh
sẽ ụp xuống đầu chúng ta.
Thứ hai: “nh́n trên bản
đồ Thế giới, nước Mỹ và Viễn Đông gồm Tàu, Việt, Hàn, Nhật nằm ỡ vị thế đối
chiếu, cách nhau 12- 13 múi giờ, nên đă có liên hệ và đă xẩy ra nhiều
xung đột luận theo Dịch lư : chiến tranh Mỹ-Nhật, Mỹ-Hàn, Mỹ-Việt và xung
đột Mỹ-Tầu.” Trích VSSL. Theo tôi hiểu th́ (dựa theo lời giải của vị
đạo sư để lại) Thế cuộc xung đột
giữa Hoa Kỳ với Trung Hoa sẽ xẩy ra và theo đó khởi lên của đất nước mới: Nam
Bang. Nhờ hoàng phúc đại địa quốc gia
mới đó sẽ thành h́nh và được sự công nhận của Liên Hiệp Quốc: một giải pháp
chính trị cho toàn vùng. Trong
sấm có câu “bản đồ chẳng sót cho ai; ngh́n năm lại lấy hội nơi vẹn toàn.” Nam Bang sinh ra không từ cái “kẻ thắng người
bại, kẻ được người mất” mà từ cái chung, “cái tất cả đều được, cái tất cả đều
lớn hơn trước và giàu mạnh hơn trước.” Khẳng
định nó phải là một liên bang v́ (a) thời này không ai chấp nhận một sự xâm
chiếm sống sượng, (b) nếu một sự xâm chiến sống sượng có xảy ra th́ tiếp theo
là binh loạn liên miên để đ̣i lại lănh thổ chớ không thể nào tiêu hóa nổi để đi
tới chổ “thanh b́nh âu ca” được, và (c) chỉ có quần thể liên bang mới đưa đến
cái chung “chẳng sót cho ai” và đạt tới
chổ “hội nơi vẹn toàn” cho tất cả. Và
muốn “an lạc âu ca” th́ cơ chế điều hành đất nước trên căn bản phải là một cơ
chế nhân bản và dân chủ, dầu cho cơ chế đó nếu có thực sự dành một vai tṛ cho một người được gọi là
“ông vua” đi nữa (nói về vị vua thánh, những lời sấm phần lớn gọi ông ta là vua
thánh, chúng ta chỉ nên hiểu là “một vị lănh đạo chân chính và có thực tài” chứ
đừng nghĩa là sẽ có một người sẽ dấy nghiệp xưng đế như thời cổ xưa).
Thứ ba: “cuộc Nam Tiến
hoàn thành với diện tích đất nước gấp hai đất cũ, với sự sát nhập các sắc dân
với văn hóa đa diện, không thể không chấp nhận t́nh trạng phân hóa địa phương.
Muốn t́m thế ḥa b́nh nội bộ lâu dài, phải áp dụng câu kinh tuyệt tác của Bụt :
“ Cách chăn giữ đàn ḅ hay nhất là thả chúng trên cánh đồng mênh mông “. Nói
khác đi, phải địa phương tự trị phân quyền, phải dựa trên địa lư thiên nhiên
vàvăn hóa khu vực để chia làm các Châu, Bộ với hệ thống quản trị dân chủ. Từ
Nam Sông Mă vào đến Hoành Sơn , Thừa Thiên, không thể gạt bỏ văn hóa Chàm, càng
vào phía Nam, càng không thể phủ nhận vết tích lâu bền của Phù Nam, Chân Lạp
với Tiểu Thừa và Ấn Độ Giáo kết hợp. Người Việt phát xuất từ Bắc bộ, quanh châu
thổ sông Hồng sẽ chuyển hóa theo những yếu tố văn hóa xă hội mới- khoảng 300
năm- đang đi vào chu tŕnh tổng hợp ṇi giống.
Có thế th́ các long mạch kết phát ở địa phương nào cũng mang lại quả tốt
cho toàn quốc, bằng không th́ mạch phát ở Đông có thể làm hại cho Tây, huyệt
kết ở Bắc e gây họa cho Nam.” Trích
VSSL. Đúng vậy! Ba miền, ba nền văn hóa lớn, những bản sắc
khác nhau, những nếp sinh hoạt khác nhau, có những nhu cầu khác nhau theo địa
lư và văn hoá xă hội từng vùng, đó là chưa nói tới những sắc tộc thiểu số, và
đó là chỉ mới nói về đất nước Việt Nam chứ chưa nói tới những quốc gia khác nằm
trong cộng đồng liên bang. Chỉ có
một liên bang nhân bản và dân chủ mới có
thể đáp ứng nổi sự đa dạng này.
Thứ tư: “Sấm Trạng Tŕnh đầu tiên chắc được giữ kín đáo trong một
nhóm môn đệ thân cận như Phùng Khắc Khoan, Trương Thời Cử, Nguyễn Dữ với số môn
đệ đào tạo trong hơn 50 năm, lên tới 3000 người, thơ văn sấm kư của ông thầy
hẳn đă được sao chép hoặc ít ra cũng được truyền khẩu, chưa kể cả vua, quan và
quần chúng đều đă biết rất nhiều về tài tiên tri của Trạng. Tập Sấm đă đi vào
mọi giới và mọi nơi, kể cả vào Thuận Quảng với nhóm di dân mang theo cẩm nang
‘Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân’ và có thể có cả người của Trạng Tŕnh
gửi theo lớp viễn chinh ấy. Có thể đặt
giả thuyết là Trạng Tŕnh chỉ bốc quẻ, giảng truyền cho môn đệ chứ không viết
xuống thành tập. Bài Sấm giảng cho
Trương Thời Cử kể trên là một thí dụ điển h́nh.
Sau đó các cao đồ mới sao chép lại thành tập, đặt ra thành lời thơ năm,
sáu chữ rồi lưu truyền. . . Sấm c̣n
truyền tới ngày nay là lời Sấm truyền khẩu hoặc sao chép từ giới sĩ tử học tṛ
Trạng Tŕnh, tới thế kỷ 18-19 có nhà nho viết xuống thành tập, thành bài không
nhất định, rồi lại dùng thơ lục bát để diễn ư.
Bên cạnh những câu “ chính truyền “, c̣n có các câu sấm “ diễn nghĩa “,
rồi tất nhiên xen những câu giả mạo với dụng ư tuyên truyền nhất là vào thế kỷ
XX hiện tại. . . Điều chắc chắn là Sấm Trạng Tŕnh đă có ảnh hưởng sâu rộng
trong giới tranh bá đồ vương ngay từ thời thế kỷ XVII. Năm 1671, có đảng Bạch
Sỉ được thành lập để pḥ Lê diệt Trịnh, tên Bạch Sỉ lấy từ Sấm Trạng Tŕnh,chỉ
danh bậc đại nhân sẽ xuất hiện. Đời Gia
Long, đầu thế kỷ XIX, Lê Duy Hoán khởi nghĩa ở Thanh Hóa, làm lá cờ thêu chữ
‘Phá Điền’, lấy từ câu ‘Phá điền Thiên tử giáng trần’ của Sấm Trạng Tŕnh, Lê
Duy Hoán tuổi Thân, phá điền chiết tự có thể thành chữ Thân. Thời đầu thế kỷ
XX, có nhóm thần Tản Viên ở miền Bắc Việt.
Trong suốt bao mấy trăm năm kể từ khi Sấm Trạng có mặt cho đến nay ‘quần
gian đạo danh tự’ cũng đă nhiều.” Trích
VSSL. Với một thời gian dài và dưới
những điều kiện như vậy không ai có thể khẳng định đâu là sấm giả và đâu là sấm
thật và cũng không ai có thể khẳng định được lời giải nào đúng và lời giải nào
sai. Tuy nhiên không v́ vậy mà chúng ta
gạt bỏ tất cả những ǵ đă được lưu truyền cho tới nay và cũng không v́ vậy mà
chúng ta vội kết luận những lời tiên tri hoặc những lời giải mă là “bá láp”
không có luận cứ khoa học. Theo thiển ư
cá nhân tôi, sấm Trạng Tŕnh có giá trị của nó.
Đúng như ông Lưu Văn Vịnh đă nói, muốn hiểu được sấm của Trạng Tŕnh
không phải dễ. Phải “kiến được cái
huyền” th́ mới hiểu nổi diệu cơ ẩn tàng. Vị đạo sư để lại tập Giải Mă Sấm Trạng Tŕnh
cũng có nói như thế, nhưng nói một cách khác là “nhờ sự trợ điển của ơn trên”
nên ông đă “giải mă” một phần lớn những câu sấm do Trạng Tŕnh để lại cho đời
(và qua hai câu đối trong trang đầu, “ơn trên đó” h́nh như là linh điển của
Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm).
Ở đây
tôi chỉ khiêm nhường làm công việc “tŕnh bày lại y nguyên văn” tất cả những
điều tôi ghi chép được. Hy vọng là với
những khám phá mới sắp được tŕnh bày, quư vị có được thêm một vài manh mối
trung thực về chân tướng của vị chân đế mà mọi người chờ đợi và những biến cố
liên quan đến vận nước trong tương lai.
Kính chúc quư vị thân tâm thường lạc.
Kính bút.
Đây Là “Thẻ Lệnh” Đặt Dưới Hang Ông Thẻ
Trên Thiên Cấm Sơn, Châu Đốc
Từ Trang Này Về Sau Được
Ghi Chép Y Nguyên Văn Của Tập Viết Tay “Giải Mă Sấm Trạng Tŕnh” Đang Phổ Biến
Chui Tại VN, Ngoại Trừ Những Chữ Nằm Trong Ngoặc Vuông [
] Là Do Người Soạn Tài Liệu Chú
thích Thêm.
Chân Đế: Lănh Chỉ Thiên Hoàng Khai Vận
Nước
Trạng Tŕnh: Vâng Lời Tam Giáo Giải Huyền
Cơ
Tặng Người Hữu Duyên
Đoạn Thứ Nhất Nói Về Vị Chân Đế
474
- Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
Ưù
nói: 2 _ _5 (chỉ về năm?) nhất định sẽ có đánh nhau và đó là thiên cơ.
475
- Đảo Hoàn Sơn tam liệt ngũ phân
Đảo = ḥn, cù lao = lật ngược = cầu
cúng = công kích = che trùm
Hoàn Sơn = một địa danh (Hoàn Sơn?
Hoành Sơn? Hoàng Liên Sơn?) = núi vây quanh
Tam = ba
Liệt = quay, vặn , xé, bẻ = rách = bày
Ngũ= năm
Phân = chia cắt, tách rời = phút
Nghĩa đen: lật ngược Hoàn Sơn đem
chia năm xẻ ba.
Hai câu 474-475 nói: một
cuộc thư hùng vũ lực (nỗ ra ngoài biển Đông? Tại biên giới Việt-Hoa? hay tại ranh giới Bắc-Trung?)
với nhiềulực lượng tham dự.
476 - Tha hồ vô
phụ vô quân
Nghĩa đen: Tha hồ không cha không chúa.
Ư nói: một cảnh tượng vô cùng hổn loạn
477 - Đào viên
tán lạc ngô dân thủ thành
Đào Viên: điển tích của 3 anh em Lưu
Bị, Quan Công và Trương Phi. Ông Quan Công
làm mất Kinh Châu, một thành tŕ nhà Hán mượn của Đông Ngô.
Ư nói: chính quyền bỏ chạy chỉ c̣n dân
lo việc chống đở.
478 - Đoài phương
phước điạ giáng linh
Phương Đoài = hướng Tây = kim tinh =
bạch hổ = màu trắng (cung đoài hậu thiên bát quái).
Phước Địa = vùng đất được Trời ban ân
sủng
Giáng = ngự xuống, nhập xuống, đưa
xuống
Linh = linh hiển (tinh anh của khí âm
đúc kết gọi là linh và của khí dương gọi là thần) hoặc chơn linh hay linh căn
Nghĩa đen: phương Tây đất phước đón
linh căn
Ư nói: bên phía Tây của Việt Nam (tức
bên Campuchia) là vùng đất được trời ban ân sủng. Linh căn sẽ xuống và tụ ở đó
với sứ mạng giúp vạn dân bá tánh. Vùng đất
thu hút tinh anh.
479 - Cửu trùng
thụy ứng long thành ngũ vân
Cửu trùng = nhà vua = trên cao
Thụy = thụy tường = điềm lành
Ứng = báo = cho thấy = hiện ra
Long = rồng, vua = thịnh, hậu, đầy ùn lên = họp lại, tụ lại
Thành ngũ vân = biến năm sắc mây
Nghĩa đen: trên cao năm sắc mây hiện
điềm lành
Khi một vị chân
đế ở nơi nào th́ nơi đó có mây ngũ sắc che chở trên đầu và những thầy giỏi về
thiên văn sẽ nh́n thấy. Lúc hỏi về ư nghĩa
của câu 479 có một vị đại tiên đă phóng điển giải thích như thế này: “ngũ vân
thường thục đa thanh bạch, chân đế thiện mây toạ hư không.”
Hai câu 478-479 nói: có một vị chân đế
sẽ ở nơi vùng đất được trời ban phước, nằm ở phía Tây của đất Việt Nam (tức đất
Camphuchia bây giờ và thuộc vào lănh thổ Nam Bang sau này).
480 - Phá điền
thiên tử giáng trần
Điền = ruộng = trống lớn = đi săn
Nghĩa đen: Phá bỏ ruộng ông vua xuống
thế
Ư nói: phá chữ Điền th́ chữ Vương sẽ
hiện ra
Chiết tự: là chữ Quốc
Chữ Quốc có hai cách viết. Thông dụng nhất là chữ Quốc 國 giống như tên nước Trung Quốc. Chữ Quốc thứ hai囯 là chữ vương (vua hay thiên tử) nằm bên trong
bốn bức tường.
Mạc Đỉnh Chi đi sứ sang Tàu đă từng
dùng câu “Tù, nhân xuất, Vương lai thành Quốc” để đối với câu “An, nữ khứ, thỉ nhập vi Gia” của
triều thần nước Tàu.
Chữ Tù囚gồm chữ Nhân人nằm bên trong 4 bức tường giam囗
“Tù: Nhân xuất Vương lai thành Quốc”
tức là từ chữ Tù bỏ đi chữ Nhân th́ c̣n lại chữ Điền (thiếu nét) 囗rồi đặt vào chữ Vương 王 th́ thành chữ
Quốc囯
Chữ điền viết như thế
này: 田. Nhưng đ ôi khi trong lối chiết tự người ta dùng 4 bức tường chung
quanh không có gạch thập bên trong mà vẫn
nói là chữ Điền.
Do đó câu sấm nói “phá điền thiên tử giángtrần” hay
là nói “phá điền thiên tử xuất” tức là nói phá bỏ 4 khung tường th́ chữ
Vương (thiên tử) sẽ hiển lộ.
Đây là lối chiết tự để nói về chữ Quốc.
V́ từ chữ Quốc囯phá đi 4 bức tường (chử Điền thiếu nét) th́ chữ Vương 王sẽ lộ ra. .
Về mặt huyền cơ, câu 480 có ư tiết lộ danh tánh của vị chân đế và
trong tên họ của ông ta có chữ Quốc.
Tóm lại 3 câu 478, 479, 480 cho biết
là: phiá Tây của nước Việt Nam
(tức bên Campuchia) là đất linh địa trời ban cho , sau này sẽ có một vị chân đế
về trú nơi đó và vị chân đế mang chữ Quốc
sẽ xuất lộ từ đất đó.
481 - Dũng khí
nhược hải mưu thần nhược lâm
Dũng = gan dạ, mạnh bạo
Nhược = như, giống, tự nhiên, bằng, kịp, thuận = yếu, suy
Hải = biển
Mưu = tính toán, làm kế hoạch
Thần = người dưới quyền = không ai lường
biết được = cái môi
Lâm = rừng
Nghĩa đen: khí mạnh bạo như biển, mưu
khó thấy như rừng
Ư nói: hùng khí của vị chân đế đó mạnh
mẽ như là biển lớn. Mưu trí của vị chân đế
đó thâm sâu như là rừng dầy (v́ ông ta là
chơn linh lănh lệnh thiên đ́nh xuống thế giúp vạn dân bá tánh cho nên được sự pḥ trợ của long thần, thiên
binh thiên tướng nên khó có ai b́ được).
482 - Trần công
năi thị phúc tâm
Trần = họ Trần
Công = quan
Thị = coi nhau, đăi nhau
Phúc tâm = tấm ḷng, hết ḷng
Nghĩa đen: ông quan họ Trần là người
đối đăi hết ḷng
Ư nói: vị chân đế có một người hợp tác tâm phúc họ
Trần.
483 - Giang hồ
tử sỉ đào tiềm xuất du
Tử = con, gă = sắc tím = gánh vác =
chết
Sĩ = học tṛ = quan = đợi; hoặc
Sỉ = bị cách chức, bị lột mất phẩm
phục = xấu hổ
Xuất = ra ngoài, sinh ra, hiện ra, bỏ
Du = vụt, thoáng, chốn, nơi = xa, lo
lắng = ngắm xem = mưu kế
Đào Tiềm = nhân vật tên Uyên Minh, tự Nguyên Lượng đất Sài Tang, vào đời
Tấn, tính t́nh cao thượng, không cần danh lợi, ham học, giỏi thi văn. Ông làm huyện lệnh Bàng Trạch được 80 ngày
th́ từ quan v́ không chịu c̣ng lưng ṿng tay với bọn tiểu nhân. Sau đó về quê
sống cuộc đời an bần lạc đạo. [Hoặc: đào tiềm xuất du = trốn chạy ra hải
ngoại].
Nghĩa đen: gă bị lột mất phẩm phục
giống như Đào Tiềm sống cuộc đời giang hồ hải ngoại
Ư nói: người họ Trần tâm phúc của
vị chân đế trước đây đă từng làm quan trong một chính quyền nhưng là vị quan với
chức vụ rất thấp, không tên tuổi, và chỉ làm quan một thời gian rất ngắn (theo điển tích của ông Đào Tiềm) v́ bị lột áo (học tập cải tạo?). Sau đó ông họ Trần này đi ra hải ngoại (ứng
với hai chữ “xuất du”).
.
484 - Tướng thần
hệ xuất y chu
Tướng thần = tướng quốc ngày xưa,
vai tṛ thủ tướng ngày nay
Y = Y Doăn, người có công giúp vua
Thành Thang đánh Kiệt diệt Hạ dựng nhà Thươngï,
người tự xem ḿnh có trách nhiệm lo cho bá tánh
Chu
= Chu Công, em Chu Vũ Vương, thay cháu là Chu Thành Vương nhiếp chính lúc vua c̣n
bé. V́ lời dèm pha Chu Công dời chổ ở lánh
sang Đông Đô để vua được an ḷng. Sau
vua biết được tấm ḷng trong sạch v́ dân v́ nước v́ vua của ông nên hối hận rồi
rướt Chu Công về để cùng lo việc nước.
Nghĩa đen: tướng quốc thuộc loại Y
Doăn, Chu Công
Ư nói: cầm đầu nội các là người có tài năng, đức độ
và quyết tâm gánh vác trách nhiệm
485 - Thứ ky
phục kiến Đường, Ngu thi hành
Thứ = đến = trách = châm, tiêm,
chích
Ky = cơ
Phục = trở lại
Kiến = trông thấy
Đường, Ngu = nhà Đường và nhà Ngu,
hai triều đại được người đời ca tụng
Thi hành = thực hiện
Nghĩa đen: đến cơ trông thấy thực
hiện trở lại thời Đường, Ngu
Ư nói = đến lúc đi vào chu kỳ đại hồng vận của một
đất nước, mở ra một triều đại thịnh trị
Hai câu 484 & 485 nói: người họ
Trần này sẽ lănh trọng trách cầm đầu nội các thực thi chính sách tốt đẹp mang lại an lạc cho dân.
486 - Hiệu xưng
thiên hạ thái b́nh
Ư nói: vị chân đế cùng những người
phụ tá sẽ vạch ra một lộ đồ chính trị và
khi họ công bố quyết tâm lănh đạo đất nước (ứng với “hiệu xưng”) th́ lộ đồ của họ sẽ dẫn tới hoà b́nh, phồn
thịnh và an lạc cho tất cả bá tánh (ứng với “thiên hạ thái b́nh”).
487 - Đông tây
vô, xứ Nam
thành Quốc Gia
Ư nói: những quốc gia khác sẽ công
nhận việc làm của họ và đồng ư giúp. Một
quốc gia mới sẽ h́nh thành (ứng với “xứ Nam” và “thành quốc gia”) với sự công
nhận của Liên Hiệp Quốc (ứng với “Đông, Tây vô”).
Tổng Lược Đoạn
Thứ Nhất:
Câu 474 cho tới câu 477 cho biết bối
cảnh của đất nước khi vị chân đế xuất lộ.
Vị chân đế sẽ xuất lộ vào lúc có chiến loạn lớn.
Câu 478 cho tới câu 481 cho biết về
nơi chốn xuất lộ, danh tánh và trí tuệ của vị chân đế. Chân đế sẽ xuất lộ trên vùng đất phía Tây của
VN. Vị chân đế có danh tánh dính tới chữ
Quốc (hoặc họ, hoặc tên, hoặc chữ lót).
Câu 482 cho tới câu 485 cho biết
danh tánh, xuất thân, đức tin và chính sách của nhân vật phụ tá cho vị chân
đế. Một người họ Trần sẽ là vị phụ tá
tâm phúc của chân đế. Vị phụ tá này có
ḷng yêu thương bá tánh và sẽ thực thi
những chính sách thể hiện cao độ tính chất nhân bản.
Câu 486 và 487 cho biết bối cảnh
thành tựu sự nghiệp của vị chân đế. Một đất nước mới sẽ được h́nh thành với sự
công nhận của Liên Hiệp Quốc. Có lẽ là
một liên bang của vùng Đông Nam Á Châu được h́nh thành dưới sự khởi xướng của
vị chân đế.
Đây là những câu sấm cuối cùng của
gần 500 câu trong tập sấm kư của Trạng Tŕnh do đó vô cùng quan trọng. Chúng hé cho thấy hoàn cảnh xuất lộ và tên/họ
của cấp lănh đạo cao nhất, tài năng của họ, và khuynh hướng của những chính
sách sẽ được áp dụng trong tương lai.
|