Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 204 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Thời nay đoạn kết của Sấm Trạng ? Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
ngoctrongdda
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 26 November 2006
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 142
Msg 241 of 585: Đă gửi: 28 December 2006 lúc 11:03pm | Đă lưu IP Trích dẫn ngoctrongdda

Tại sao không phải là thiệt... h́nh như tôi đă trả lời đâu đó là khai sáng 1 đạo pháp mới ( hay niềm tin có thể bao gồm siêu linh ǵ đó....) cho cả dân tộc theo . Tôi không phải v́ 1 vài xích mích nhỏ mà quên đi sự tôn trọng tŕnh độ của người khác, chẳng qua lấy dẫn chứng sấm về cụ HCM , để gợi ư cho bạn Nhapmon giải thich  về phương xuấtthời điểm xuất  hy vọng đừng xử dụng nhầm gà với trâu ǵ đó thôi.

Tôi vẫn khẳng định  con TRÂU b́nh dị thân thương là người mà sấm Trạng nói tới , chứ không phải cụ HCM

Hy vọng có nhiều ư kiến tham gia để chúng ta càng sáng suốt thêm khi luận giải.Chẳng hạn nhờ bạn Vannuoc_77  cho tôi biết chữ Hán, cho nên tôi mới mở được ch́a khóa của chữ Mộc có  chữ Nhân  và chữ Thập ... và dựa vào đó tôi đoán được quê hương, có thể cả tên lẫn họ  và đời của ḍng họ.... và c̣n nhiều thứ nữa chăng nếu có nhiều cao nhân nhào vô

Quay trở về đầu Xem ngoctrongdda's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ngoctrongdda
 
nhoccon1412
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 15 March 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 329
Msg 242 of 585: Đă gửi: 29 December 2006 lúc 2:06am | Đă lưu IP Trích dẫn nhoccon1412

tiện đây cũng xin đăng bài nói về ma quỷ thời hiện đại :

Ma Quỉ Trong Thế Giới Ngày Nay

Trích đoạn do:
Việt Hà biên soạn
Thông Công số 161

Nhận Diện Ma Quỉ

V́ ma quỉ thuộc thế giới thần linh, chúng là những hữu thể vô h́nh, không thân xác cho nên con người không thể thấy hay xác định hoặc chứng minh bằng các phương pháp khoa học thực nghiệm. Hơn nữa phần lớn các thông tin liên quan đến ma quỉ đều có tính cách truyền miệng, tản mạn từ các kinh nghiệm riêng lẻ, cho nên kiến thức về ma quỉ v́ thế không thể tránh được tính chất chủ quan, phiến diện, phát sinh nhiều quan niệm sai lầm đối với thế giới thần linh.

Trước hết sai lầm thông thường nhất là quan niệm cho rằng ma quỉ là linh hồn người chết. Chúng ta không biết quan niệm này đă khởi nguyên từ đâu, nhưng ngay từ thời cổ con người đă có suy nghĩ này. Sử gia Do Thái Josephus sống vào hậu bán thế kỷ thứ nhất cũng tin như vậy và bảo rằng: “Linh hồn của những con người gian ác xâm nhập vào những người sống.” Đây là quan niệm phản ánh tư tưởng Hy-lạp không chứa đựng chân lư Thánh Kinh.

Phúc âm Luca 16:19-31 ghi lại câu chuyện về người giàu xấu nết và La-xa-rơ, qua đó Chúa Giê-xu tiết lộ cho chúng ta thấy một số chi tiết quan trọng sau đây về t́nh trạng con người sau khi chết. Mọi người sau khi từ giă cơi đời sẽ đi đến một nơi nhất định. Tại đó họ vẫn có đầy đủ ư thức về t́nh trạng hiện tại cũng như kư ức về quá khứ. Tuy nhiên đây là một t́nh trạng vĩnh viễn không ǵ có thể thay đổi được. Việc người chết trở lại dương thế là một điều vừa bất khả, vừa không cần thiết. Sau khi chết, thân xác con người tan vào trong ḷng đất theo như án lệnh của Đức Chúa Trời cho thủy tổ loài người là A-đam: “V́ ngươi là bụi, ngươi sẽ trở về với cát bụi.” C̣n thần linh hay linh hồn con người, “sẽ trở về nơi Đức Chúa Trời là Đấng đă ban” (Truyền Đạo 12:7), v́ khi Đức Chúa Trời tạo dựng con người, Ngài lấy đất nắn nên h́nh người rồi hà sinh khí vào lỗ mũi, loài người trở nên “linh hồn sống.” Trong khi đó ma quỉ là thần linh không có thân xác, được Đức Chúa Trời tạo dựng để phục vụ Ngài, nhưng v́ kiêu ngạo, phản loạn nên đă bị Đức Chúa Trời trừng phạt, trục xuất khỏi thiên đàng. Như vậy quan niệm cho rằng ma quỉ là linh hồn người chết hiện về không phải là quan niệm của Kinh Thánh. Tuy nhiên v́ là thần linh, ma quỉ có thể ảnh hưởng, tác động vào tâm trí, t́nh cảm hay thân xác con người, thậm chí chiếm hữu con người, nhất là những người cho phép nó chiếm hữu bằng cách liên lạc, nhờ cậy ma quỉ qua các họat động liên quan đến ma thuật - cầu cơ, bói toán, lên đồng, thờ cúng, bùa ngăi...



Ngày Nay Ma Quỉ Có C̣n Hoạt Động Không?

Chúng ta đă bàn đến những quan niệm sai lạc về ma quỉ mà thông thường nhất là cho rằng ma quỉ là hồn người chết hiện về, nhất là hồn những kẻ gian ác trở thành quỉ hoặc hồn những người chết oan hoặc “chưa tới số” phải chết. Tuy nhiên Kinh Thánh cho biết ma quỉ là các hữu thể thần linh, vốn là các thiên sứ của Đức Chúa Trời nhưng v́ kiêu ngạo, phản nghịch bị Ngài đuổi khỏi sự hiện diện của Chúa. Người và ma quỉ là hai tạo vật hoàn toàn khác nhau, loài nọ không thể biến thành loài kia. Có chăng là ma quỉ là thần linh với quyền phép hữu hạn, có thể xuất hiện trong h́nh dạng hoặc tiếng nói con người để lừa dối người sống trên trần gian.

Vấn đề chúng ta nêu lên là hoạt động của ma quỉ trong thế giới ngày nay ra sao? Các hoạt động của ma quỉ thể hiện dưới nhiều h́nh thức, từ chiêu bài ”Khoa Học Huyền Bí” trong thông linh thuyết đến các dạng mê tín dị đoan thật giả lẫn lộn làm nhiều người rối trí. Các sinh hoạt thần bí xâm nhập vào đời sống hàng ngày dần dần trở thành quen mắt như một sinh hoạt xă hội: xem chỉ tay, bói bài, đoán số tử vi, xin xâm, cúng vái, đốt vàng mă... Đi xa hơn nữa là các các cuộc lên đồng, cầu cơ, đến những người chơi bùa ngăi, ếm chú. Ngay tại các nước Tây phương, các hoạt động có tính cách thần bí như gọi hồn, bói bài, đoán số mạng, dùng quả cầu pha lê, dùng con lắc không phải là hiếm. Việc thờ Sa-tan ở các nước Tây Phương cũng là một hiện tượng thần bí ghê tởm.

Hội thờ Sa-tan gần như một loại hội kín có khoảng 10 có trụ sở trên nước Mỹ và Canada với khoảng 10,000 hội viên. Phần lớn các hội viên đều gia nhập bằng thư từ, được tổ chức thành các nhóm gọi là grottos. Người đứng đầu gọi là thầy thượng tế cũng là hội viên sáng lập của hội thờ Sa-tan là Anton Szandor La Vey là người đă viết Kinh Sa-tan năm 1969, và bảo rằng đă bán ra trên 250,000 bản. Ngoài tờ tin tức hàng tháng lưu hành trong ṿng các độc giả gửi mua, La Vey cũng xuất bản một cuốn sách nói về kỹ thuật bẫy bắt con người, dành cho các tay phù thủy của hội. Sau khi La Vey chết, người kế nhiệm làm thượng tế là Peter Gilmore. Hiện nay, một tổ chức khác tách ra từ hội thờ Satan lấy tên là Hội Satan Thứ Nhất với thượng tế là Lord Egan vốn là môn đệ của Anton La Vey từ thập niên 70 cũng có những hoạt động về căn bản như hội thờ Sa-tan của La Vey.

Có một danh sách chín điều về Sa-tan tất cả hội viên phải chấp nhận, đó là Sa-tan đại diện cho (1) Cuộc sống dung tục, (2) sống cuồng, (3) khôn quỉ, (4) chỉ tử tế với người đáng đối xử tử tế, (5) tinh thần báo thù, (6) chỉ chịu trách nhiệm với những người có tinh thần trách nhiệm, (7) chủ trương con người có bản chất của thú vật, ( chấp nhận tất cả những điều vẫn thường được gọi là ”tội lỗi”, và (9) Sa-tan là bạn tốt nhất của hội v́ đă giúp cho hội duy tŕ hoạt động suốt nhiều năm qua. Hội thờ Sa-tan chủ trương sống theo duy vật tối đa, và nỗ lực chống phá Cơ-đốc nhân. Triết lư sống của hội Sa-tan là t́m lạc thú v́ vậy hội Sa-tan đă tận dụng và lợi dụng mọi thú vui trần gian cung cấp làm phương tiện nô lệ hóa hội viên của chúng ngay cả bằng những nghi lễ đầy tính chất dâm ô mà chỉ các hội viên mới được tham dự và không được phép tiết lộ cho những người không phải là hội viên.



Đặc Tính Của Ma Quỉ

1. Ma quỉ là thần linh không có thân xác hữu h́nh (Ê-phê-sô 6:12)

2. Nguyên thủy, ma quỉ được tương giao với Đức Chúa Trời (Giu-đe 6)

3. Ma quỉ khá đông (Mác 5:8,9)

4. Ma quỉ có tổ chức (Ma-thi-ơ 12:24)

5. Ma quỉ có quyền lực siêu nhiên, làm được những việc quyền năng làm các dấu lạ (Khải Huyền 16:14)

6. Ma quỉ biết Đức Chúa Trời (Mathiơ 8:29)

7. Ma quỉ được phép đi dông dài trên đất để bách hại, ức hiếp con người (Ma-thi-ơ 12:43-45)

8. Ma quỉ có thể gây nên bịnh tật (Ma-thi-ơ 9:32,33)

9. Ma quỉ có thể chiếm hữu và kiểm soát thú vật (Mác 5:13)

10. Ma quỉ có thể chiếm hữu và kiểm soát con người (Lu-ca 8:2)

11. Ma quỉ đôi khi gây nên t́nh trạng xáo trộn tâm trí, điên loạn (Mác 5:2,3,5)

12. Ma quỉ biết Chúa Cứu Thế Giê-xu là Đức Chúa Trời (Mác 1:23,24)

13. Ma quỉ run sợ trước Chúa (Gia-cơ 2:19)

14. Ma quỉ dạy các giáo lư sai lạc (I Ti-mô-thê 4:1)

15. Ma quỉ chống lại dân Chúa (Ê-phê-sô 6:12)

16. Ma quỉ cố sức chống phá Nước Trời (I Phi-e-rơ 5:

17. Có khi Đức Chúa Trời sử dụng các hành động của ma quỉ để làm thành các mục tiêu của Ngài (Quan Xét 9:23)

18. Đức Chúa Trời sẽ phán xét ma quỉ trong cuộc phán xét ngày cuối cùng (2 Phi-e-rơ 2:4)



Hiện Tượng Quỉ Ám

Một trong các hoạt động nổi bật của ma quỉ là hiện tượng quỉ ám hay quỉ nhập. Kinh Thánh xác nhận có hiện tượng này và đây là t́nh trạng con người bị ma quỉ khống chế, kiểm soát, cuối cùng chiếm hữu (Mác 5:1-20; 7:24-30; 9:17-29). Dựa trên các trường hợp bị quỉ ám có ghi trong Tân ước, chúng ta có thể phác họa những đặc tính của hiện tượng quỉ ám như sau:

1. Thay đổi cá tính hay nhân cách (bao gồm cả các đặc tính về trí thông minh, ư thức đạo đức, thái độ, vẻ mặt hay dáng dấp bên ngoài)

2. Thay Đổi Về Thể Lư

* Có sức mạnh phi thường

* Bị co giật, kinh phong, sùi bọt mồm

* Có những dấu hiệu bệnh hoạn, té ngă

* Ư thức bị che mờ, không biết đau đớn

* Giọng nói thay đổi

3. Thay Đổi Về Tâm Trí

* Nói nhiều thứ tiếng; hiểu những ngôn ngữ chưa biết (một h́nh thức ân tứ giả mạo, đối kháng với ân tứ nói tiếng lạ trong Kinh Thánh)

* Có kiến văn rộng răi

* Có năng lực ma thuật và siêu linh như biết hay nh́n thấu suốt sự vật (clairvoyance), khả năng thần giao cách cảm và tiên đoán tương lai

4. Những Biến Đổi Tâm Linh

* Có phản ứng sợ hăi Chúa Cứu Thế Giê-xu; phạm thượng nhưng với ḷng ân hận

* Bị tác động bởi sự cầu nguyện

5. Có thể được giải phóng trong danh Chúa Giê-xu

Tóm lại, trên đây là một số các đặc tính của ma quỉ: ma quỉ là các hữu thể thần linh không có thân xác cho nên con người không thể thấy và cảm nhận được sự hiện diện của ma quỉ bằng giác quan nhưng ma quỉ không phải là những thế lực phi nhân cách, mà có cá tính, có vị cách, có tên riêng.



Các Đặc Tính Liên Quan đến Tri Thức, Sức Mạnh và T́nh Trạng Suy Đồi Của Ma Quỉ

1. Tri Thức Của Ma Quỉ

Theo triết gia Plato, từ ”ma quỉ” phát xuất từ nguyên ngữ Hy lạp daimon nghĩa là ”thông minh” hay ”hiểu biết” cho thấy đặc tính quan trọng của ma quỉ là tri thức. Sự khôn ngoan và tri thức của ma quỉ vượt xa tri thức con người. Tuy nhiên Kinh Thánh cho biết ma quỉ vốn là các thiên sứ sa ngă, cho nên sự khôn ngoan của ma quỉ đă suy đồi trở thành cực kỳ gian ác (Ê-xê-chi-ên 18:12,17). Ma quỉ đă tận dụng sự khôn ngoan và trí thông minh để chống lại Đức Chúa Trời và những ngựi thuộc về Ngài, nhưng đồng thời ma quỉ cũng run sợ trước uy quyền tối thượng và vinh quang của Chúa (Gia-cơ 2:19).

Sự kiện người ta đi cầu hỏi đồng cốt, thầy bói để biết trước tương lai, hậu vận, ngoại trừ những trường hợp bịp bợm, nếu những tri thức đó đến từ ma quỉ th́ có nhiều khả năng là sẽ đúng, v́ ma quỉ có thể biết trước một phần tương lai. Sách Công Vụ Các Sứ Đồ chương 16 ghi lại trường hợp một nữ nô lệ bị quỉ Phi-tôn ám khiến cho cô có khả năng bói khoa, kiếm lợi rất nhiều cho chủ. Tri thức về tương lai của ma quỉ là một trong những khả năng hấp dẫn con người hơn hết, nhất là những người đang lo lắng cho hậu vận của chính ḿnh hoặc của những người thân. Người Việt-nam thường hay bàn chuyện tương lai trong dịp đầu xuân. Các thanh niên thiếu nữ thường muốn biết trước về đường t́nh duyên, thi cử, công danh sự nghiệp; những gia đ́nh đang có nan đề th́ nghĩ đến gia đạo, công việc làm ăn trong năm mới... V́ chuyện tương lai nằm ngoài tri thức con người, nên người ta đă t́m đến với đồng cốt, thầy bói để hỏi về hậu vận mà không biết rằng thầy bói, đồng cốt, chiêm tinh gia là công cụ trong tay ma quỉ, được ma quỉ sử dụng. Họ là các trung gian để tiên đoán tương lai mà trong nhiều trường hợp rất đúng, khiến cho càng ngày càng có nhiều người tin phục. V́ thế không phải tất cả các chiêm tinh gia hay thầy bói đều là những người nói dựa hay đoán ṃ, hoặc bịp bợm, mà có nhiều trường hợp họ là những người có tri thức về tương lai bắt nguồn từ ma quỉ. Tuy nhiên cần nhớ rằng dù ma quỉ biết trước một phần tương lai, nhưng Đức Chúa Trời vẫn là Đấng cầm quyền tể trị trên mọi sự và không có điều ǵ xảy ra ngoài quyền tể trị đó. Ma quỉ biết trước một phần tương lai mà không biết trước tất cả tương lai. Ma quỉ biết trước tương lai nhưng không quyết định hay điều khiển tương lai. Quyền tuyệt đối vẫn hoàn toàn trong tay Đức Chúa Trời.

Khi nói về tri thức và sự khôn ngoan của ma quỉ, chúng ta cũng cần nhớ rằng Sa-tan và ma quỉ đă và đang tận dụng hết mọi khả năng để lừa dối con người trong việc t́m hiểu và tiếp nhận chân lư của Đức Chúa Trời. Chúa Giê-xu cho biết ma quỉ là kẻ nói dối và là cha sự nói dối. Ma quỉ công nhận Chúa Giê-xu là Chúa nhưng không tin cậy, không tùng phục Ngài (Mác1:24; 5:6,7). Chúng khôn khéo giấu kín tri thức về sự nhập thể (trở thành người) của Chúa Giê-xu để con người không biết, không tin (I Giăng 4:1-6). Ác hại nhất là chúng là kẻ cướp hạt giống đạo trong ḷng những người nghe Tin Mừng (Lu-ca 8:12). Chúng cũng đưa ra những giáo lư sai lạc (I Ti-mô-thê 4:1-3). Chúng phân biệt được những ai có dấu ấn của Đức Chúa Trời và những ai không có (Khải Huyền 9:4). Chúng cũng biết số phận hư vong đời đời Đức Chúa Trời dành sẵn cho chúng (Ma-thi-ơ 8:29).



2. Sức Mạnh Của Ma Quỉ

Tri thức và sự khôn ngoan siêu nhân của ma quỉ cũng kèm theo với sức mạnh thể lư phi thường. Vốn là các thiên sứ nên ma quỉ cũng có các đặc trưng sức mạnh của các hữu thể thần linh này. Thi Thiên 103:20 cho biết các thiên sứ của Đức Chúa Trời “có sức mạnh làm theo mạng lịnh Chúa”. Sứ đồ Phi-e-rơ cũng cho biết thiên sứ là “các đấng có sức mạnh và quyền phép” (2 Phi-e-rơ 2:11).

Sức mạnh của ma quỉ là sức mạnh của các thiên sứ nhưng được sử dụng trái tự nhiên vào những mục đích gian ác, suy đồi. Khi chiếm hữu một người nó có thể sử dụng thân xác người đó để phóng ra sức mạnh siêu nhiên, như trường hợp người bị quỉ ám tại Ga-đa-ra. Người này bị một lực lượng ma quỉ rất đông nhập vào, khiến cho người có sức mạnh đến nỗi bẻ xiềng, tháo cùm và không ai có sức chế ngự nổi. Phúc âm Mác kư thuật như sau: “Người thường ở nơi mồ mả, dẫu dùng xiềng sắt cũng chẳng ai cột trói được nữa; v́ nhiều lần người bị cùm chân hoặc bị xiềng, rồi bẻ xiềng tháo cùm, không ai có sức trị được” (Mác 5:4). Bầy quỉ đông và mạnh đến nỗi khi Chúa Giê-xu cho phép nó nhập vào bầy heo, đă khiến cho cả bầy hai ngàn con heo hoảng loạn đâm đầu xuống biển. Với sức mạnh dị thường đó ma quỉ đă khiến cho người bị quỉ ám trở nên hung dữ điên cuồng v́ cả thân xác cho đến tâm trí cũng đều bị quỉ chế ngự. Sức mạnh siêu h́nh của quỉ không chỉ là thể lực mà c̣n là sức mạnh cột trói về tâm trí và cả tâm lư, khiến cho nạn nhân của chúng rơi vào trạng thái u tối và căng thẳng tinh thần có thể đến độ hoàn toàn suy xụp. Chúng khống chế tâm trí nạn nhân, khiến nạn nhân nuôi ḷng thù hận, buồn giận, có khi xúi giục nạn nhân hủy hoại sự sống của chính ḿnh. Phúc âm Mác ghi lại t́nh trạng này như sau: “Người cứ ở nơi mồ mả và trên núi, ngày đêm kêu la và lấy đá đánh bầm ḿnh”(c. 5). Như vậy khuynh hướng tự hủy hoại là một trong những dấu hiệu quan trọng liên quan đến t́nh trạng ở trong xiềng xích của ma quỉ.

_ Thường thánh nhân sau khi mất đi không muốn ḿnh được ướp xác hay làm cái ǵ để bảo tồn cá nhân họ cả như Phật Thích Ca ,Chúa Giê Su , đức Trần Hưng Đạo , Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm ... c̣n ma quỷ th́ ngược lại .   

__________________
_/|\_ Nam Mô A Di Đà Phật _/|\_

http://phapam.good.to
Quay trở về đầu Xem nhoccon1412's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nhoccon1412
 
NhapMon
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 243 of 585: Đă gửi: 29 December 2006 lúc 4:53pm | Đă lưu IP Trích dẫn NhapMon

"Ngẩm về sau họ Lư xưa nên"

"Ngày 17 tháng 9 năm 1957, Tổng-thống miền Nam là Ngô Đ́nh Diệm công du Đại-hàn. (1). Năm sau, ngày 6 tháng 11 năm 1958, Tổng thống Đại-hàn dân quốc là Lư Thừa Văn, viếng thăm Việt-Nam. Trong dịp này ông đă tuyên bố rằng tổ tiên ông là người Việt."



Nguyên tổ hai gịng họ Lư tại Đại-Hàn

ĐI T̀M CON CHÁU THUYỀN NHÂN VIỆT NAM CÁCH ĐÂY 849 NĂM
Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ

    Ngày 17 tháng 9 năm 1957, Tổng-thống miền Nam là Ngô Đ́nh Diệm công du Đại-hàn. (1). Năm sau, ngày 6 tháng 11 năm 1958, Tổng thống Đại-hàn dân quốc là Lư Thừa Văn, viếng thăm Việt-Nam. Trong dịp này ông đă tuyên bố rằng tổ tiên ông là người Việt. Báo hồi ấy có tường thuật sơ sài. C̣n chính quyền th́ gần như không để ư đến chi tiết lịch sử này.

    Ghi chú: (1) Trong chuyến đi này, Tổng-thống Ngô Đ́nh Diệm cho một sĩ quan tháp tùng, mà người ưu ái v́ ḷng yêu nước, tin tưởng v́ ḷng trung thành là Dương Văn Minh. Nhưng cũng tương đương với ngày tháng này, sáu năm sau, Dương Văn Minh tuân lệnh Hoa-kỳ, giết chúa.

Bấy giờ, đệ nhất Cộng-ḥa thành lập chưa quá hai năm, mới chỉ có viện Khảo-cổ, không có cơ quan nghiên cứu lịch sử. Cho nên không ai nghĩ đến việc sang Đại-hàn t́m hiểu xem họ Lư từ Việt Nam, đă di sang đây từ bao giờ? Ai là nguyên tổ của họ?

     Thời gian này tôi mới 18 tuổi, vừa bước chân vào đại học. Nhưng nhờ thấm nhuần Nho-giáo, nên đă chững chạc lắm rồi. Tôi viết thư cho sứ quán Đại-hàn tại Việt-Nam để hỏi về chi tiết này. Dĩ nhiên tôi viết bằng chữ Nho. Hơn tháng sau tôi được thư trả lời của tộc Lư tại Nam-hàn. Trong thư, họ cho tôi biết rằng: "Tổng-thống Lư Thừa Văn là hậu duệ đời thứ 25 của Kiến-b́nh vương Lư Long Tường. Kiến B́nh vương là con thứ 6 của vua Lư Anh-tông. Người cùng tông tộc sang Cao-ly vào đầu thế kỷ thứ 13 v́ quốc nạn". Ánh sáng đă mở ra trước mắt tôi. Nhưng tôi tra trong Đại-Việt sử kư toàn thư (ĐVSKTT), trong Việt-sử lược (VSL), trong Khâm-Định Việt-sử thông giám cương mục (KĐVSTGCM), không bộ nào nói đến Kiến B́nh vương Lư Long Tường cả.

    Ṭ ṃ chưa được thỏa măn, nhưng tôi đành bỏ qua, v́ bấy giờ tôi phải dồn hết tâm tư vào việc học. Năm 1959, trong khi lục lọi tại thư viện Paris, vô t́nh tôi đọc được Tập-san sử địa của Nhâ.t-bản, số 2 năm 1941, trong đó nói vắn tắt rằng: "Năm Bính Tuất, 1226, bấy giờ là niên hiệu Kiến-trung thứ nh́ đời vua Thái-tôn nhà Trần. Biết ḿnh là con thứ sáu vua Lư Anh-tông, lại đang giữ chức đô đốc, tư lệnh hải quân, trước sau ǵ cũng bị Trần Thủ Độ hăm hại, nên ông đă đem tướng sĩ dưới quyền, tông tộc, cùng hạm đội ra đi, sau đó trôi dạt vào Cao-ly".

    Tôi tự hẹn, sau này có tiền sẽ sang Đại-hàn t́m hiểu chi tiết này.

    Thế nhưng, sau khi ra trường, 1964, tuy đă có chỗ đứng vững chắc về phương diện tài chánh. Ngặt v́ nghề sinh nhai lối dọc đường ngang, tôi vẫn không thực hiện được cái ước vọng sang Hàn quốc, t́m hiểu về nguồn gốc họ Lư tại đây.

    Măi tới năm 1980, tháng 8, tôi đi trong phái đoàn Pháp, sang dự đại hội y khoa tại Hàng-châu Trung-quốc. Ở đại hội, tôi được tiếp xúc với phái đoàn Bắc-hàn. Phái đoàn này có bác sĩ Lư Chiếu Minh ở Hùng-xuyên (Hunchon) và bác sĩ Lư Diệp Oanh ở Thuận-xuyên (Sunchon). Bấy giờ tôi đă 41 tuổi, c̣n Diệp Oanh mới 30 tuổi. Tuy là bác sĩ, thế nhưng cô tươi như hoa lan, phơi phới như hoa thủy tiên ban mả. Thấy mỗi bữa ăn cô lẩm nhẩm đọc kinh mà không làm dấu thánh giá, tôi cho là cô đọc kinh Phật. Trêu cô tôi cũng đọc kinh Bát-nhă bằng tiếng Việt. Cô hỏi tôi:
               · Ủa! Anh đọc kinh cảm ơn Tổng-thống Valéry Giscard đấy à?
               · Không! Tôi đọc kinh Phật. Thế cô đọc kinh ǵ vậy?
               · Phật đâu có cho anh cơm ăn, áo mặc ?
               · Vậy cô đọc kinh ǵ ?
               · Tôi đọc kinh cảm ơn cha già Kim Nhật-Thành đă cho chúng tôi đươc tự do, có cơm ăn, áo mặc! (2)

Ghi chú (2) Tại Bắc-Hàn, thịnh thời của Chủ-tịch Kim Nhật Thành, để tỏ ḷng tôn kính lănh tụ ; toàn quốc, khi ăn cơm, sáng dậy, tối đi ngủ đều đọc kinh tạ ơn Kim chủ tịch. Nghe cô nói, tôi hơi ngạc nhiên, nhưng tôi biết đó là niềm tin của cô, tôi không dám đùa, không thắc mắc.

    Song thấy cô xinh đẹp, tôi tỏ một cái ǵ cho có vẻ nịnh đầm, theo thói thông thường của y giới Pháp:
"Ở nước tôi, vào thế kỷ thứ 12, dưới triều vua Lư Anh-tông, tổ tiên tôi là Trần Thủ Huy được gả công chúa Đoan Nghi...". (3)

Ghi chú (3) Theo gia phả của con cháu Chiêu-quốc vương Trần Ích Tắc tại Trường-sa Trung-quốc, th́ một tướng triều Lư Anh-tông là Trần Thủ Huy được giả công chúa Lư Đoan Nghi, con vua Anh-tông. Thái-sư Trần Thủ Độ của triều Trần là con của Pḥ-mă Thủ-Huy và Công-chúa Đoan-Nghi.

     Diệp Oanh cắt lời:" Sang đầu thế kỷ thứ 13, cũng tổ tiên anh là Trần Liễu được gả công chúa Thuận Thiên, Trần Cảnh được vua Chiêu Hoàng tuyển làm chồng. Rồi tổ tiên anh xua đuổi, nên tổ tiên tôi thành thuyền nhân, ngày nay Hàn quốc mới có họ Lư". À! Vạn lư tha hương ngộ tri kỷ đây. Biết rất rơ Diệp Oanh là con cháu của Kiến B́nh vương Lư Long Tường, tôi đùa thêm: "Biết đâu cô không là công chúa Đoan Nghi, tôi không là Trần Thủ Huy tái đầu thaỉ. Có lẽ chúng ḿnh nên đi tiếp con đường tổ tiên ḿnh đă đi". Diệp Oanh vă tôi một cái vào má trái, tỏ cử chỉ thân thiện. Song chúng tôi bắt con tim ngừng phiêu lưu ở đây, v́ bấy giờ bà vợ tôi c̣n sống, c̣n quá trẻ; vợ chồng lại rất tương đắc ngoài đời, nồng thắm trong pḥng the. Thế rồi chúng tôi nhận họ. Đặc biệt là trong lúc đối thoại, Chiếu Minh với Diệp Oanh cứ tự hào cái gốc Việt của ḿnh. Suốt đại hội, tôi với Chiếu Minh, Diệp Oanh gần nhau như bóng với h́nh. Tôi kể cho hai người nghe về những trang sử rực hào quang dưới thời Lư, nhất là huyền sử về Linh Nhân hoàng thái hậu (Ỷ Lan). Sau đại hội, Chiếu Minh, Diệp Oanh rủ tôi du lịch Bắc-Hàn. Bấy giờ là thịnh thời của chủ tịch Kim Nhật Thành, Bắc-Hàn khép kín cánh cửa với thế giới bên ngoài. Tuy nhiên nhờ mang thông hành Pháp, nên ṭa đại sứ Bắc-Hàn ở Bắc-kinh cho tôi cái chiếu khán được du lịch nghiên cứu về nhân sâm trong 8 ngày. Tới Bắc-Hàn, ông đại sứ Pháp tưởng tôi đi nghiên cứu nhân sâm thực. Ông lệnh cho văn pḥng tùy viên văn hóa giúp đỡ tôi. Tôi tự biết ḿnh có địa vị, có danh dự, không muốn nói dối ông đại sứ. Tôi thú thật là đi t́m một số tài liệu lịch sử của tổ tiên tôi về thế kỷ thứ 12. Dù biết tôi mượn danh đi nghiên cứu y khoa, mà Ủy-ban y học Pháp- Hoa (Commité Médical Franco-Chinois viết tắt là CMFC) dư thừa tài chánh đài thọ tất cả phí tổn cho tôi. Thế nhưng sứ quán Pháp vẫn giúp đỡ tôi tận t́nh. Nào cung cấp xe, cung cấp tài xế, gửi thư giới thiệu.v.v. Kể ra làm công việc nghiên cứu của Pháp cũng sướng thực. Xin cảm ơn tinh thần yêu văn hóa của nước Pháp. Tại Hùng-xuyên, cũng như Thuận-xuyên, các chi họ Lư tiếp đón tôi rất niềm nở. Buồn là các cuộc đàm thoại bị giới hạn khá nhiều, tôi phải uốn cong lưỡi dùng tiếng Quan-thoại nói với Chiếu Minh và Diệp Oanh. Hai vị này dịch sang tiếng Đại-hàn. Các chi họ Lư xin phép chính quyền, rồi tổ chức những buổi hội, để nghe tôi nói chuyện về thời đại Tiêu-sơn tức thời Lư.

Khi nghe kể đến đoạn công chúa Bảo Ḥa tu tiên, cho đến tuổi 90 vẫn trẻ như hồi 17 tuổi, cử toạ suưt xoa sung sướng. Lại khi nghe tôi thuật giai thoại vua Lư Thánh-tông, đang đêm trốn khỏi hoàng cung, gặp cô thôn nữ Yến Loan, rồi sau đưa về cung phong làm Ỷ Lan phu nhân; cử tọa vỗ tay hết tràng này đến tràng khác. Khi nghe tôi kể đến các công chúa B́nh Dương, Kim Thành, Trường Ninh trấn ngự biên cương khiến các quan Tống ở Nam-biên nghe đến tên đều kinh hồn vỡ mật. Các cô ngửa mặt lên nh́n trần nhà cười đầy vẻ hănh diện. Lúc mà tôi thuật đến đoạn Quách Quỳ, Triệu Tiết đem đại quân phá vỡ pḥng tuyến Như-nguyệt (1076), tiến đến rừng tre, cách Thăng-long có 25 cây số...

Trong pḥng có đến hơn 700 người, mà không một tiếng động. Rồi tôi kể tiếp: Công chúa Thiên Ninh đánh bật quân Tống trở về Như-nguyệt, th́ pḥng hội hoan hô đến muốn rung động thành phố. Tôi thuật tiếp đến đoạn công chúa tuẫn quốc, th́ cả pḥng hội đều khóc nức nở. Những người khóc nhiều nhất lại là những thiếu niên. Đền thờ Linh-Nhân hoàng thái hậu (Ỷ-Lan) ở xă Dương-xá, huyện Gia-lâm, Hà-nội.    Đây là 1 trong 9 đền thờ ngài, vẫn c̣n tồn tại. Hầu hết những chi họ Lư đều đem gia phả ra hỏi tôi những chi tiết mà họ không hiểu. Tất cả gia phả đều viết bằng chữ Nho. Như gia phả của chi Thuận-xuyên, có đôi câu đối: Thập-bát anh hùng giai Phù Đổng, Tam thiên nữ kiệt tỷ Mê-linh. ( Mười tám anh hùng đều như Phù Đổng thiên vương. Ba ngh́n nữ kiệt đều có thể sánh với Trưng-vương).

Tôi phải moi trí nhớ, để đọc cho họ chép lại tiểu sử 18 danh tướng vào thời vua Lư Nhân-tông, kháng Tống tuẫn quốc. Tôi lại phải thuật cho họ nghe về công chúa Thiên Ninh (Bà chúa kho) có 3 ngh́n nữ binh. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết mang quân sang Đại-Việt, phá vỡ pḥng tuyến Như-nguyệt tiến về Thăng-long. Quân Tống nhập vào pḥng đai pḥng thủ chỉ cách Thăng-long có 25 cây số, bị công chúa đánh bật trở về Bắc sông Như-nguyệt. Sau đó công chúa cùng 3 ngh́n nữ kiệt đều tuẫn quốc. (4)

Ghi chú (4) 18 anh hùng đánh Tống, kháng Tống thời Lư, trong sử không ghi, nhưng tôi đă t́m ra tên, và đền thờ, nhờ tài liệu rải rác trong các thư tịch Trung-quốc, đó là
1. Lư Hoằng Chân,
2. Lư Chiêu Văn,
3. Bùi Hoàng Quan,
4. Dư Phi,
5. Nguyễn Căn,
6. Hoàng Kiện,
7. Phạm Dật,
8. Vũ Quang,
9. Đinh Hoàng Nghi,
10. Lư Đoan,
11. Trần Ninh,
12. Trần Di,
13. Dương Minh,
14. Triệu Thu,
15. Mai Cầm,
16. Quách Y,
17. Ngô Ức,
18.Ta. Duỵ
(Xin đọc hành trạng của các ngài trong bộ Nam-quốc sơn hà của Trần Đại Sỹ, do Đại-Nam Hoa Kỳ ấn hành).

    Hầu hết các chi, khi nghe tôi nói rằng: Triều Trần kế tục triều Lư. Nhưng các vua triều Trần đều dành ra một số ruộng đất lớn, cho tá điền cầy cấy, thu tô để làm phương tiện hương khói, thờ cúng, tu bổ lăng tẩm 9 đời vua triều Lư... đều hài ḷng. Các triều đại kế tiếp như Lê, Nguyễn vẫn giữ nguyên truyền thống này.Măi đến năm 1956, trong cuộc cải cách ruộng đất, những ruộng đất này mới bị lấy lại lập hợp tác xă. Tuy nhiên đây là những di tích lịch sử, nên kể từ năm 1962, bộ Văn-hóa của nước Việt-Nam dân chủ cộng ḥa (Bắc Việt-Nam) đă ban nghị định công nhận là di tích văn hóa, lịch sử, và cử cán bộ bảo quản rất kỹ.

    Cổng trong đền thờ Bà chúa kho (Công chúa Thiên-Ninh) tại Thi.-cầu Bắc-ninh. Sau cổng trong tới tiền đ́nh đền thờ Bà chúa kho

Ghi chú, Triều Lư có 8 vị vua, nhưng tôi vẫn coi Lư Chiêu-Hoàng là vị vua thứ 9, chứ không dám coi thường Ngài. Bác-sĩ Diệp Oanh dẫn tôi thăm những vùng đất linh của gịng họ Lư. Thực là kỳ điệu, dưới chế độ Bắc-Hàn chủ trương hủy diệt tất cả những ǵ là văn minh của tổ tiên, để chỉ c̣n biết đến cha già dân tộc Kim Nhật Thành. Thế nhưng gịng họ Lư vẫn giữ ǵn được những di tích của tổ tiên. Nào cửa biển Phú-lương giang nơi hạm đội của Kiến- b́nh vương cập bến Cao-ly, nào Ung-tân, nơi đầu tiên họ Lư làm nhà ở, nào ngọn đồi Julhang thuộc xă Đỗ-môn (Tô-mơ-ki) nơi có lăng của Kiến B́nh vương Lư Long Tường. Tôi cũng được lên Quảng-Đại sơn thăm Vọng-quốc đài, là nơi vương lên nh́n về quê hương.

    Sau đó, với quyết tâm t́m lại dấu vết người xưa, năm 1983, tôi lên đường đi Nam-hàn để t́m hiểu thêm về gịng họ Lư. Tiếc rằng hạm đội của Lư Long Tường tới Hàn-quốc táp vào miền Bắc, v́ vậy dường như tại Nam-hàn không có một chút di tích nào của ông. Gịng họ Lư sống tại Nam-hàn rất ít, tổng số chưa quá ngh́n hộ, nhưng họ đều là những người kiệt hiệt trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, thương mại, kỹ nghệ. Về t́nh cảm, họ cũng giống như người Bắc hồi 1954 di cư vào Nam, mang theo rất ít di vật, gia phả về tổ tiên ḿnh. Không nhà nào mang được gia phả cổ. Gia phả mà họ cho tôi xem, hầu hết là mới chép gần đây. Nội dung lại quá nhiều sai lạc. Như chép về việc ra đi của Kiến B́nh vương, gia phả nói rằng họ Lư bị Trần Thủ Độ cướp ngôi, Lư Long Tường cầm quân chống lại, bị thua. Về Lư Chiêu Hoàng, họ chép là hoàng hậu của vua Lư Huệ Tông!(5)

Ghi chú (5) Sau đó tôi đă giúp họ hiệu đính lại những chỗ sai lầm trong gia phả của họ..

Ḍng thứ nhất:
Hậu duệ Kiến Hải vương, hay họ Lư Tinh-thiện. Thế nhưng, tại Nam-hàn tôi gặp ông Lư Gia Trung. Ông cho biết, tổ tiên ông là người Việt, nhưng không thuộc gịng dơi Kiến B́nh vương. Tổ tiên ông là Kiến Hải vương Lư Dương Côn, đă đến Cao-ly hồi đầu thế kỷ thứ mười một. Quư độc giả có biết tâm trạng tôi bấy giờ ra sao không ? Kinh ngạc, bàng hoàng, đờ đẫn cả người ra, trong khi chân tay run run. V́ trong khi nghiên cứu về triều Lư, tôi biết một huyền sử vắn tắt như sau : "Vua Lư Nhân-tông không có hoàng nam, người nhận con của các thân vương trong hoàng tộc làm con nuôi. Năm Đinh Dậu (1117) nhận con của hầu Sùng Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng làm con nuôi.

Sau truyền ngôi cho con của Sùng Hiền hầu là Lư Dương Hoán, tức vua Lư Thần-tông. Khi Lư Thần-tông băng, Thái-tử Thiên-tộ c̣n bế ngửa, triều thần muốn tôn con của Thành Quảng hầu là Lư Dương Côn lên nối ngôi. Cuộc tranh quyền trong gịng họ Lư diễn ra, sau vợ của vua Lư Thần-tông nhờ có t́nh nhân là Đỗ Anh Vũ giúp đỡ, mà loại hết các địch thủ. Năm Canh Ngọ (1150) nhân vụ chính biến, Cảm Thánh thái hậu mưu với t́nh nhân Đỗ Anh Vũ giết hết tông tộc của các hầu Thành Khánh, Thành Chiêu, Thành Hưng. Bấy giờ con Thành Quảng hầu là Kiến Hải vương Lư Dương Côn đang là đô đốc Thủy-quân, bèn đem gia thuộc xuống chiến thuyền lưu vong. Song không biết đi đâu (1150) ".

    Bây giờ, sau 831 năm, tôi gặp lại hậu duệ của Kiến Hải vương. Tâm tư rúng động ! Hỡi ơi ! Tại Hàn-quốc có tới hai gịng họ Lư, gốc là thuyền nhân Đại-Việt. Tôi ghi chú tất cả những ǵ mà gịng họ Lư của Kiến Hải vương cung cấp để khi viết về thời đại Tiêu-sơn c̣n có thêm tài liệu. Cuối năm 1996, một nhà nghiên cứu tộc phả nổi tiếng của Nam-hàn là giáo sư Phiến Hoằng Cơ (Pyon Hong Ke) công bố kết quả cuộc nghiên cứu của ông rằng ông đă phát hiện một gịng họ Lư thứ nh́, tại Đại-hàn, được gọi là Lư Tinh-thiện.

Gịng họ này, chính là gịng họ Lư, con cháu Kiến Hải vương mà tôi đă có cơ duyên gặp hậu duệ là ông Lư Gia Trung. Giáo sư Phiến Hoằng Cơ cho biết, căn cứ vào gia phả của gịng họ này mang tên Tinh-thiện Lư thị tộc phả, được lưu trữ tại thư viện Quốc-gia Hán-thành, th́ ông tổ của gịng họ Lư Tinh-thiện là Lư Dương Côn (Lee Yang Kon) tới Đại-hàn vào đầu thế kỷ thứ 12: "Lư Dương Côn hiệu là Nguyên Minh, hoàng tử thứ ba con vua Càn Đức, được Tống triều phong tước Nam-b́nh vương". Tra trong sử Việt, th́ vua Càn Đức chính là tên của vua Lư Nhân-tông. Vua Lư Nhân-tông là con của vua Lư Thánh-tông với Ỷ-Lan phu nhân, sau được tôn là Linh- Nhân hoàng thái hậu. Người chỉ đạo cuộc đánh Tống, kháng Tống lừng danh lịch sử Việt-Nam. Theo ĐVSKTT, Lư kỷ, Nhân-tông kỷ th́: "Niên hiệu Hội-tường Đại-khánh thứ 8 DL.1117, Đinh Dậu)... ...T́m con trai trong tôn thất để nuôi trong cung. Xuống chiếu rằng: Trẫm cai trị muôn dân mà lâu không có hoàng nam, ngôi báu của thiên hạ biết truyền cho ai. Nên trẫm nuôi con của các hầu Sùng Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng, chọn người giỏi lập làm thái tử.

Bấy giờ con Sùng Hiền hầu là Dương Hoán, lanh lợi, vua rất yêu, bèn lập làm Thái-tử". Vậy th́ Lư Dương Côn là con nuôi của vua Lư Nhân-tông, chứ không phải con đẻ. Con nuôi thứ ba, th́ là con của Thành Quảng hầu Lư Dương Côn, được phong tước Kiến Hải vương. Giáo-sư Phiến Hoằng Cơ dựa theo Tinh-thiện Lư thị tộc phả và bộ Cao-ly sử, ông công bố: " Hậu đuệ đời thứ sáu của Lư Dương Côn là Lư Nghĩa Mẫn (Lee Unimin) trở thành nhân vật kiệt hiệt trong lịch sử. Bấy giờ Cao-ly đang ở dưới triều đại vua Nghị-tông (Ui-jiong 1146-1170). Nhà vua rất sủng ái Lư Nghĩa Mẫn, phong cho chức Biệt-trưởng.

    Nước Cao-ly trong thời gian này, phải chống trả với cuộc xâm lăng của Khiết-Đan tức Đại- liêu, nên các vơ tướng nắm hầu hết quyền hành. Năm 1170 tướng Trịnh Trọng Phu (Jeong Jung-bu) chưởng môn một vơ phái, đảo chính vua Nghi.-tông lập vua Minh-tông (Mycong 1170-1179). Trọng Phu bị các vơ phái, vơ tướng nổi lên chống đốị Lư Nghĩa Mẫn là người phụ tá đắc lực cho Trịnh Trọng Phu, đem quân dẹp các cuộc nổi dậỵ Ông được thăng chức Trung-lang tướng, rồi dần dần thăng Tướng-quân, Đ?i-tướng quân (1173), Thượng-tướng quân (1174), cuối cùng là Tây Bắc bộ binh mă sứ (1178) (Tức Tư-lệnh quân lực miền Bắc Cao-ly). Năm 1179, một vơ quan khác là Khánh Đại Thăng (Kyung Dae-Seung) làm cuộc chính biến, giết chết Trịnh Trọng Phu, lên nắm quyền. Bấy giờ Lư Nghĩa Mẫn giữ chức H́nh-bộ thượng thư (1181) (Bộ trưởng Tư-pháp). V́ ông thuộc phe Trịnh Trọng Phu, nên bị nghi ngờ, chèn ép. Ông cáo quan về hưu. Sau khi Khánh Đại Thăng chết, vua Minh-tông mời Lư Nghĩa Mẫn vào bệ kiến, được trao chức Tư-không, Tả-bộc xạ, Đồng-trung thư môn hạ b́nh chương sự tức Tể- tướng trong 14 năm (1183-1196).

Năm 1196 một phe vơ tướng do Thôi Chung Hiếu (Cho Chung Heon) cầm đầu làm cuộc đảo chính, giết Lư Nghĩa Mẫn. Ba con ông là Lư Chính Thuần, Lư Chí Vinh, Lư Chí Quang đều là tướng cầm quân, cũng bị giết chết. Quân phiến loạn chỉ tha cho người con gái ông là Lư Hiền Bật. Gịng họ Lư Tinh-thiện tưởng đâu tuyệt tự. Nhưng may mắn thay, gịng họ này c̣n kế tục là nhờ người anh Lư Nghĩa Mẫn và các con không bị hại. Phối hợp chính sử với gia phả, giáo sư Phiến Hoằng Cơ kết luận rằng: Gịng họ Lư tại Tinh-thiện thuộc đạo Giang-nguyên, phía Đông Nam Đ?i-hàn ngày nay là con của hoàng tử Lư Dương Côn thuộc triều Lư, Việt-Nam (1010-1225). Lư Dương Côn bỏ quê hương ra đi v́ sự đe dọa của nước Kim đối với Tống, năm 1115. Tới năm 1127 th́ Bắc Tống bị diệt
    " Qua cuộc nghiên cứu của Phiến Hoằng Cơ, tôi thấy có đôi chút nghi vấn:
              - Một là, vua Lư Nhân-tông nhận con nuôi năm 1117. Vua Thần-tông sinh năm 1116, vậy th́ Lư Dương Côn chỉ có thể sinh năm 1116 hay 1117 mà thôi. Năm Lư Dương Côn rời Đại-Việt ra đi là năm 1150. Bấy giờ ông mới 32-33 tuổi. Thế nhưng gia phả Lư Tinh-thiện nói rằng năm 1170 Lư Nghĩa Mẫn, hậu duệ đời thứ sáu của Lư Dương Côn, được vua Nghị-tông phong cho chức Biệt-trưởng. Đây là điều vô lư. Bởi năm đó chính Lư Dương Côn có c̣n tại thế th́ ông mới có 54 tuổi, làm sao ông đă có cháu 6 đời? Tôi th́ tôi cho rằng Lư Nghĩa Mẫn là con Lư Dương Côn. C̣n hậu duệ đời thứ sáu là kể từ vua Lư Thái-tổ:
    1. Lư Thái-tổ.
    2. Lư Thái-tông.
    3. Lư Thánh-tông.
    4. Lư Nhân-tông.
    5. Kiến HảI vương Lư Dương Côn.
    6. Lư Nghĩa Mẫn.
             - Hai là, trong gia phả Lư Tinh-thiện nói rằng, Lư Dương Côn rời quê hương ra đi v́ quốc nạn. Giáo-sư Phiến Hoằng Cơ cho rằng v́ sự đe dọa của Kim. Có lẽ khi giải đoán việc ra đi của Lư Dương Côn, ông đă bị ảnh hưởng bởi sử Cao-ly. V́ hồi ấy, nước Kim đang từ một bộ lạc Nữ-chân, nổi lên diệt nước Liêu, rồi đem quân đánh Tống. Sau đó, họ bắt vua Tống mang về Bắc. Nhưng con cháu nhà Tống lại tái lập triều Nam-Tống. Khoảng cách Kim với Đại-Việt c̣n một nước Tống quá rộng, quá xa. Dù Kim hùng mạnh cũng không ảnh hưởng ǵ tơí Đại-Việt khiến Lư Dương Côn phải bỏ nước trốn đi. Nhất là giai đoạn 1161 đến 1174, bấy giờ binh lực Đại-Việt đang mạnh, muốn hướng lên Bắc tái chiếm lại Quảng Đông, Quảng Tây! (xin đọc Anh-hùng Đông-A dựng cờ B́nh-Mông của Trần Đại Sỹ, hồi 4 và hồi 16-17-18).

Lần lại trang sử Đại-Việt thời đó: Vua Thần-tông được vua Nhân-tông đem vào cung nuôi cùng 4 người anh em họ. Nhưng ngài được lập làm Thái-tử, rồi lên ngôi vua. Theo Hội-Điển sự lệ triều Lư th́ những chức như: Thái-úy, tương đương với ngày nay là Tổng Tư-lệnh quân đội. Tổng-lĩnh Thiên-tử binh, tương đương với ngày nay là Tư-lệnh lục quân. Đại Đô-Đốc Thủy quân, tương đương với ngày nay là Tư-lệnh thủy quân.

    Các chức này luôn trao cho các hoàng đệ. V́ vậy trong 5 con nuôi của vua Lư Nhân-tông, th́ Thái-tử Dương Hoán đươc truyền ngôi, c̣n 4 con nuôi khác, là con của các hầu Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng ắt được phong vào các chức trên. Con của Thành Quảng hầu là Lư Dương Côn được phong tước Kiến Hải vương, lĩnh chức Đại Đô-Đ?c Thủy-quân. Khi vua Thần-tông băng (1138), Thái-tử Thiên-tộ mới có 2 tuổi, triều thần muốn tôn hoàng đệ Lư Dương Côn lên ngôi vua, v́ ông là người thông minh, tài trí, đang là Đại Đô-Đ?c, ở tuổi 22. Nhưng rồi mẹ của Thái-tử Thiên-tộ là Cảm Thánh hoàng hậu đă dùng vàng bạc đút lót cho các quan, bà lại được t́nh nhân Đỗ Anh Vũ là em của Chiêu Hiếu thái hậu, (mẹ vua Thần-tông) hết sức ủng hô..

Thiên-tộ lên ngôi vua, sau là vua Anh-tông. Dĩ nhiên vua Anh-tông lên ngôi, khi c̣n bế ngửa, th́ mẹ là Cảm Thánh thái hậu thính chính, nói khác đi là làm vua. Bà phải diệt hết những mầm mống có thể nguy hiểm cho con bà. Bà cùng Đỗ Anh Vũ vu cáo, giết hết các em nuôi của vua Thần-tông là con của các hầu em vua Nhân-tông. Toàn gia các hầu, từ thê thiếp, con, cháu, thân binh, nô bộc đều bị giết sạch. Riêng Lư Dương Côn đóng quân ở Đồn-sơn, được mật báo. Ông đem hết gia thuộc, xuống chiến thuyền, bỏ quê hương ra đi, rồi táp vào Cao-lỵ Tôi kết luận : Dù Lư Nghĩa Mẫn là cháu 6 đời của Kiến Hải vương Lư Dương Côn hay là cháu 6 đời vua Lư Thái-tổ, th́ ta vẫn kết luận rằng : Năm 1150, Kiến Hải vương Lư Dương Côn, lĩnh chức Đại Đô-Đốc đă cùng tông tộc dùng thuyền tỵ nạn tại Cao-ly. Đời sau có nhân vật kiệt hiệt là Lư Nghĩa Mẫn, đóng một vai tṛ trọng yếu trong lịch sử Cao-ly. Gịng họ Lư này, nay vẫn c̣n truyền tử lưu tôn tại Đại-hàn.

Gịng thứ nh́, Hậu duệ của Kiến-b́nh vương Lư Long Tường, c̣n gọi là Lư Hoa-sơn.

    Gịng họ Lư thứ nh́ tới Đại-hàn sau gịng họ Lư Tinh-thiện 76 năm, là hậu duệ của Kiến B́nh vương Lư Long Tường, con thứ 7 của vua Lư Anh-tông. Mà tôi đă tŕnh bầy ở trên.

TheoTrần-tộc vạn thế ngọc phả, của chi bốn, thuộc gịng dơi Chiêu-quốc vương Trần Ích Tắc, để tại nhà từ ở thị xă Lănh-thủy, huyện Chiêu đương, tỉnh Hồ Nam, Trung-quốc ; phần chép về Ninh-tổ hoàng đế Trần Lư. Có đoạn nói v? các con vua Lư Anh-tông, nguyên văn như sau :

Vua có bẩy hoàng tử. Hoàng trưởng tử Long Xưởng do Chiêu Linh hoàng hậu sinh vào niên hiệu Đại Định thứ 12 (DL.1151, Tân-Mùi). Được phong tước Hiển Trung vương, lập làm Thái- tử. Niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo nguyên nhiên (DL.1174, Giáp-Ngọ) bị giáng xuống làm con út, tước Bảo Quốc vương. Niên hiệu Trinh Phù thứ sáu (DL.1181, Tân-Sửu) làm phản, bị hạ ngục, rồi bị Đỗ An Di giết cả nhà, thọ 31 tuổi.

Hoàng-tử thứ nh́ Long Minh do Thần-phi Bùi Chiêu Dương sinh vào niên hiệu Đại Định thứ 11 (DL. 1152, Nhâm-Thân). Tước phong Kiểm-hiệu Thái-sư, Thượng-trụ quốc, Khai-phủ nghị đồng tam tư, Trung-vũ quân tiết độ sứ, lĩnh Đại đô-Đốc, Kiến Ninh vương. Bị giết niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo thứ nh́ (DL.1175.). Thọ 24 tuổi.

Hoàng-tử thứ ba Long Đức, cũng do Bùi Thần-phi sinh niên hiệu Đại Định thứ 12 (DL.1153, Quư Đậu). Chức tước phong như sau : Dao-thụ Thái-bảo, Khu-mật viện sứ, Thượng-thư tả bộc xạ, Phụ-quốc thượng tướng quân, Long-thành tiết độ sứ, Kiến An vương. Bị giết niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo thứ nh́ (1175), thọ 23 tuổi.

Hoàng-tử thứ tư Long Ḥa do Quư-phi Hoàng Ngân Hoa sinh niên hiệu Đại Định thứ 11 (DL.1152, Nhâm-Thân). Chức tước phong như sau : Đặc tiến Thiếu-sư, Khu- mật viện sứ, Thượng-thư tả thừa, Trấn Nam tiết độ sứ, Thượng-thư lệnh, Tả kim ngô thượng tướng, Tổng-lĩnh Thiên-tử binh, Kiến Tĩnh vương. Bị giết niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo thứ nh́ (1175) thọ 24 tuổi.

Hoàng-tử thứ năm Long Ích, do Đức-phi Đỗ Kim Hằng sinh niên hiệu Chính-long Bảo-ứng thứ 5 (DL.1167, Đinh-Hợi). Chức tước phong như sau : Dao-thụ Thái-phó, trấn Nam tiết độ sứ, Thươ.ng-thư tả thừa, Kiến Khang vương. Hoăng niên hiệu Kiến-gia thứ 2 (DL.1212 Nhâm-Thân), thọ 46 tuổi.

Hoàng-tử thứ sáu Long Trát, do Thục-phi Đỗ Thụy Châu sinh niên hiệu Chính-long Bảo-ứng thứ 11 (DL.1172, Nhâm-Th́n), tháng 5, ngày 25, niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo nguyên niên được lập làm Thái-tử. Năm thứ nh́ được truyền ngôi tức vua Lư Cao-tông. Băng niên hiệu Trị-b́nh Long-ứng thứ 6 (DL.1210, Canh-Ngọ), ngày 28 tháng 10, thọ 38 tuổi.

Hoàng-tử thứ bảy Long Tường do Hiền-phi Lê Mỹ Nga, sinh vào niên hiệu Chính-long Bảo-ứng thứ 12 (DL.1174, Giáp-Ngọ). Đức Thái-tông nhà ta (tức Trần Cảnh) phong chức tước phong như sau : Thái-sư Thương-trụ quốc, Khai-phủ nghị đồng tam tư, Thượng-thư tả bộc xạ, lĩnh đại đô đốc, tước Kiến B́nh vương. Niên hiệu Kiến-trung thứ nh́ đời đức Thái-tông nhà ta (tức Trần Cảnh), tháng tám, ngày rằm, vương cùng gia thuộc hơn 6 ngàn người bôn xuất.

So sánh giữa Tộc phả Hoa-sơn và Trần tộc vạn thế ngọc phả, có một chi tiết khác nhaụ Tộc phả Kiến B́nh th́ chép Kiến B́nh vương là con thứ sáu vua Anh-tông. Trong khi Trần tộc vạn thế ngọc phả lại chép vương là con thứ bẩỵ V́ sao ? Phả Trần tộc chép theo huyết tộc, ai sinh trước là anh, ai sinh sau là em. V́ vậy Kiến B́nh vương là con thứ 7. Phả Kiến B́nh th́ chép thứ tự theo chỉ dụ của vua Lư Anh tông, Long Xưởng bị giáng xuống làm con út, th́ Long Tường trở thành con thứ sáu. Hồi đó Lư Long Tường dẫn tông tộc rời Đại-Việt ra đi. Trần triều không biết đi đâu.

Nay chúng ta mới được biết vương với hạm đội bị băo phải ẩn ở một đảo lớn (Đài- loan ?) Nghỉ ít lâu, hạm đội của vương lại tiếp tục lên đường rồi dạt vào Cao-ly. Duy một người con của vương tên Lư Long Hiền cùng gia thuộc hơn hai trăm người ở lại đảo. Vương là khai tổ của gịng họ Lư tại Đại-hàn, thế tử Long Hiền là khai tổ của gịng họ Lư tại Đài-loan hiện nay ? Sự kiện này tôi sẽ đi Đài-loan t́m hiểu sau.

Tôi đă bỏ công sang Bắc cũng như Nam-hàn, t́m các chi, hậu duệ của Kiến B́nh vương Lư Long Tường, khảo gia phả của họ. Phần chi tiết tuy có sự khác biệt, nhưng đại lược vẫn giống nhaụ Tổng-thống Lư Thừa Văn của Đại-hàn là hậu duệ đời thứ 25 của Kiến B́nh vương Long Tường. C̣n tổng thống Lư Đăng Huy của Đài-loan có phải là hậu duệ của thế tử Lư Long Hiền hay không, th́ tôi không dám quyết, bởi Lư là gịng họ chiếm đa số ở Trung-quốc.

Trong một bài khác, tôi sẽ tŕnh bầy về Thủ-tướng Lư Quang Diệu của Singapore là Việt kiều, khai tổ một chi họ Lư đời thứ nhất hay Lư khác ? ( Thưa quư độc giả, chỉ cần thử nghiệm di truyền ADN là ra ngay). Cả ba bộ sử ĐVSKTT, VSL, KĐVSTGCM cùng chép rất mơ hồ về việc vua Anh-tông phế Long Xưởng lập Long Trát. Nhà vua có tới bẩy hoàng tử. Nếu sự thực Long Xưởng phạm tội, phế xuống, sao không lập các con đă trưởng thành, tài trí xuất chúng, đang cầm đại quyền như Kiến Ninh, Kiến An, Kiến Tĩnh vương?

Hoặc cùng quá, th́ lập Kiến Khang vương Long Ích, năm ấy đă chín tuổi ? Mà phải lập Long Trát mới có 26 tháng làm Thái-tử, rồi phải cử Tô Hiến Thành làm phụ chính ? Cái khúc mắc này tôi đă giải thích rất chi tiết, rất rơ ở hồi 21-23 bộ Anh-hùng Đông-a dựng cờ b́nh Mông. Trong bài ngắn này không thể giải thích hết. Dưới đây là phần tôi thuật theo Tộc-phả Lư Hoa-sơn: Niên hiệu Kiến-trung thứ nh́ đời vua Thái-tông nhà Trần (DL.1226, Bính Tuất), lo sợ bị Thái-sư Trần Thủ Độ hăm hại, v́ vị thế trọng yếu của ḿnh:

              - Là con vua Anh-tông, em vua Cao-tông, chú vua Huê.-tông.

              - Thân vương duy nhất nắm quyền hành.

              - Chức tước cực phẩm Thái-sư Thương-trụ quốc, Khai-phủ nghị đồng tam tư, Thươ.ng-thư tả bộc xạ, lĩnh đại đô đốc. Vương âm thầm cùng B́nh Hải công Lư Quang Bật từ căn cứ Đồn-sơn về Kinh Bắc, lạy ở lăng miếu Đ́nh-bảng. Lại đến Thái-miếu mang bài vị, các tế khí ra trấn Đồn- sơn, rồi đem hết tông tộc hơn 6 ngh́n người, xuống hạm đội ra đi.

Việc Kiến B́nh vương ra đi, có lẽ bắt nguồn từ việc ra đi của Kiến Hải vương trước kia chăng? Sau hơn tháng lênh đênh trên biển, th́ gặp băo. Hạm đội phải ngừng lại một đảo (Đài-loan?) rồi tiếp tục lên đường.

Một trong các con của vương là Thế-tử Lư Đăng Hiền cùng vợ con ở lại đảo. Hạm đội lênh đênh trên biển một thời gian, th́ táp vào cửa Phú-lương giang, quận Khang-linh (Ong Jin-Gun) tỉnh Hoàng-hải (Hwang-hac) thuộc Bắc Cao-ly.

Nơi hạm đội táp vào, dân chúng gọi là Nak-nac-wac có nghĩa là Bến của khách phương xa có đồ thờ cúng. Theo gia phả của con cháu vương th́ : Đêm hôm trước, vua Cao-tông (Kojong) của Cao-ly mơ thấy một con chim cực lớn bay từ phương Nam lại đậu ở bờ Tây-hải. Tỉnh lại, vua sai người tới đó t́m kiếm, th́ gặp hạm đội của Kiến-b́nh vương. Kiến-b́nh vương được bệ kiến. Vương dùng bút đàm với vua Cao-tông và các đại thần Cao-ly. Triều đ́nh Cao-tông đối xử với vương rất tốt, chu cấp lương thực. Cho làm nhà ở Ung-tân phủ Nam-trấn sơn (Chin-sang).

Thế là mấy ngh́n người Việt trở thành thuyền nhân kiều ngụ tại Cao-ly. Lư Long Tường cùng tướng sĩ, gia thuộc bắt đầu cuộc sống mới. Họ trồng trọt, đánh cá, chăn nuôi làm kế sinh nhai. Vương mở trường dạy học: Thi phú, lễ nhạc, tế tự, binh pháp, vơ thuật. Vương soạn sách Học vấn giảng hậu. V́ học tṛ đông, Vương cho xây Độc-thư đường, Giảng vơ đường. Đệ tử của Vương lúc nào cũng trên ngh́n người.

Tháng 7 năm Quư-sửu (1253) đời vua Cao-tông năm thứ 40, quân Mông-cổ xâm lăng Cao-ly, vượt Hỗn-Động giang, chiếm Tây-hải, phá An-giang Tây-thành. Về mặt thủy, Mông-cổ chiếm các đảo Đ?i-thanh, Tiểu-thanh, Sáng-lân, rồi tiến chiếm Tây-Đô (Giang-hoa). Thủ-Đô Cao-ly bị đe dọa. Các tướng sĩ hầu hết bị tử trận. Thấy t́nh h́nh Cao-ly nguy ngập, Kiến B́nh vương đến gặp Thái-úy (tướng tổng chỉ huy quân đội) là Vi Hiển Khoan, cố vấn cho ông về binh pháp Đại-Việt. Đích thân vương cỡi bạch mă chỉ huy cuộc giữ thành: Đắp thành cao lên, đào hào đặt chông quanh thành. Trong thành đào giếng để có nước uống, tích trữ lương thảọ Vương đem tất cả binh pháp Đại-Việt trong những lần đánh Tống, b́nh Chiêm ra giúp Cao-lỵ Đánh nhau suốt 5 tháng, quân Nguyên bị tuyệt lương thảo, bị chặn đường rút lui, xin hàng (6).

Tết năm ấy, toàn Cao-ly mừng chiến thắng. Triều đ́nh khen ngợi Lư Long Tường, lấy tên ngọn núi ở quê hương vương là Hoa-sơn; phong cho vương làm Hoa-sơn tướng quân. Lại cho đổi tên ngọn núi nơi vương cư ngụ là Hoa-sơn. (7). Nhà vua sai dựng bia ghi công vương trên núi Hoa-sơn, đích thân vua viết ba chữ Thụ hàng môn (Cửa tiếp thụ giặc đầu hàng). Cho đến nay, sau 746 năm, trải biết bao nhiêu mưa nắng, thăng trầm; tấm bia ấy vẫn trơ gan cùng cùng tuế nguyệt, nhắc nhở du khách nhớ huân công của một Việt-kiều trên Hàn-quốc.

Ghi chú
(6) Có một sự trùng hợp. Năm năm sau, tháng 1-1258, Thái-sư Mông-cổ là Ngô.t-lương Hơ.p-thai (Uriyangqadai) đem quân đánh Đại Việt, cũng bị tuyệt đường lương, rồi bỏ chạỵ Xin đọc Anh-hùng Đông-a dựng cờ b́nh Mông hồi 50).
(7) Tôi tra trong địa lư thời Lư, trên lănh thổ Đại Việt không có ngọn núi nào tên Hoa-sơn cả. Có lẽ là núi Tiêu-sơn, nơi phát tích ra triều Lư chăng ?

    Trong dịp thăm Hoa-sơn năm 1981, tôi xin người đại diện tộc Lư cho phép được mượn thợ khắc vào một phiến đá bài thơ cổ phong bằng chữ Trung-quốc (Hán, Nho), đặt cạnh tấm bia trên, gọi là chút ḷng của người sau, tế người trước. Xin phiên âm như sau: Điếu Kiến B́nh vương Phúc tại Tiêu-sơn lĩnh, Thất đại bôn Bắc Cao, B́nh Mông danh vạn đại, Tử tôn giai phong hầu. Học phong nhân bất cập. Vọng quốc hồn phiêu phiêu, Kim tải quá bát bách, Hà thời quy cố hương? (Ngài là người họ Lư, được hưởng phúc tại ngọn núi Tiêu-sơn. Kể từ vua Lư Thái-tổ tới ngài là đời thứ bẩy, phải bôn tẩu đến xứ Bắc Cao-ly. Nhờ chiến công đánh Mông- cổ, mà con cháu ngài đều được phong hầu. Ngoài ra, ngài là người đem học phong tới Cao-ly, công đức ấy không ai sánh kịp. Thế nhưng trải trên tám trăm năm, hồn ngài lúc nào cũng phiêu phưởng, không biết bao giờ được về cố hương ?). Ngày nay trên ngọn đồi Julbang thuộc xă Đỗ-môn (Tô-mơ-ki) cách núi Hoa-sơn 10 cây số về phía Tây c̣n lăng mộ ngài và con, cháu cho đến ba đời.

Trên Quảng-Đại sơn có Vo.ng-quốc đàn, nơi cuối đời ngài thường lên đó, ngày ngày nh́n về phương Nam, ôm mặt khóc, tưởng nhớ cố quốc. Mỏm đá mà ngài đặt chân đầu tiên lên bờ biển Cao- ly, được gọi là Việt-thanh nham, tức đá xanh in vết tên Việt. Trên Hoa-sơn c̣n rất nhiều di tích kỷ niệm huân nghiệp của vương. Khi đến Hoa-sơn hành hương, thay v́ chào nhau, du khách được hướng dẫn viên du lịch dạy cho nói câu: Hữu khách, Hữu khách, kỵ bạch mă. Nghĩa là Có người khách cỡi ngựa trắng, tức Lư Long Tường. Tương truyền một đạo binh thiện chiến do Vương huấn luyện, trở thành đạo binh bảo quốc, đời nọ sang đời kia đều lấy tên là Bạch-mă.

Hồi chiến tranh Việt-Nam (1960-1975) sư đoàn Bạch-mă có tham chiến, trấn đóng tại vùng Bồng-sơn, Quy-nhơn, B́nh-Định. Cho đến nay, gịng họ Lư Hoa-sơn truyền trải 28 đời. Tại Nam-hàn chỉ có khoảng hơn ngh́n hộ. Tại Bắc-hàn th́ đông lắm, không thống kê được. Lư tộc tại Nam-hàn, hầu hết họ là những gia đ́nh có địa vị trọng yếu về giáo dục, kinh tế, kỹ nghê.. Kỳ ứng cử vừa qua, một ứng viên Tổng thống họ Lư suưt trúng cử. Theo tấm bia trên mang tên Thụ-hàng môn bi kư, th́ Kiến B́nh vương Long Tường có nhiều con trai, tất cả đều hiển đạt.

Không thấy nói tơí Lư Long Hiền, cùng tông tộc hơn 200 người ở lại đảo (Đài-loan ? ). Lư Cán Đại lĩnh Đề-học nghệ văn quán, Kim-tử quang lộc đại phụ Lư Huyền Lương, Tham-nghị lễ tào, Chính-nghị đại phụ Lư Long Tiền Giám-tu quốc sử.(8)

Ghi chú
(8) Theo quan chế Tống, hồi đó th́ chức Chiêu-văn quan đại học sĩ, giám tu quốc sử là danh tự để chỉ chức Tể-tướng. Không biết quan chế Cao-ly có giống Tống không ? Nếu giống th́ Lư Long Tiền đă làm Tể-tướng.

     Ngày nay, tại Bắc-hàn, cứ đến dịp tết Nguyên-Đán, hậu duệ của Kiến B́nh vương Lư Long Tường khắp lănh thổ Đại-hàn đều kéo về Hoa-sơn để dự lễ tế tổ (Luật pháp Nam-Bắc Hàn đều cấm ngặt người Nam-Hàn du lịch Bắc-Hàn. Thế nhưng, hầu hết các hậu duệ tại Nam-hàn đă dùng phi cơ sang Trung-quốc, rồi từ Trung-quốc vào Bắc-hàn. Khi những hậu duệ Nam-Bắc Hàn gặp nhau, họ ôm nhau khóc nức nở. Sự kiện này chính phủ Nam-Bắc Hàn nhắm mắt lờ đi, v́ tộc Lư dù ở Nam hay Bắc họ đều giữ những chức vụ trọng yếu). Khởi đầu của cuộc tế, đánh chín tiếng trống, gọi là âm-thanh để mọi người cùng tưởng nhớ cố quốc. Theo gia phả của chi Thuận-xuyên, sở dĩ đánh chín tiếng, v́ muốn ghi lạI triều Lư trải 9 đời vua, kể cả Lư Chiêu-hoàng. (9)

Ghi chú,
(9) Chín đời vua triều Lư là,
1. Thái-tổ Lư Công Uẩn.
2. Thái-tông Lư Đức Chính.
3. Thánh-tông Lư Nhật Tông.
4. Nhân-tông Lư Càn Đức.
5. Thần-tông Lư Dương Hoán.
6. Anh-tông Lư Thiên Tô..
7. Cao-tông Lư Long Trát. 8. Huê.-tông Lư Long Sảm. 9.
hiêu-hoàng Lư Phật Kim.
Đền thờ tám vị vua triều Lư (Lư Bát-Đ? từ) tại Bắc-ninh
1. Tượng thờ vua Lư Thái-tổ
2. Tượng thờ vua Lư Thái-tông
3. Tượng thờ vua Lư Thánh-tông
4. Tượng thờ vua Lư Nhân-tông
5. Tượng thờ vua Lư Thần-tông
6. Tượng thờ vua Lư Anh-tông
7. Tượng thờ vua Ly Cao-tông
8. Tượng thờ vua Lư Huê.-tông
Hồ mă tê Bắc phong, Việt điểu sào Nam chi,
Nghĩa là: Con ngựa đất Hồ (vùng Bắc Trung-quốc) khi bị đưa vào Trung-nguyên, mỗi khi gió Bắc thổi, nó nhớ quê, hư lên, buồn thảm. C̣n con chim Việt, lạc sang Trung-nguyên, khi làm tổ, bao giờ nó cũng làm ở cành phía Nam.

    Năm 1995, con cháu của Kiến B́nh vương Lư Long Tường, quy tụ hơn trăm người trở về Đ́nh-bảng, huyện Tiên-sơn, tỉnh Bắc-ninh dự lễ hội làng vào ngày rằm tháng ba Âm-lịch. Tại thiên chi linh, hẳn 9 đời vua triều Tiêu-sơn, cũng như Kiến B́nh vương Lư Long Tường đă thỏa nguyện:
Những đứa cháu lưu lạc, nay trở về chầu tổ.

    Lời quê gửi tới người Việt hải ngoại. Hiện nay gần ba triệu người Việt lưu lạc khắp mọi góc biển, mọi chân trời. Có nơi sống tập trung như Hoa-kỳ, Thái-lan, Cao-miên, Ai-lao, Canada, Úc, Pháp, Nga-sô. Có nơi sống rải rác cô độc như Do-thái, Irak, Gabon...Nh́n vào tấm gương của hai gịng họ Lư tại Đại-hàn. Dù con cháu quư vị không c̣n nói được tiếng Việt. Dù con cháu quư vị đă kết hôn với người địa phương. Nhưng quư vị phải luôn nhắc nhở cho chúng biết rằng: Chúng là người Việt, lấy chủ đạo là con Rồng cháu Tiên. Xin qúy vị khẩn chép lại:
             1. Nguồn gốc gịng họ ḿnh từ làng nào, xă nào, tỉnh nào.
             2. Hoặc liên lạc với họ hàng trong nước để xin bản sao gia phả.
             3. Tiểu sử những tiền nhân. Nếu không nhớ được hành trạng của các tổ xa đời, th́ ít ra cũng chép được từ đời ông, đời cha.
             4. Rời Việt-Nam ra đi v́ lư do ǵ? Bắt đầu đến đâủ Lập nghiệp ra sao? Mỗi năm vào dịp tết, quư vị sai đọc cho tất cả con cháu đều nghe.
             5. Hằng năm, nếu có thể, khuyên con cháu, nên trở về quê hương, viếng thăm đất tổ, thăm mồ mả tiền nhân.
             6. Khi về già, các vị sai chép những ǵ quư vị chi thành ra thành nhiều bản, cho mỗi con một bản, và dặn con cháu chép tiếp...
Vài lời thô thiển.
    Biết rằng các vị cho là thường. Thưa quư vị, tộc Việt ta vốn là con Rồng, cháu Tiên. Biết đâu trăm năm sau, ngh́n năm sau, con cháu quư vị có thể là Tổng-thống Hoa-kỳ, Nga-sô hay Thủ-tướng Đức, Do-tháị Và biết đâu con cháu quư vị không thành Thủ-tướng Trung-quốc. Bây giờ những ǵ quư vị coi là thường, bấy giờ sẽ trở hành quư báu vô cùng.
Mong lắm thay!
Cầu xin như vậy đấy.

Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ (Những tài liệu tôi dùng để viết bài này rất phong phú, rất nhiều. Xin xem phần Những nguồn tài liệu, trong bộ Anh-hùng Đông-a dựng cờ b́nh Mông, quyển 1, do Đại-Nam Hoa Kỳ ấn hành )



Sửa lại bởi NhapMon : 29 December 2006 lúc 8:25pm


__________________
NhapMon
Quay trở về đầu Xem NhapMon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi NhapMon
 
thanh van
Học Viên Lớp Dịch Trung Cấp
Học Viên Lớp Dịch Trung Cấp
Biểu tượng

Đă tham gia: 24 July 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 619
Msg 244 of 585: Đă gửi: 29 December 2006 lúc 8:21pm | Đă lưu IP Trích dẫn thanh van

Thật xúc động khi đọc bài viết nầy ,cầu trời cho sự mong-ước của anh thành sự thật.

__________________
Hoanguc
Quay trở về đầu Xem thanh van's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thanh van
 
ngoctrongdda
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 26 November 2006
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 142
Msg 245 of 585: Đă gửi: 30 December 2006 lúc 1:18am | Đă lưu IP Trích dẫn ngoctrongdda

Tôi là cái loại người nhanh nhẩu đoảng , cái ǵ mà dài và ngoài tŕnh độ là khỏi đọc luôn  vô ngay phần cuối xem ai muốn nói ǵ.Được biết bác nhoccon 1412 rất uyên thâm về phật pháp lai có thêm dẫn chứng nghiên cứu về  cả kinh thánh và chúa Giê-xu. Nói đến đây tôi chợt nhớ đến câu ca : Người chịu khổ h́nh để cứu lấy muôn loài ( nhân lọai?. dân tộc?) -> chết chửa , tôi lại dùng cái nọ xọ vô cái kia , nhưng thôi bàn ngoài chủ đề rồi phải không bác? Vậy tùy theo nhận thức mỗi người , bác nào về nhà nấy giữ nguyên ư kiến của ḿnh đi !

Nói vui như trong phim chưởng : Nếu công lực của các hạ có phi phàm ,th́ kẻ khác cũng nhập thánh. Vậy có lư chăng tiết kiếm nội lực làm việc khác ->chết nữa , thế này đâu c̣n giữ ǵn cái gọi là sự  trong sáng của ngôn ngữ tiêng Việt nữa

Đầu óc tôi chỉ nghĩ đến $$ thôi ,hôm nay lại viết lọ xộn nữa

 

Quay trở về đầu Xem ngoctrongdda's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ngoctrongdda
 
thiennhan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 634
Msg 246 of 585: Đă gửi: 30 December 2006 lúc 3:40am | Đă lưu IP Trích dẫn thiennhan

Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những vĩ nhân của dân Bách Việt, từ khi Trạng sinh ra, lớn lên và sau khi Trạng mất th́ nước Việt luôn bị chiến tranh chết chóc đau khổ tang thương cho tới 1975, v́ vậy mới có câu Sấm "Ngă bát thế chi hậu, binh qua khởi trùng trùng". Có lẽ nhờ có Trạng Tŕnh biết vận dụng tài năng siêu việt của ḿnh mà nước Việt không thêm một lần bị xâm chiếm bởi phương Bắc.

Code:
Từ Bạch Vân Am Trạng Tŕnh dùng cái nh́n chiến lược và phong thủy để mở ra mặt trận Nam phương cho Nguyễn Hoàng: vừa thực hiện việc mở rộng bờ cơi, vừa lấy thế hiểm mà dung thân, ông thôi thúc Phùng Khắc Khoan vào Thanh Hóa với nhà Lê v́ sau này 1598, chính họ Phùng đi sứ sang Tầu đă dàn xếp chấp nhận để yên cho họ Mạc ở đất Cao Bằng. (VSSL-LVV)
.

Trạng Tŕnh đă có hàng ngàn học tṛ tài giỏi được phân công chia nhau đi khắp nơi để mỗi người thực hiện những nhiệm vụ cho đất nước Việt, Sấm Trạng có thể là một “mật mă” của cụ Trạng bí mật truyền đi cho các môn sinh, hậu thế và các môn sinh hậu thế của cụ Trạng hiểu được “mật mă” đó, tiếp tục lưu truyền đi cho những thế hệ sau biết thời vận của đất nước, để giữ nước chống xâm lược và xây dựng đất nước.

Trong Sấm Trạng có nhiều phần, những thời điểm trước sau lẫn lộn, những lời khuyên “Xin khuyên đấng, thời trung quân tử”, lượng định để biết vận mệnh của đất nước đang ở thời điểm nào nên ẩn “Học cho biết chữ cát hung”… cảnh báo là “Đời ấy (này) những quỉ cùng ma“ …, những lời than cảnh đau thương, cảnh bạo ngược “Ấy Tần Vương, ngu mê chẳng biết” "Quỉ ma trật vật biết trời là đâu ?" …, rồi an ủi bảo cho hay thời điểm cực thịnh của nước Việt sắp tới “Lộ ngũ tinh trinh tượng thái hanh”, thời nào chuẩn bị nên để ra giúp đất nước và pḥ trợ Thánh quân “Xem tượng trời, biết đường đời trị”, “Những người phụ giúp Thánh minh”, c̣n có những câu nói về tương lai Thánh xuất, Thiên tử sinh, nơi chốn của Thiên tử… và nhiều phần khác, tạm bỏ qua những ư kiến cho là Sấm thật Sấm giả v́ đă là “mật mă” th́ phải là những người được chân truyền mới có thể mở được, và có thể ngay cả những người được chân truyền đă tạo thêm ra những câu Sấm theo từng thời điểm, vừa để tiếp tục truyền lại cho hậu thế, vừa để làm rối mù đối phương luôn ŕnh rập mưu toan đen tối xâm chiếm đất nước Việt …

Thời sau này sẽ có một vị “Thánh nhân Thiên tử” ra đời trị v́ phục hưng đất Việt lẫy lừng, chứ không như những vị vua b́nh thường như những thời gian trước, v́ vậy Sấm Trạng vừa muốn cho biết vừa ngại ngùng không muốn tiết lộ hết, v́ e ngại Bắc phương có thể làm hại tới đại long mạch nơi Thánh nhân sẽ sinh ra, như là thời Cao Biền dùng đủ mọi thủ đoạn ác độc để tiêu diệt đại long mạch, nhưng thất bại rồi sau bị chết thảm, và phương Bắc vẫn tiếp tục bí mật cho đến sau này cũng c̣n có những mưu toan diệt những đại long mạch của đất Việt, để không c̣n có sinh ra những thiên tài, nhằm mưu đồ xâm chiếm đất Việt. Không nói th́ hậu thế mịt mù tăm tối thấy đường nào có hy vọng c̣n sinh tồn và giữ ǵn đất nước ?, nói ra th́ tiết lộ sự việc. Nhưng Sấm Trạng cũng biết thiên thời vận khí, cho nên cũng ám chỉ cho biết rằng nước Việt đă đến thời hưng thịnh rồi, có muốn làm hại, cũng chẳng được đâu, như câu:

305 –Nói ra th́ lậu sự đời
306 - Trái tai phải lụy tài trai khôn luần
307 - Nói ra ám chúa bội quân
308 – Đương thời đời trị xoay vần được đâu ?

Đi t́m giải mật mă mà không có ch́a khóa th́ cũng chỉ làm một việc “trà dư hậu tửu”, nhưng Sấm Trạng hàng trăm năm nay vẫn là đề tài thú vị cho mọi người, cho nên cũng thử phân tích xem sao, không quan niệm là giải đoán mà chỉ phân tích và dùng cách suy luận để đưa ra ư kiến, mỗi ư kiến đều nên có tánh khách quan, trung thực (không suy luận sửa đổi câu Sấm theo ư riêng), tôn trọng lắng nghe mọi ư kiến khác, nếu không cùng ư th́ nên dùng lời “nho nhă” để phản biện ư người khác … th́ chủ đề này mới trở thành thú vị và được nhiều người cùng nhau giải mă được phần nào “mật mă” của Sấm Trạng.

Trong Sấm Trạng gồm có: Sấm Trạng Tŕnh + phụ bản, Sấm kư Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bạch Vân ca, tổng hợp những câu Sấm rời có liên quan tới tiên tri như bài Thế sự có những câu nằm trong Sấm Trạng được nhắc lại trong Sấm kư hay Bạch Vân ca, bài Thế sự, sấm Thiền sư Vạn Hạnh, giáng bút, đồng dao, ca dao … phân tích tách lọc những câu đó để t́m mật mă, ví dụ như câu trong Sấm Trạng:

257 – Lại nói xứ, Hoàng giang sinh thánh
258 - Sông Bảo giang, thiên định ai hay ?

Th́ trong Bạch Vân ca là:
Ta hồ vô phụ vô quân
Đà Giang phúc địa giáng linh
Cửu trùng thụy ứng ḷng thành ngũ vân.
Phá điền thiên tử giáng trần
Dũng sĩ nhuợc hải mưu thần như lâm.

Trong Sấm Trạng là:
402 - Non Đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
403 - Có một đàn xà đánh lộn nhau
404 - Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
405 - Lợn kia làm quái phải sai đầu
406 - Chuột nọ lăm le mong cắn tổ
407 - Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu
408 - Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
409 – T́m về quê cũ bắt ngựa Tàu

Trong bài Thế sự là:
THẾ SỰ
Non Đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
Có một đàn xà đánh lộn nhau.
Vượn nọ leo cành cho sĩ bóng
Lợn kia làm quái phải sai đâu.
Chuột nọ lăm le mong cắn tổ
Ngựa kia đủng đỉnh buớc về Tàu.
Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
T́m về quê cũ khúc ngựa Tần.


Và c̣n nhiều câu trùng hợp trong các bài với nhau và những bài có câu giống nhưng chữ khác như Hoàng giang – Đà giang, Bảo giang – Bảo sơn … hoặc rải rác những giải thích thêm của bài này cho bài khác. V́ vậy tôi lại đưa lên một lần nữa, tuy làm cho chủ đề kéo dài ra nhiều trang, nhưng tôi đă thử tách đoạn theo từng bài thơ để cùng mọi người xem lại có dễ hiểu hơn không, mỗi bài thơ dài hay ngắn nói về một vấn đề, và sẽ tổng hợp các bài theo nhóm như sự kiện, thời gian, địa điểm … , rồi sau đó sẽ phân tích tổng hợp từng phần những vấn đề cần luận bàn. Nếu các bạn có thêm những tài liệu về Sấm Trạng, những bài viết về lịch sử đất Việt như anh NhapMon đă đưa lên càng thêm phong phú cho chủ đề.
Bài viết trên của anh Nhapmon có thể vào đây đọc trọn bộ của tác giả Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ: nhà Lư Anh Hùng Tiêu Sơn
nhà Trần
Anh Hùng Đông-A Dựng Cờ B́nh Mông

SẤM TRẠNG TR̀NH, tái bản lần II ( Toàn Bộ Bạch Vân Thi Tập trích lục ở KHOA HỌC HUYỀN BÍ) được soạn tại Saigon mùa đông năm mậu tư 1948. Sách ghi giấy phép cấp tái bản năm 1964.

Code:
BẠCH VÂN THI TẬP CHUNG TRẠNG TR̀NH NGUYỄN BỉNH KHIÊM

Liên Mậu, Kỷ, Canh, Tân
Can qua sinh sác biến

Bốc đắc Càn thuần quái
Sơ cửu thoái tiềm long
Ngă bát thế chi hậu
Binh qua khởi trùng trùng
Ngưu tinh tụ Bảo giang (Tinh tụ Bảo giang thượng)
Đại nhân cư chính trung

Dịch nghĩa :
Bói được quẻ thuần Càn
Hào sơ cửu rồng lui ẩn
Tám đời sau ta
Binh biến khởi trùng trùng
Sao Ngưu tụ Sông Quí
Đại nhân ở chính giữa

THẾ SỰ

Non Đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
Có một đàn xà đánh lộn nhau.
Vượn nọ leo cành cho sĩ bóng
Lợn kia làm quái phải sai đâu.
Chuột nọ lăm le mong cắn tổ
Ngựa kia đủng đỉnh buớc về Tàu.
Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
T́m về quê cũ khúc ngựa Tần.


SẤM TRẠNG TR̀NH

Chương 1

1 - Vận lành mừng gặp tiết lành
2 - Thấy trong quốc ngữ lập thành nên câu
3 - Một câu là một nhiệm mầu
4 - Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao

5 - Trải v́ sao, mây che Thái ất
6 - Thủa cung tay, xe nhật phù lên
7 - Việt Nam khởi tổ xây nền
8 - Lạc Long ra trị đương quyền một phương
9 - Thịnh suy bĩ thái lẽ thường
10 - Một thời lại một nhiễu nhương nên lề

11 - Đến Đinh Hoàng, nối ngôi cửu ngũ
12 - Mở bản đồ, rũ áo chấp tay
13 - Ngự đao phút chốc đổi thay
14 - Thập bát tử (李) rày quyền đă nổi lên
15 - Đông A (陳) âm vị nhi huyền
16 - Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh
17 - Chấn cung hiện nhật quang minh
18 - Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
19 - Đoài cung vẽ rạng trăng thu
20 - Ra tay mở lấy Đế đô vạn toàn

21 - Sáng cửu thiên, ám vầng hồng nhật
22 - Dưới lẫn trên, ăn (năng ) vẫn uống quen
23 - Sửa sang muôn việc cầm quyền
24 - Ngồi không ai dễ khẳng nh́n giúp cho

25 - Ḱa liệt vương, khí hư đồ ủng
26 - Mặc cường hầu, ong ỏng tranh khôn
27 - Trời sinh ra những kẻ gian
28 - Mặt khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài
29 - Áo vàng ấm áp đà hay
30 - Khi sui đấp núi khi say xây thành

31 - Lấy đạt điền, làm công thiên hạ
32 - Được mấy năm, đất lở giếng ṃn
33 - Con yết ạch ạch tranh khôn
34 - Vô già mở hội mộng tôn làm chùa
35 - Cơ trời xem đă mê đồ
36 - Đă đô lại muốn mở đô cho người

37 - Ấy ḷng trời, xuôi ḷng bất nhẫn
38 - Suốt vạn dân, cừu giận nhân than
39 - Dưới trên dốc chí lo toan
40 - Những đua bán tước bán quan làm giàu

41 - Thống rủ nhau, làm mồi phú quí
42 - Mấy trung thần, có chí an dân
43 - Đua nhau làm sự bất nhân
44 - Đă tuần bốn bể lại tuần đầu non
45 - Dư đồ chia rẻ càn khôn
46 - Mối giềng man mác khiếp ṃn ḷng nhau

47 - Vội sang giàu, giết người lấy của
48 - Sự có chăng, mặc nọ ai đôi
49 - Việc làm thất chính tơi bời
50 - Minh ra bổng lại thấy thôi bấy giờ

51 - Xem tượng trời, đă gia (giơ) ra trước
52 - C̣n hung hăng, bạo ngược quá xưa
53 - Cuồng phong cả sớm liền trưa
54 - Đă đờn cửu khúc c̣n thơ thi đề

55 - Ấy Tần Vương, ngu mê chẳng biết
56 - Để vạn dân, dê lại giết dê
57 - Luôn năm chật vật đi về
58 - Âm binh ở giữa nào hề biết đâu

59 - Thấy nội thành, tiếng kêu ong ỏng
60 - Cũng một ḷng, trời chống khác nào
61 - Xem người dường vững chiêm bao
62 - Nào đâu c̣n muốn ước ao thái b́nh

63 - Một góc thành, làm tâm chứng quỷ
64 - Đua một ḷng, ích kỷ hại nhân
65 - Bốn phương rời rở (ră) hồng trần
66 - Làng khua mơ cá làng phân điếm tuần

67 - Tiếc là những, xuất dân làm bạo
68 - Khua dục loài, thỏ cáo tranh nhau
69 - Nhân danh trọn hết đâu đâu
70 - Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê
71 - Hùm già lạc dấu khôn về
72 - Mèo non chi chí t́m về cố hương
73 - Chân dê móng khởi tiêu tường
74 - Nghi nhau ai dễ sửa sang một ḿnh
75 - Nội thành ong ỏng hư kinh
76 - Đầu khỉ tin sứ chèo (trèo) thành lại sang

77 - Bở mồ hôi, Bắc giang tái mă
78 - Giữa hai xuân, bỗng phá tổ long
79 - Quốc trung kinh dụng cáo không
80 - Giữa năm giả lại kiểm hung mùa màng
81 - Gà đâu sớm gáy bên tường
82 - Chẳng yêu th́ cũng bất tường chẳng không
83 - Thủy binh cờ phất vầng hồng
84 - Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng

85 - Đứng hiên ngang, đố ai biết trước
86 - Ấy Bắc binh, sang việc ǵ chăng ?

87 - Ai c̣n khoe trí khoe năng
88 - Cấm kia bắt nọ tưng bừng đôi nơi

89 - Chưa từng thấy, đời nào sự lạ
90 – Bỗng khiến người, giá họa cho dân
91 - Muốn b́nh sao chẳng lấy nhân
92 - Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày

93 - Đă nên si, Hoàn Linh đời Hán
94 - Đúc tiền ra, bán tước cho dân
95 - Xung (xum) xoe những rắp cậy quân
96 - Chẳng ngờ thiên đạo xây dần đă công

97 - Máy Hoá công, nắm tay dễ ngỏ
98 - Ḷng báo thù, ai dễ đă nguôi
99 - Thung thăng tưởng thấy đạo trời
100 - Phù Lê diệt Mạc nghĩ dời quân ra
101 - Cát lầm bốn bể can qua
102 - Nguyễn th́ chẳng được sẽ ra lại về
103 - Quân hùng binh nhuệ đầy khe
104 - Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời
105 - Bấy giờ càng khốn than ôi
106 - Quỉ ma trật vật biết trời là đâu ?

107 - Thương những kẻ, ăn rau ăn giới
108 - Gặp nước bung, con cái ẩn đâu
109 - Báo thù ấy chẳng sai đâu
110 - T́m non có rẫy chừng sau mới toàn

111 - Xin những kẻ, hai ḷng sự chúa
112 - Thấy đâu hơn, th́ phụ thửa ân
113 - Cho nên phải báo trầm luân
114 - Ai khôn mới được bảo thân đời này

115 - Nói cho hay, Khảm cung rồng dấy
116 - Chí anh hùng, xem lấy mới ngoan
117 - Chữ rằng lục thất nguyệt gian
118 - Ai mà nghĩ được mới gan anh tài


119 – Hễ nhân kiến, đă dời đất cũ
120 - Th́ Phụ Nguyên, mới chổ (trổ) binh ra
121 - Bốn phương chẳng động can qua
122 - Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi
123 - Bấy giờ mở rộng qui khôi
124 - Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn

125 - Lại nói sự, Hoàng giang sinh thánh
126 - Hoàng phúc xưa, đă định Tây phong
127 - Làu làu thế giới sáng trông
128 - Lồ lộ mặt rồng đầu có chữ vương
129 - Rơ sinh tài lạ khác thường
130 - Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài

131 - Xem ư trời, có ḷng đăi thánh
132 - Đốc sinh hiền, điều đỉnh hội mai
133 - Chọn Đẩu-Thai những v́ sao cả
134 - Dùng ở tay phụ tá vương gia
135 – Bắc phương chính khí sinh ra
136 - Có ông Bạch sĩ (xỉ) điều ḥa hôm mai

137 - Song thiên nhật rạng sáng soi
138 - Thánh nhân chẳng biết th́ coi cho tường
139 - Đời này thánh kế vị vương
140 - Đủ no đạo đức văn chương trong ḿnh
141 - Uy nghi trạng mạo khác h́nh
142 – Thác cư một gốc Kim tinh phương Đoài
143 - Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi
144 - Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
145 - Binh thơ mấy quyển kinh luân
146 - Thiên văn địa lư nhân luân càng mầu


147 - ... ở đâu (đó), anh hùng hẳn biết
148 - Xem sắc mây, đă biết thành long
149 - Thánh nhân cư có thụy cung
150 - Quân thần đă định ǵn ḷng chớ tham

151 - Lại dặn đấng, tú nam chí cả
152 - Chớ vội vàng, tất tả chạy rong
153 - Học cho biết lư kiết hung
154 - Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi
155 - Hể trời sinh xuống phải th́ (thời)
156 - Bất kỳ nhi ngộ màng ǵ tưởng trông

157 - Ḱa những kẻ, vội ḷng phú quí
158 - Xem trong ḿnh, một thí đều không
159 - Ví dù có gặp ngư ông
160 - Lưới chài đâu sẵn nên công mà ḥng

161 - Xin khuyên đấng, thời trung quân tử
162 - Ḷng trung ngh́, ai nhớ cho tinh
163 - Âm dương cơ ngẩu ngô sinh
164 - Thái Nhâm Thái Ất trong ḿnh cho hay

165 - Văn th́ luyện, nguyên bài quyết thắng
166 - Khen Tử Pḥng, cùng đấng Khổng Minh
167 - Vơ thông Yên Thủy Thần Kinh
168 - Được vào trận chiến mới càng biến cơ

169 - Chớ vật vờ, quen loài ong kiến
170 - Biết ray (day) tay, miệng biếng nói không
171 - Ngỏ hay gặp hội mây rồng
172 - Công danh choi chói chép trong vân đài
173 - Bấy giờ phỉ sức chí trai
174 - Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc ḿnh
175 - Nặng ḷng thật có vĩ kinh
176 - Cao tay mới ngẫm biết t́nh năm nao
177 - Trên trời có mấy v́ sao
178 - Đủ no biền tướng anh hào đ̣i nơi
179 - Nước Nam thường có thánh tài
180 - Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường

181 - So mấy lời, để tàng kim quĩ
182 - Chờ hậu lai, có chí sẽ cho
183 - Trước là biết nẻo tôn pḥ
184 - Sau là cao chí biết lo mặc ḷng

185 - Xem Đoài cung, đến thời bất tạo
186 - Thấy vĩ tinh, liệu rạo cho mau
187 - Nguôi ḷng tham tước tham giàu
188 - T́m nơi tam hiểm mới hầu bảo thân
189 - Trẻ con mang mệnh tướng quân
190 – Ngỡ oai đă dấy ngỡ nhân đă nhường

191 - Ai lấy gương, vua U thủa trước
192 - Loạn ru v́, tham ngược bất nhân
193 - Đoài phương ong khởi lần lần
194 - Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn
195 - Man mác một đỉnh Hoành Sơn
196 - Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù

197 - Ấy là những, binh thù Thái Thái
198 - Ḷng trời xui, ai nấy biết ru ?
199 - Phá điền đầu khỉ cuối thu
200 - Tái binh mới động thập tḥ liền sang

201 - Lọ chẳng thường, trong năm khôn xiết
202 - Vẽ (vả) lại thêm, hung kiệt mất mùa
203 - Lưu tinh hiện trước đôi thu
204 - Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm

205 - Xem thấy những, sương săm tuyết lạnh
206 - Loài bất b́nh, tranh mạnh hung hăng
207 - Thành câu cá lửa tưng bừng
208 - Kẻ ngàn Đông Hải người rừng Bắc Lâm
209 - Chiến trường chốn chốn cát lầm
210 - Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông

211 - Sang thu chín, huyết hồng tứ giả
212 - Noi đàng dê, tranh phá đôi nơi
213 - Đua nhau đồ thán quần lê
214 - Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
215 - Kẻ th́ phải thửa hung hoang
216 - Kẻ th́ binh hỏa chiến trường chết oan
217 - Kẻ th́ mắc thửa hung tàn
218 - Kẻ th́ bận của bỗng toan khốn ḿnh

219 - Muông vương dựng ổ cắn tranh
220 - Điều th́ làm chước xuất binh thủ thành
221 - Bời bời đua mạnh tranh hành
222 - Ra đâu đánh đấy đem binh sớm ngày
223 - Bể thanh cá phải ẩn cây
224 - Đất bằng nổi sấm cát bay bụi mù
225 - Nào ai đă dễ nh́n U
226 - Thủy chiến bộ chiến mặc dù đ̣i cơn
227 - Cây bay lá lửa đ̣i ngàn
228 - Một làng c̣n mấy chim đàn bay ra
229 - Bốn phương cùng có can qua
230 - Làm sao cho biết nơi ḥa (nào) bảo thân
231 - Đoài phương thực có chân nhân
232 - Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
233 - T́m cho được chốn được nơi
234 - Thái nguyên một giải lần chơi trú đ́nh
235 - Bốn bề núi đá riểu quanh
236 - Một đường tiểu mạch nương ḿnh dấy an


237 - Hễ Đông Nam, nhiều phen tàn tặc (tạc – tạ)
238 - Tránh cho xa, kẻo mắc đao binh
239 – Bắc kinh mới thực đế kinh
240 - Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào
241 - Chim hồng vổ cánh bay cao
242 - T́m cho được chốn mới vào thần kinh

243 - Ai dễ cứu, con thơ sa giếng
244 - Đưa một ḷng, tranh tiếng dục nhau
245 - Vạn dân chịu thủa u sầu
246 - Kể dư đôi ngũ mới hầu khoan cho
247 - Cấy cày thu đăi thời mùa
248 - Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
249 - Nhân ra cận duyệt viễn lai
250 - Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm

251 - Xem tượng trời, biết đường đời trị
252 - Ngẩm về sau, họ Lư xưa nên
253 - Gịng nhà để lấy dấu truyền
254 - Ngẩm xem bốn báu c̣n in đời đời
255 - Thần qui cơ nổ (nỏ) ở trời
256 - Để làm thần khí thủa nơi trị trường

257 - Lại nói xứ, Hoàng giang sinh thánh
258 - Sông Bảo giang, thiên định ai hay ?
259 - Lục thất cho biết ngày dày (dài)
260 - Phụ nguyên ấy thực ở dày (đầy) Tào Khê
261 - Có thầy Nhân Thập đi về
262 - Tả phụ hữu tŕ cây cỏ làm binh


263 - Giốc hết sức, sửa sang vương nghiệp
264 - Giúp vạn dân, cho đẹp ḷng trời
265 - Ra tay điều chỉnh hộ may (mai)
266 - Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
267 - Lọ là phải nhọc kéo quân
268 - Thấy nhân ai chẳng mến nhân t́m về

269 - Năm Giáp Tư, vẽ khuê đă rạng
270 - Lộ ngũ tinh, trinh tượng thái hanh
271 - Ân trên vũ thí vân hành
272 - Kẻ thơ kư túy kẻ canh xuân đài
273 - Bản đồ chẳng sót cho ai
274 - Ngh́n năm lại lấy hội nơi vẹn toàn


275 - Vững nền vương, cha truyền con nối
276 - Dỏi muôn đời, một mối xa thư
277 - Bể ḱnh tâm lặng bằng tờ
278 - Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
279 - Au vàng khỏe đặt vững chân
280 - Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài

Chương Hai

281 - Vừa năm Nhâm Tư xuân đầu
282 - Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
283 - Quyển vàng mở thấy sấm trời
284 - Từ Đinh đổi đời chí lục thất gian
285 - Một thời có một tôi ngoan
286 - Giúp trong việc nước gặp an thái b́nh
287 - Luận chung một tập kim thời
288 - Tướng quyền sĩ tử nam nhi học đ̣i
289 - Trượng phu có chí thời coi
290 - Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nghành vàng
291 - Tài nầy nên đấng vẻ vang
292 - Biết chừng đời trị biết đường đời suy

293 - Kể từ nhân đoản mà đi
294 - Số chưa gặp th́ biết ḥa chép ra
295 - Tiếc thay hiền sĩ bao già
296 - Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
297 - Thử cho tay giúp ra dùng
298 - Tài này so cùng tài trước xem sao ?
299 - Trên trời kể chín tầng cao
300 - Tay (tai) nghe bằng một ti hào biết hay
301 - Hiềm v́ sinh phải thời này
302 - Rấp phù mở nước tiếc thay chưng đời
303 - Hợp đà thay thánh ngh́n tài
304 - Giáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời

305 –Nói ra th́ lậu sự đời
306 - Trái tai phải lụy tài trai khôn luần
307 - Nói ra ám chúa bội quân
308 - Đương thời đời trị xoay vần được đâu

309 - Chờ cho nhân đoản hết sau
310 - Đến chừng đời ấy thấy âu nhiều nàn
311 - Trời xui những kẻ ác gian
312 - Kiếp độc dạo thiết làm loàn có hay
313 - Vua nào tôi ấy đă bày
314 - Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn
315 - Đua nhau bội bạn nghịch vi
316 - Ích gia phi kỷ dân th́ khốn thay

317 - Tiếc tài gẩm được th́ hay
318 - Đă sao như vậy ra tay sẽ dùng
319 - Tài trai có chí anh hùng
320 - Muốn làm tướng suư lập công xưng đời
321 - Khá xem nhiệm nhặt tộ trời
322 - Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng
323 - Đi t́m cho đến Đế cung
324 - Rấp phù xuất lực Đế cung được toàn
325 - Bảo nhau cương kỷ cho tường
326 - Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài
327 - Chờ cho động đất chuyển trời
328 - Bấy giờ Thánh sẽ nên tay anh hùng

329 - C̣n bên th́ náu chưa xong
330 - Nhân lực cướp lấy thiên công những là
331 - Đời ấy (này) những quỉ cùng ma
332 - Chẳng c̣n ở thật người ta đâu là
333 - Trời cao đất rộng bao xa
334 - Làm sao cho biết cửa nhà Đế vương
335 - Dù trai ai chửa biết tường
336 - Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này
337 - Ư ra lục thất gian nay
338 - Thời vận đă định tuần nầy hưng Vương
339 - Trí xem nhiệm nhặt cho tường
340 –Bảo giang Thánh xuất trung ương thuở nầy


341 - Vua ngự thạch bàn xa thay
342 - Đại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
343 - Gà kêu vượn hót vang lừng
344 - Đường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn ḍ
345 - Nhân dân vắng mặt bằng tờ
346 - Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay
347 - Vua c̣n cuốc nguyệt cày mây
348 - Phong điều vũ thuận thú rày an thân
349 - Phong đăng hoà cốc chứa chang
350 - Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
351 - Chính cung phương Khảm vần mây
352 – Thực thay Thiên tử là nay trị đời

353 - Anh hùng trí lượng thời coi
354 - Công danh chẳng ngại t́m đ̣i ra đi
355 - T́m lên đến Thạch Bàn Khê
356 - Có đất sinh Thánh bên kia cuối làng
357 - Nh́n đi nh́n lại cho tường
358 – Dường như chửa có sinh Vương đâu là
359 - Chẳng t́m th́ đến B́nh Gia
360 - Thánh chưa sinh Thánh báo ca địa b́nh
361 - Nh́n xem phong cảnh cũng xinh
362 - Tả long triều lại có thành đợt vây
363 - Hữu hổ uấn khúc giang này
364 - Minh Đường thất diệu trước bày mặt tai

365 - Ở xa thấy một con voi
366 - Cúi đầu quen bụi trông vời hồ sâu
367 - Ấy điềm Thiên tử về chầu
368 - Tượng trưng Đế Thánh tộ lâu trị đời
369 - Song thiên nguyệt rạng sáng soi
370 - Sinh đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu
371 - Đến đời thịnh vượng c̣n lâu
372 - Đành đến tam hợp chia nhau sẽ làm
373 - Khuyên cho Đông Bắc Nam Tây
374 - Muốn làm tướng suư th́ xem trông này

375 - Thiên sinh Thiên tử ư hoả thôn
376 - Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
377 - Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
378 - Hậu sinh Thiên tử Bảo giang môn


379 - Kià cơn gió, thổi lá rung cây
380 - Rung Bắc sang, Nam Đông tới Tây
381 - Tan tác Kiến kiều An đất nước
382 - Xác xơ Cổ thụ sạch Am mây
383 - Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
384 - Hưng địa tràng (tràn) dâng hoá nước đầy

385 - Một gió một yên, ai sùng bái
386 - Cha con người (nhà), Vĩnh Bảo cho hay
387 - Con mùng búng tít con quay
388 - Vù vù chong chóng gió bay trên đài
389 - Nhà cha cửa đóng then cài
390 - Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân
391 - Tiếc tám lạng thương nửa cân
392 - Biết rằng ai có dù phần như ai
393 - Vắt tay nằm nghĩ dông dài
394 - Thương người có một lo hai phận ḿnh

395 - Canh niên Tân phá
396 - Tuất Hợi phục sinh
397 - Nhị ngủ dư b́nh

398 - Long vĩ xà đầu khổ chiến tranh
399 - Can qua xứ xứ khởi đao binh
400 - Mă đề dương cước anh hùng tận
401 - Thân Dậu niên lai kiến thái b́nh


402 - Non Đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
403 - Có một đàn xà đánh lộn nhau
404 - Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
405 - Lợn kia làm quái phải sai đầu
406 - Chuột nọ lăm le mong cắn tổ
407 - Ngựa kia đủng đỉnh bước về Tàu
408 - Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
409 - T́m về quê cũ bắt ngựa Tàu


410 - Cửu cửu kiền khôn dĩ định
411 - Thanh minh thời tiết hoa tàn
412 - Trực đáo Dương đầu Mă vĩ
413 - Hồ binh bát vạn nhập Trường An

414 - Bảo giang Thiên tử xuất (Phá Điền Thiên tử xuất)
415 - Bất chiến tự nhiên thành
416 - Lê dân bảo (đào) bảo (băo) noăn 暖
417 - Tứ hải lạc âu ca

418 - Dục đức thánh nhân hương - B (A – C – D)
419 - Quá kiều cư Bắc phương
420 - Danh vi Nguyễn gia tử
421 - Kim tịch (Tinh bản) sinh Ngưu lang

422 - Thượng đại nhân bất nhân
423 - Thánh ất dĩ vong ân
424 - Bạch hổ kim đái ấn
425 - Thất thập cổ lai xuân

426 - Bắc hữu kim thành tráng
427 - Nam tạc ngọc bích thành
428 - Hỏa thôn đa khuyển phệ
429 - Mục giả dục nhân canh

430 - Phú quí hồng trần mộng
431 - Bần cùng bạch phát sinh
432 - Anh hùng vương kiếm kích
433 - Manh cổ đổ thái b́nh

434 - Nam Việt hữu Ngưu tinh
435 - Quá thất thân thủy sinh
436 - Địa giới sĩ (xỉ) vị bạch
437 - Thủy trầm nhĩ bất kinh (Thủy trầm nhi Bắc kinh)

438 - Kư Mă xu (khu) Dương tẩu
439 - Phù Kê thăng đại minh
440 - Trư Thử giai phong khởi
441 - Th́n Măo xuất thái b́nh

442 - Phân phân tùng (从)Bắc khởi (Phân phân tùng (松) bách khởi)
443 – Nhiễu nhiễu xuất đông chinh
444 - Bảo sơn thiên tử xuất
445 - Bất chiến tự nhiên thành

446 - Thủy trung tàng bảo cái
447 - Hứa cập thánh nhân hương
448 – Mộc hạ châm châm khẩu
449 - Danh thế xuất nan lương

450 - Danh vi Nguyễn gia tử
451 - Tinh bản tại Ngưu lang
452 - Mại dữ lê viên dưỡng
453 - Khởi nguyệt bộ đại giang

454 - Hoặc kiều tam lộng ngạn
455 - Hoặc ngụ kim lăng cương
456 - Thiên dữ thần thực thụy
457 - Thụy tŕnh ngũ sắc quang

458 - Kim kê khai lựu điệp
459 - Hoàng cái xuất quí phương
460 - Nhân nghĩa thùy vi địch
461 - Đạo đức thực dữ đương

462 - Tộ truyền nhị thập ngũ
463 - Vận khải ngũ viên trường
464 - Vận đáo dương hầu ách
465 - Chấn Đoài cương bất trường

466 - Quần gian đạo danh tự
467 - Bách tính khổ tai ương
468 - Can qua tranh đấu khởi
469 - Phạm địch thánh (tánh) hung hoang
470 - Ma vương sát đại quỉ
471 - Hoàng thiên tru ma vương

472 - Kiền khôn phú tải vô lương
473 - Đào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng
474 - Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
475 - Đảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân
476 - Ta hồ vô phụ vô quân
477 - Đào viên tán lạc ngô dân thủ thành

478 - Đoài phương phước địa giáng linh
479 - Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân
480 - Phá điền thiên tử giáng trần
481 - Dũng sỉ nhược hải mưu thần như lâm


482 - Trần công năi thị phúc tâm
483 - Giang hồ tử sĩ Đào Tiềm xuất du
484 - Tướng thần hệ xuất Y Chu
485 - Thứ ky phục kiến Đường Ngu thi hành

486 - Hiệu xưng thiên hạ thái b́nh
487 - Đông Tây vô sự Nam thành quốc gia

PHỤ TRƯƠNG I

A - Dục thức Thánh nhân xứ
- Đa xuất ứng Bảo giang
B - Dục thức Thánh nhân hương
- Thủy lam bảo trung tàng
C - Dục thức Thánh nhân tính
- Mộc hạ liên đinh khẩu
D - Dục thức Thánh nhân diện
- Tu tầm trương cú kiến

- Giang nam nhị thủy huyện
- Tại sơn vô hổ lang
- Thất thập nhị hiền tướng
- Phụ tá Thánh Quân vương

- Phá Điền Thiên tử xuất
- Bất chiến tự nhiên thành

- Tư tâm dục thức thánh nhân diện
- Lưỡng biên bàn ngạt thùy nhất khối
- Thủ túc chánh vương tam lương tự.

SẤM KƯ NGUYỄN BỈNH KHIÊM

      Nước Nam từ họ Hồng Bàng
      Biển dâu cuộc thế giang sơn đổi vần
      Tự Đinh Lê Lư Trần thuở trước
      Đă bao lần ngôi nước đổi thay
      Núi sông thiên định đặt bày.
      Đồ thư một quyển xem nay mới rành

      Hoà đao mộc lạc
      Thập bát tử thành
      Đông A nhật xuất
      Dị mộc tái sinh
      Chấn cung xuất nhật
      Đoài cung vẫn tinh
      Phụ nguyên chi thống
      Đế phế vi đinh
      Thập niên dư chiến
      Thiên hạ cửu b́nh


      Lời thần trước đă ứng linh
      Hậu lai phải đoán cho minh mới tường
      Hoà đao mộc hồi dương sống lại
      Bắc Nam thế thời đại nhiễu nhương
      Hà thời biện lại vi vương
      Thử thời Bắc tận Nam trường xuất bôn

      Lê tồn Trịnh tại
      Trịnh bại Lê vong

      Bao giờ ngựa đá sang sông
      Th́ dân Vĩnh Lại Quận Công cả làng
      Hà thời thạch mă độ giang
      Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu

      Chim bàng cất cánh về đâu?
      Chết tại trên đầu hai chữ Quận Công
      Bao giờ trúc mọc qua sông
      Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây
      Đoài cung một sớm đổi thay
      Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng c̣n
      Đầu cha lộn xuống thân con
      Mười bốn năm tṛn hết số th́ thôi
      Phụ nguyên chính thống hẳn hoi
      Tin dê lại phải mắc mồi đàn dê

      Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu
      Gà kia vỗ cánh trập trùng bay
      Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa
      Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày

      Nói cho hay khảm cung ong dậy
      Chí anh hào biết đấy mới ngoan
      Chữ rằng lục thất nguyệt gian
      Ai mà giữ được mới nên anh tài


      Ra tay điều đỉnh hộ mai
      Bấy giờ mới rơ là người an dân
      Lọ là phải nhọc kéo quân
      Thấy nhân ai chẳng mến nhân t́m về
      Phá điền than đến đàn dê
      Hễ mà chuột rúc th́ dê về chuồng
      Dê đi dê lại tuồn luồn
      Đàn đi nó cũng một môn phù tŕ

      Thương những kẻ nam nhi chí cả
      Chớ vội sang tất tả chạy rong
      Học cho biết chữ cát hung
      Biết cho phương hướng chớ đừng lầm chi
      Hễ trời sinh xuống phải th́
      Bất ḱ nhi ngộ tưởng ǵ đợi mong
      Ḱa những kẻ vội ḷng phú quí
      Xem trong ḿnh một tí đều không
      Ví dù có gặp ngư ông
      Lưới giăng đâu dễ nên công mà ḥng

      Khuyên những đấng thời trung quân tử
      Ḷng trung nghiă nên giữ cho ḿnh
      Âm dương cơ ngẫu hộ sinh
      Thái Nhâm Thái Ất bên ḿnh cho hay
      Chớ vật vờ quen loài ong kiến
      Hư vô bàn miệng tiếng th́ nói không

      Ô hô thế sự tự b́nh bồng,
      Nam Bắc hà thời thiết lộ không
      Hồ ẩn sơn trung mao tân bạch
      Ḱnh cư hải ngoại huyết lưu hồng
      Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc
      Ngưu xuất Lam điền nhật chính Đông
      Nhược đăi ưng lai sư tử thượng
      Tứ phương thiên hạ thái b́nh phong


      Ngơ may gặp hội mây rồng
      Công danh rạng rỡ chép trong vân đài
      Nước Nam thường có thánh tài
      Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường ?
      So mấy lề để tàng kim quỹ
      Kẻ sau này ngu bỉ được coi
      Đôi phen đất lở cát bồi
      Đó đây ong kiến dậy trời quỷ ma
      Ba con đổi lấy một cha
      Làm cho thiên hạ xót xa v́ tiền
      Măo Th́n Tư Ngọ bất yên
      Đợi tam tứ ngũ lai niên cũng gần

      Hoành sơn nhất đái
      Vạn đại dung thân

      Đến thời thiên hạ vô quân.
      Làm vua chẳng dễ làm dân chẳng lành
      Gà kêu cho khỉ dậy nhanh
      Phụ nguyên số đă rành rành cáo chung

      Thiên sinh hữu nhất anh hùng
      Cứu dân độ thế trừ hung diệt tà
      Thái Nguyên cận Bắc đường xa
      Ai mà t́m thấy mới là thần minh
      Uy nghi dung mạo khác h́nh
      Thác cư một góc kim tinh phương Đoài
      Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi
      Chờ cơ mới sẽ ra đời cứu dân
      Binh thư mấy quyển kinh luân
      Thiên văn địa lư nhân dân phép mầu

      Xem ư trời, ngỏ hầu khải thánh
      Dốc sinh ra, điều chỉnh hộ mai
      Song thiên nhật nguyệt sáng soi
      Thánh nhân chẳng biết th́ coi cho tường
      Thông minh kim cổ khác thường
      Thuấn Nghiêu là trí Cao Quang là tài


      Đấng hiên ngang, nào ai biết trước
      Tài thao lược, yêm bác vũ văn
      Ai c̣n khoe trí khoe năng
      Cấm kia bắt nọ hung hăng với người

      Chưa từng thấy, nay đời sự lạ
      Chốc lại ṃng, gá vạ cho dân
      Muốn b́nh sao chẳng lấy nhân
      Muốn yên sao lại bắt dân ghê ḿnh
      Đă ngu dại Hoàn Linh đời Hán
      Lại đua nhau quần thán đồ lê
      Chức nầy quyền nọ say mê
      Làm cho thiên hạ khôn bề tựa nương
      Kẻ th́ phải thuở hung hoang
      Kẻ th́ bận của bóng toan khốn ḿnh

      Cửu cửu càn khôn dĩ định
      Thanh minh thời tiết hoa tàn
      Trực đáo dương đầu mă vĩ
      Hồ binh bát vạn nhập Trường an

      Nực cuời những kẻ bàng quan
      Cờ tan lại muốn toan đường chống xe
      Lại c̣n áo mũ xum xoe
      C̣n ra xe ngựa màu mè khoe khoang
      Ghê thay thau lẫn với vàng
      Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng
      Thánh ra tuyết tán mây tan
      Bấy giờ mới sáng rơ ràng nơi nơi
      Can qua việc nước tơi bời
      Trên thuận ư trời dưới đẹp ḷng dân
      Oai phong khấp quỷ kinh thần
      Nhân nghĩa xa gần bách tính ngợi ca

      Rừng xanh núi đỏ bao la
      Đông tàn Tây bại sang gà mới yên
      Sửu Dần thiên hạ đảo điên
      Ngày nay thiên số vận niên rành rành

      Long vĩ Xà đầu khởi chiến tranh
      Can qua xứ xứ khổ đao binh
      Mă đề dương cước anh hùng tận
      Thân Dậu niên lai kiến thái b́nh


      Sự đời tính đă phân minh
      Thanh nhàn mới kể chuyện ḿnh trước sau
      Đầu thu gà gáy xôn xao
      Mặt trăng xưa sáng tỏ vào Thăng Long
      Chó kêu ầm ỉ mùa Đông
      Cha con Nguyễn lại bế bồng nhau đi
      Lợn kêu t́nh thế lâm nguy
      Quỷ vương chết giữa đường đi trên trời
      Chuột sa chỉnh gạo nằm chơi
      Trâu cày ngốc lại chào đời trước ta
      Hùm gầm khắp nẻo gần xa
      Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời

      Rồng bay năm vẻ sáng ngời
      Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng
      Ngựa lồng quỷ mới nhăn răng
      Cha con ḍng họ thầy tăng hết thời
      Chín con rồng lộn khắp nơi
      Nhện giăng lưới gạch dại thời mắc mưu
      Lời truyền để lại bấy nhiêu
      Phương Đoài giặc đă đến chiều bại vong
      Hậu sinh thuộc lấy làm ḷng
      Đến khi ngộ biến đường trong giữ ḿnh
      Đầu can vô tướng ra binh
      Ắt là trăm họ thái b́nh âu ca

      Thần Kinh Thái Ất suy ra
      Để danh con cháu đem ra nghiệm bàn
      Ngày thường xem thấy quyển vàng
      Của riêng bảo ngọc để tàng xem chơi
      Bởi Thái Ất thấy lạ đời
      Ấy thuở sấm trời vô giá thập phân
      Kể từ đời Lạc Long Quân
      Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian
      Mỗi đời có một tôi ngoan
      Giúp chung nhà nước dân an thái b́nh

      Phú quí hồng trần mộng
      Bần cùng bạch phát sinh
      Hỏa thôn đa khuyển phệ
      Mục giả giục nhân canh
      Bắc hữu Kim thành tráng
      Nam hữu Ngọc bích thành
      Phân phân tùng bách khởi
      Nhiễu nhiễu xuất Đông chinh
      Bảo giang Thiên tử xuất
      Bất chiến tự nhiên thành

      Rồi đây mới biết Thánh minh
      Mừng đời được lúc hiển vinh reo ḥ
      Nhị Hà một dải quanh co
      Chính thực chốn ấy Đế đô hoàng bào
      Khắp hoà thiên hạ nao nao
      Cá gặp mưa rào có thích cùng chăng ?


      Nói đến độ, thầy tăng mở nước
      Đám quỷ kia, xuôi ngược đến đâu ?
      Bấy lâu những cậy phép mầu
      Bây giờ phép ấy để lâu không hào

      Cũng có kẻ, non trèo biển lội,
      Lánh ḿnh vào, ở nội Ngô, Tề
      Có thầy Nhân Thập đi về
      Tả hữu phù tŕ cây cỏ thành binh
      Những người phụ giúp thánh minh
      Quần tiên xướng nghĩa chẳng tàn hại ai
      Phùng thời nay hội thái lai
      Can qua chiến trận để người thưởng công
      Trẻ già được biết sự ḷng
      Ghi làm một bản để ḥng dở xem
      Đời này những Thánh cùng Tiên
      Sinh những người hiền trị nước an dân

      ….
      Nầy những lúc, thánh nhân chưa lại
      Chó c̣n nằm, đầu khải cuối thu
      Khuyên ai sớm biết khuông phù
      Giúp cho thiên hạ Đường Ngu ngơ hầu

      Cơ tạo hoá, phép mầu khôn tỏ
      Cuộc tàn rồi, mới rơ thấp cao
      Thấy Sấm từ đây chép vào
      Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa

BẠCH VÂN CA

Nước Nam thường có thánh tài.
Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường.
Ḱa Nhị Thuỷ nọ Dao Sơn,
Bài ngọc dát nổi âu vàng Trời cho.
Học cách vật mới ḍ tới chốn
Chép ghi làm một bổn xem chơi.
Muôn việc cũng bởi tại người,
Suy ra mới biết sự đời dường bao.
Dẫu ai có vàng trao ngh́n hộc
Châu báu hơn chữ một nghĩa mười.

Tiên Hoàng từ trước mở ngôi
Cờ lau tập trận thay Trời trị dân.
Mới được mười hai dư xuân
Lê Hành kế vị xa gần âu ca.
Ba mươi năm ngôi nhà được lẻ
Đến Ngoạ Triều nào kẻ tài hay.
Ngôi Trời để Lư vào thay
Tám cành hoa nở đến ngày dực phân.
Chiêu Hoàng là Á Nữ Quân
Thấp bề nhan sắc trao Trần Thái Tôn.
Thập nhị thế tiếng đồn nhân hậu;
Trăm bảy mươi ghi dấu thất niên

Đông A chốn ấy c̣n bề
Quư Ly tiếm thiết thay quyền đă cam.
Đại Ngu được mười bốn năm;
Hậu Trần Nhị Đế lại chăm phục hồi.
Suy ra mới biết sự Trời
Lam Sơn khởi nghĩa là đời Lê gia
Tây Sơn sừng sực kéo ra
Ngẫm xem thế tục gọi là phương ngôn.
Đến Phụ Nguyên đ̣i c̣n chinh chiến
Trả bao thu dâu biển cát lầm
Rừng xa vực thẩm nguồn thâm
Nào ai biết sẽ nhân tâm lúc nầy.

Chó mừng chúa gà bày cục tác
Lợn ăn no thả rác nằm chơi.
Đó mới kể là đời thịnh thế
Mà thiên hạ sau xẻ làm hai.

Người Đoài cũng thực ấy tài
Mà cho người Sở toan bài lập công.
Bởi Trần vương ngu không kể siết
Mới phen nầy dê lại giết dê.
Đến khi thức tận binh b́
Âm binh ở giữa dễ th́ biết sao.

Trời cho ta mang dao chém quỷ
Khắp dưới Trời b́nh trị quỷ thư.
Ai từng cứu con thơ xa giếng
Chớ một ḷng chinh chiến phá nhau.


Muôn dân chịu những âu sầu,
Kể dư nhị ngũ mới hầu biết cho.

Chốn Đông Nam, ḷ ḍ khổ ải
Lánh cho xa, kẻo phải đao binh.
Bắc phương chính thực đế kinh
Náu ḿnh chưa dễ náo danh được nào.
Vả người là đúng anh hào
Sánh làm sao được ước ao đêm ngày.

Ấy những quân, đời này thế ấy
Ḷng Trời xui, ai nấy biết đâu.
Chớ đừng tham của làm giàu
T́m nơi tam hiểm ngỏ hầu bảo thân.
Đà Giang chốn ấy cũng gần
Kim Ngư chốn ấy cũng phần thuở nơi.
Ba Thục riêng một góc trời
Thái Nguyên một dải là nơi trú đ́nh.
Tứ bề núi đá xanh xanh,
Có đường tiểu mạch nương ḿnh ai hay.
Bốn Bụt xuất thế dă chầy
Chưa chọn được ngày ra của nhân dân.

Ấy là điềm xuất Thánh quân,
Hễ ai biết được th́ thân mới toàn.
Chữ rằng hữu xạ tức tự nhiên hương
Có phải tầm thường thuốc dấu bán sao?
Nắng lâu phải có mưa rào
Vội chi tát nuớc xôn xao cày bừa.
Hạn rồi th́ phải có mưa
Buồm giương gặp gió cày bừa gặp cơn.
Tuần này Thánh xuất Khảm phương
Sự thực đă tường chẳng phải lo suy.
Quần hùng binh dậy sơn khê
Kẻ khoe cứu nước người khoe trợ thời.

Xem thấy những, sương rơi tuyết lạnh
Loài bất b́nh, tranh cạnh hung hăng.
Một cơn sấm dậy đất bằng,
Thánh nhân ra mới cứu hàng sinh linh.
Lược thao văn vũ tài t́nh
Mới hay phú quư hiển vinh lạ lùng.
Tam công gặp hội vui mừng,
Bỏ khi cá nước vẫy vùng biển sông.
Bỏ khi chém rắn vẽ rồng
Bỏ khi non Bắc ải Đông mịt mù.
Bỏ khi kẻ Việt người Hồ
Bỏ khi kẻ Sở người Ngô xa đường

Càn khôn phủ tái vô lương
Đào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng.
Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
Đảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân.
Ta hồ vô phụ vô quân
Đào viên tản lạc ngô dân thủ thành

Ta hồ vô phụ vô quân
Đà Giang phúc địa giáng linh
Cửu trùng thụy ứng ḷng thành ngũ vân
Phá điền thiên tử giáng trần,
Dũng sĩ nhuợc hải mưu thần như lâm
Trần Công năi thị phúc tâm
Giang hồ sử sĩ Đào Tiềm xuất du.
Tương thần hệ xuất Y Chu
Thử kỳ phục kiến Đường Ngu thị thành.
Hiệu xưng thiên hạ thái b́nh.


PHỤ TRƯƠNG BẠCH VÂN THI TẬP

Lời soạn giả: BẠCH VÂN THI TẬP & PHỤ TRƯƠNG LỜI I đúng y như sấm truyền, chỉ có phụ trương II có ít chổ tam sao thất bổn, nhưng cũng không quan hệ mấy, xin độc giả chỉ lấy đại cương thôi.
MINH ĐIỀN kính cẩn.

PHỤ TRƯƠNG II

- Cuộc đời ai dể biết đâu
- Yêu tinh gian trá bóp hầu thần tiên
- Quan làng ỷ thế ỷ quyền
- Dân khôn giả dại mới yên phận ḿnh
- Mặc ai chia rẽ thị khinh
- Việc làng việc nước làm thinh chớ bàn
- Ta tinh ta mới đặng an
- Luận bạn bè bạn chỉ đàng cho nhau
- Việc người th́ mặc người âu
- Nghiêng tai giả điếc lắc đầu làm ngơ
- Muốn yên mồm lặng như tờ
- Luận bàn việc nước th́ khô xác h́nh

- Bởi đời quốc thể bù nh́n
- Quan làng tàn bạo sanh linh tơi bời
- Lương dân than khổ đ̣i nơi
- Quốc hồn mờ ám hởi ôi thế quyền
- Nước nhà nghiêng ngửa ngửa nghiêng
- Tham quan hại nước lợi riêng cho ḿnh
- Biết chi là ám với minh
- Sớm ưa trưa ghét nhân t́nh đời ni (nay)
- Kim tiền quyền thế tương tri
- Không tiền không thế người khi ngu đần
- Chớ hà hiếp nhớ siêng cần
- Đến nơi Tiên Phật Thánh Thần mới an

- Nghèo nàn bỗng chốc giàu sang
- Đứa ngu đội bạc ra đường dại khôn
- Bởi đời toàn lũ vô hồn
- Khinh khi nhân nghĩa trọng tôn bạc tiền
- Dốt ngu đội lốt Thánh Hiền
- Mở miệng th́ rặc đồ điên một ḍng
- Chừng nào cây sắc trổ bông
- Đường đen như mực Lạc Hồng tai phi
- Trung thần ái quốc dễ khi
- Phản thần măi quốc nên ghi để đời
- Thức thời Quốc sử bỏ rơi
- Ngay không nhầm lúc dĩ hơi hại ḿnh

- Vô quân vô tướng vô binh
- Trung không cùng chúa cúng kinh ích ǵ
- Chừng nào lúa mọc trên ch́
- Voi đi trên giấy đến kỳ Đông Chu
- Trí thời giả điếc giả ngu
- Khôn thời giả dại mà tu lấy ḿnh
- Cầm quyền toàn lủ yêu tinh
- Quan nhiều Mảng Tháo cùng sinh hại đời
- Mua quan bán chức lấy lời
- Hại dân hại nước coi trời như không
- B́ trung cốt nịnh rặc ḍn
- Kết phe kết đảng giết gịng phải nguy

- Nồi da xáo thịt ngộ thay
- Miền ḿnh béo mở mặc ai ốm gầy
- Cáo kia mượn thế hại cầy
- Mẹ cha ưa nịnh ghét bầy con ngu
- Động tâm Thượng Đế dạy ru
- Xuống nhiều tai họa xuân thu sửa lần
- Gió sầu mưa thảm cơi trần
- Thiên luân địa chấn quân thần nó xem
- Canh Tân sực nức mùi hèm
- Nhâm Quư bằng lặng ngoại đem binh vào
- Giáp thời thấy rơ binh đao
- Ất niên chiến họa xâm vào tràn lan

- Thiên tai chiến sự đa đoan
- Quốc gia nghiêng ngửa tham quan hại đời
- Phản thần bán nước khi trời
- Gọi rằng trung trực hởi ôi thế quyền.

- Nhứt hữu liên sơn nhứt nhật b́nh
- Tam giang khí địa nhụ giang kinh
- Tu châu tai lạc thế châu khổn
- Ngu hại hoàn chung khổ hại minh

- Xác dân xung tận cung đ́nh
- Thiên oai chấn nổ luật h́nh ban ra
- Mười phần mất bảy c̣n ba
- Mất hai c̣n một mới ra thái b́nh
- Trục kia chọi với đồng minh
- Hai sông khô cạn nhựt tinh tỏ ngời
- Ra oai đánh dẹp mọi nơi
- Năm châu bốn bể thây phơi trập trùng
- Mùa xuân gió bấc lạnh lùng
- Cua ḱnh trở gọng về cùng lũ dê
- Cuộc đời như thể tṛ hề
- Nực cười lũ chó c̣n mê lợi quyền

- Śnh ương khó nướng xào chiên
- Quốc gia nghiêng ngửa đảo điên bốn bề
- Ra đi th́ khó nổi về
- Xe kia hết bánh thả rề trôi sông
- Chừng nào Chợ Lớn hết vôi
- Bể Đông cá đặt cuộc đời lao đao
- Ḷ rèn thiếu thép rèn dao
- Hết đồng đúc đỉnh hết thau bán nồi
- Chợ đen vốn một lời mười
- Gạo châu củi quế lời người than van
- Vải bô giá sánh ngàn vàng
- Kẻ đói người rách lan tràn chợ quê

- Tiết trời đánh đổ bông hoa
- Nhân dân phải chịu thảm thê họa sầu
- Theo Âu nên phải lo âu
- Mấy ai hiểu nghĩa Bá đi Thúc Tề
- Khỉ đàn vừa gặp lũ Dê
- Bắc Trung phải chịu thảm thê họa sầu
- Đại bàng xung phá đài lầu
- Ngạc ngư phóng toát thuyền cầu tan hoang
- Rồi Nam cũng chịu lầm than
- Phương Đông ba tỉnh phải mang họa sầu
- Trớ trêu cảnh sắp nhiệm mầu
- Phồn hoa đô hội thảm sầu đớn đau
- Cuộc đời gẫm thiệt cơ cầu
- Trung thua quyền nịnh tiên hầu quỷ ma
- Khỉ đàng gặp cập măng xà
- Trăng tṛn thiếu một th́ ta xuống hầm
- Yêu đương cũng phải lạc lầm
- Sáu nơi khói lửa sấm gầm Sài môn
- Nghèo nàn không có quách chôn
- Gian tham quyền thế biết khôn lánh rồi
- Nhưng mà họa có đâu thôi
- Bồng bế con cái nổi trôi đầy đàng
- Đến hồi quốc vận lâm nàn
- Chi tiêu ăn mặc cường quan độc quyền

- Càng ngày càng đảo càng điên
- Dân ta như thể đàn chiên đáng vồn
- Ô hô giống khéo giống khôn
- Vay thời phải trả xác hồn ĺa xa
- Thịt rơi xương nát máu sa
- Thầy tăng chẳng chịu ở nhà Phù Tang
- Sưu cao thuế nặng ta mang
- Đàng xa mới biết xa đàng nặng cân
- Thân Dậu lánh việc nương thân
- Miên thành Sài trấn đến gần bỏ thây
- Khỉ kia bị một gà khi
- Cuộc đời như vậy tham chi mà ḅn

- Gà mừng gặp lúa túc con
- Miễn con no dạ mất c̣n kể chi
- Cái năm chiến họa loạn ly
- Mưa tai gió họa hại ǵ tham quan
- Nhơn dân khốn khổ đa đoan
- Mọi điều khốn khổ lại càng bằng hai
- Tu hành hiền hậu chết hoài
- Sai ngoa gian trá sống dai chật đàng
- Cơ trời định vậy chớ than
- Tương vong yêu nghiệt hành tàn đấy ư
- Đầu xuân gà gáy hăm tư
- Thầy tăng đến hạn họa trư tuyệt kỳ

- Thiên cơ máy tạo huyền vi
- Tuần hườn máy tạo ai th́ có hay
- Nực cười cho lũ vô tài
- Tôi tôi chúa chúa hôm mai Sở Tần
- Xuân phân cho đến Thu phân
- Quốc gia điên đảo thần dân rối nuồi
- Buồn buồn tủi tủi vui vui
- Tiếng th́ để tiếng muốn lui lắm lần
- Rồi đây bày tỏ trung can
- Trời cho Tiên Phật xuống trần trị yêu
- Văn minh cơ khí đủ điều
- Cọp đồng gấu sắt phi phiêu thủy hành

- Phong luân giáng họa lôi oanh
- Kết phe lập đảng tranh giành thế ni
- Năm châu nổi sóng một khi
- Chuồn bay khói tỏa tử thi như bèo
- Mưa dầu nắng lửa sấm reo
- Hai loại xâu xé họa gieo dân lành
- Đảng dân đại bại tan tành
- Cầu cùng đảng cọng ra tranh chiến cùng
- Tu binh măi mă chiêu hùng
- Núp lưng đảng cọng trung hưng nước nhà
- Rồi sau sanh sự bất ḥa
- Lại cùng đảng cọng can qua chiến trường

- Non cao bể cả đôi đường
- Phân ranh biên giới tỏ tường mới an
- Vầng hồng rọi khắp bốn phang (phương)
- Tây phang cuốn gói t́m đàng (đường) đào vong
- Bập bồng Tần quốc bập bồng
- Là nơi chiến địa huyết hồng tràn lan
- Hải hồ rửa máu nghỉ an
- Tiền Âu hậu Á Thiên Hoàng định thu
- Thân gà dạ khỉ đấy chừ
- Th́ là ngọn lửa mới thu diệu lần
- Kỳ phan thay đổi cuộc trần
- Chó kia gặp chủ nó cần sủa tru

- Quân minh dân sự ôn nhu
- Heo kia thong thả ngao du đầy đàng
- Chuột mừng gặp cảnh b́nh an
- Trâu kia thong thả nghêng ngang đồn điền
- Cọp rày làm chúa lâm điền
- Quân thần cộng lạc miên miên cửu trường

Bài này không phải là của Sấm Trạng, làm ra dựa theo Sấm Trạng và âm điệu ở miền Nam, nên có thể là của Giáo phái hay Đạo nào đó ở miền Nam.

BÀI GIÁNG BÚT CỦA TRẠNG TR̀NH

Bài tiên tri này do cụ Trần Văn Quế, một nhân sĩ uy tín, cương trực, thuộc Cao Đài giáo, một nhà cách mạng bị Pháp đày ra Côn đảo, một học giả lỗi lạc, một giáo sư Sử Địa lừng danh của trường Petrus Kư năm xưa, đă kể lại cho bỉ nhân nghe vào cuối năm 1954, tại trụ sở Mặt trận Quốc gia Liên hiệp của lănh tụ Vũ Tam Anh, ở hẻm Cao Thắng, khu Bàn Cờ, Sàig̣n. Cụ Quế nói: đêm đó, chúng tôi chia nhau kẻ lập bàn thờ dă chiến, kẻ canh chừng cai ngục, ḷng bồi hồi thấp thỏm chờ mong. Chỉ có chút hương ḷng thành khẩn xung thiên làm nhang đèn cháy rực trong tâm khảm những kẻ bị lưu đày, là người chủ lễ, chúng tôi vừa khấn vái xong, th́ cơ liền xây. Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm xưng danh, cho ngay một bài thơ tám câu bảy chữ. Bài thi thất ngôn bát cú độc đáo, chính xác, linh nghiệm ấy như sau:

Khỉ hú trời Nam cá hóa rồng
Gà kêu Nam Bắc hội Hoa Long
Lần tay đếm lại Năm Ba Chín
Mới thấy điềm may giống Lạc Hồng.
Chăm chỉ chờ ngày sang Mậu Ngũ
Ước ao đặng thấy buổi Canh Thân
Cho hay bốn bể ba đào dậy
Cù rống kêu vang giống Lạc Hồng.[/blue]
Quay trở về đầu Xem thiennhan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thiennhan
 
ngoctrongdda
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 26 November 2006
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 142
Msg 247 of 585: Đă gửi: 30 December 2006 lúc 4:36am | Đă lưu IP Trích dẫn ngoctrongdda

Hôm nay rảnh rỗi mới đọc lại trang 1,2 mới rơ phần chữ Hán ở sấm bác Thiennhan đă đăng và 1 số ư kiến chiết tự cũng hay mà ḿnh không biết chữ Hán nên lướt qua không đọc và h́nh như cũng có đă có ư kiến nói về chữ Mộc,  và bài trước lỡ có nói đến rồi th́ tôi cũng cố cho nhất quán luôn  mặc dù biết có thể sai ( Dựa theo t/g LVV lấy phần chữ Nho làm chính rồi xét thêm chữ nôm hay quốc ngữ....)

Mộc hạ châm châm khẩu  -> danh thế xuất.Vậy ở đầu câu có thể chỉ họ Hạ hay Mủi , Mùi chăng?  .Có thầy Nhân Thập đi về -> rơ ràng người đời sau diễn giải cho đúng thơ lục bát. Vậy từ danh tính hay chiết tự từ chữ Mộc?  -> Có thầy họ Mộc đi về?   Bởi vài suy nghĩ chưa được logic lắm tôi tạm thời có :

Dục đức thánh nhân hương.Quá kiều cư Bắc phương

Tại sao muốn biết quê hương của thánh nhân phải đi qua cầu Bắc phương (?).Trung Quốc  và Việt Nam có chỗ nào phải đi cầu qua sông không (?) Từ Bạch Vân Am cụ Trạng làm sấm vĩ -> Bắc phương chắc không loại trừ  phần đất Việt cũ này thuộc Trung quốc ( Quảng đông , Quảng tây? xin bổ sung hộ ) ???

Danh vi Mộc (?) gia tử.Kim tịch sinh Ngưu lang ( tịch bản tại Ngưu lang )

Họ Mộc -> Mủi hay Mùi là ḍng họ người Minh hương tràn qua?  Tại sao lại sinh ra Kẻ chăn trâu ( Ngưu lang?) mà không phải sinh ra kẻ chăn gà ,bắt chuột hay hổ lang ǵ đó?

Nam Việt hữu Ngưu tinh.Quá thất thân thủy sinh....

Con Trâu của nước Việt lại được đề cập , tôi khỏi bàn thêm. Tại sao phải qua Thất (7) rồi mới sinh?  Bàn thêm 1 số câu chữ quốc ngữ hay nôm ǵ đó cùng nghĩa

Ư rằng lục thất gian này  hay   Chử rằng lục thất nguyệt gian

Ai mà nghĩ được mới gan anh tài  hay  Thời vận đă định thời này hưng vương

Chắc đâu cần phải có gan anh tài phải không các bạn.Ai chả biết ông này sinh bất phùng thời ,tiếc tài có thể so sánh với cụ Trạng , cho nên tập hợp thêm mấy người giỏi đi t́m cửa nhà của Đế Vương và bảo vệ long huyệt -> là thầy đia lư ông ta đă biết  đời thứ mấy th́ Người ra đời. Nh́n thơ văn diễn giải của ông ta ,như 1 số người nhận định là đầu thế kỷ 19 ->Vậy thời này đời thứ 6 hơi già chăng? Đời thứ 7 hợp hơn với Quá thất thân thủy sinh !

Mặc dù không có kiến thức về lịch sử ,Hán văn & trước mặt không có 1 quyển sách hay tài liệu nào ( ngoài 2 diễn đàn này ).Tôi xin giải đoán nếu có ǵ không đúng xin mời các bạn chỉnh đốn giùm.

Người này họ Mộc , thuộc sắc tộc Việt thiểu số ở phần đất cũ bị Trung Quốc chiếm , theo ḍng người Minh Hương  trở về Việt Nam . Đến đây ḍng họ này đổi là Họ Lư,Nguyễn ,Trần hay LÊ..v.v.. đến đời thứ 7 ,năm Sửu  đă xuất hiện Người như sấm Trạng nói !

 

Quay trở về đầu Xem ngoctrongdda's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ngoctrongdda
 
nhoccon1412
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 15 March 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 329
Msg 248 of 585: Đă gửi: 30 December 2006 lúc 7:39pm | Đă lưu IP Trích dẫn nhoccon1412

thưa Bác Ngọc Trong Đá, cháu xin lỗi bác là cháu không đả kíck cá nhân bác , nếu có ǵ làm bác hiểu lầm th́ xin bác bỏ quá cho cháu v́ cháu năm nay mới 21 tuổi thôi , nhưng cháu đọc trên mạng thấy những người duy vật họ đánh đập thầy tu , mục sư , rồi cả dân chúng nữa , đồng ư là ông HCM giỏi thật , nhưng rồi thực tế bây giờ mới là quan trọng bác à . Bác thấy đó ở VN có những đứa bé tí xíu đi bán vé số , những cụ già lọm khọm đi ăn xin , nhưng nếu theo sấm trạng thánh xuất hiện th́ sẽ hết những cảnh đó , nhà nhà đều an vui .

__________________
_/|\_ Nam Mô A Di Đà Phật _/|\_

http://phapam.good.to
Quay trở về đầu Xem nhoccon1412's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nhoccon1412
 
nhoccon1412
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 15 March 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 329
Msg 249 of 585: Đă gửi: 30 December 2006 lúc 8:02pm | Đă lưu IP Trích dẫn nhoccon1412

Code:
- Cuộc đời ai dể biết đâu
- Yêu tinh gian trá bóp hầu thần tiên
- Quan làng ỷ thế ỷ quyền
- Dân khôn giả dại mới yên phận ḿnh
- Mặc ai chia rẽ thị khinh
- Việc làng việc nước làm thinh chớ bàn
- Ta tinh ta mới đặng an
- Luận bạn bè bạn chỉ đàng cho nhau
- Việc người th́ mặc người âu
- Nghiêng tai giả điếc lắc đầu làm ngơ
- Muốn yên mồm lặng như tờ
- Luận bàn việc nước th́ khô xác h́nh

- Bởi đời quốc thể bù nh́n
- Quan làng tàn bạo sanh linh tơi bời
- Lương dân than khổ đ̣i nơi
- Quốc hồn mờ ám hởi ôi thế quyền
- Nước nhà nghiêng ngửa ngửa nghiêng
- Tham quan hại nước lợi riêng cho ḿnh
- Biết chi là ám với minh
- Sớm ưa trưa ghét nhân t́nh đời ni (nay)
- Kim tiền quyền thế tương tri
- Không tiền không thế người khi ngu đần
- Chớ hà hiếp nhớ siêng cần
- Đến nơi Tiên Phật Thánh Thần mới an


đúng với thời nay quá , người khôn phải giả ngu và không được bàn đến chính trị

__________________
_/|\_ Nam Mô A Di Đà Phật _/|\_

http://phapam.good.to
Quay trở về đầu Xem nhoccon1412's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nhoccon1412
 
nhoccon1412
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 15 March 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 329
Msg 250 of 585: Đă gửi: 30 December 2006 lúc 8:16pm | Đă lưu IP Trích dẫn nhoccon1412

Code:
- Đến hồi quốc vận lâm nàn
- Chi tiêu ăn mặc cường quan độc quyền


thời bao cấp sau 1975

Code:
- Nhơn dân khốn khổ đa đoan
- Mọi điều khốn khổ lại càng bằng hai
- Tu hành hiền hậu chết hoài
- Sai ngoa gian trá sống dai chật đàng
- Cơ trời định vậy chớ than
- Tương vong yêu nghiệt hành tàn đấy ư
- Đầu xuân gà gáy hăm tư
- Thầy tăng đến hạn họa trư tuyệt kỳ


cơ trời là vậy sao ?

Code:
- Rồi đây bày tỏ trung can
- Trời cho Tiên Phật xuống trần trị yêu
- Văn minh cơ khí đủ điều
- Cọp đồng gấu sắt phi phiêu thủy hành


thời hưng thịnh khi có Tiên Phật xuống trần trị yêu ma , văn minh và có thể VN sẽ phóng được phi thuyền lên vũ trụ .

Code:
Danh vi Mộc (?) gia tử.Kim tịch sinh Ngưu lang ( tịch bản tại Ngưu lang )

Họ Mộc -> Mủi hay Mùi là ḍng họ người Minh hương tràn qua? Tại sao lại sinh ra Kẻ chăn trâu ( Ngưu lang?) mà không phải sinh ra kẻ chăn gà ,bắt chuột hay hổ lang ǵ đó?



Bác NTD đă cho chúng ta thấy rơ ràng thánh nhân không phải ông HCM v́ ông này họ Hồ c̣n thánh nhân họ Mộc .

Code:
Nam Việt hữu Ngưu tinh.Quá thất thân thủy sinh....


Ngưu tinh ở đây không ám chỉ người tuổi sửu mà theo thiên văn học th́ sao ngưu sáng th́ có giặc xâm lấn biên cương nước nhà

Sửa lại bởi nhoccon1412 : 30 December 2006 lúc 8:31pm


__________________
_/|\_ Nam Mô A Di Đà Phật _/|\_

http://phapam.good.to
Quay trở về đầu Xem nhoccon1412's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nhoccon1412
 
ngoctrongdda
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 26 November 2006
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 142
Msg 251 of 585: Đă gửi: 30 December 2006 lúc 9:46pm | Đă lưu IP Trích dẫn ngoctrongdda

Cụ HCM không phải là thần tượng của tôi.Có thể sự suy nghĩ của bạn khác tôi ,nên nhận xét có khác nhau ..... v/d này không thuộc pham vi của chủ đề này !

Ngưu tinh bạn nhận xét cũng được đấy ,cứ bám theo chủ đề nhé , có sáng kiến ǵ cứ post lên góp vui

Quay trở về đầu Xem ngoctrongdda's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ngoctrongdda
 
ThiênY
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 25 April 2006
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 412
Msg 252 of 585: Đă gửi: 31 December 2006 lúc 9:12am | Đă lưu IP Trích dẫn ThiênY

Cùng các quí vị tham dự trong đề tài này;

V́ bác linhlinhlinh email riêng cho Thiên Y; lư do không làm sao bác đăng nhập được để tranh luận cùng quí vị. Quí vị nào biết lư do tại sao xin vui ḷng giúp đỡ !

Cám ơn;

Thiên Y

 

Quay trở về đầu Xem ThiênY's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThiênY
 
NhapMon
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 253 of 585: Đă gửi: 31 December 2006 lúc 1:18pm | Đă lưu IP Trích dẫn NhapMon

Có thể là v́ "cookies" . Bác Linh thử cái này xem sao:

1) Ở đầu trang, bấm chuột vào chữ "Tools"
2) Bấm "Internet Options"
3) Bấm "General"
4) Bấm "Delete Cookies"
5) Bấm OK

Chúc may mắn
TB: Firefox thường có problem, nên dùng Microsoft Internet Explorer.

Sửa lại bởi NhapMon : 31 December 2006 lúc 1:29pm


__________________
NhapMon
Quay trở về đầu Xem NhapMon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi NhapMon
 
linhlinhlinh
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 25 November 2006
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 140
Msg 254 of 585: Đă gửi: 01 January 2007 lúc 4:17am | Đă lưu IP Trích dẫn linhlinhlinh

Chân thành cám ơn thiên y &bác nhapmon.linhlinh theo chỉ dẫn của bác nay đă đăng nhập vô được.có dịp may mà kính bác nhapmon&thien y 1ly.nhân dịp tết tây xin chúc các bạn 1 năm mới an khang -thịnh vượng.kính linhlinhlinh.      

Quay trở về đầu Xem linhlinhlinh's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi linhlinhlinh
 
Lokeshvara
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 December 2006
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 69
Msg 255 of 585: Đă gửi: 01 January 2007 lúc 5:06am | Đă lưu IP Trích dẫn Lokeshvara

thánh nhân có thể là gia đ́nh gốc người Hoa sang CamBuChia làm ăn, họ có liên quan đến bộ Mộc ,rồi duyên cớ ǵ đó mà sang Vịêt Nam sống ,thánh thân có thể là người mệnh Kim ,sinh năm Sửu.. 
Quay trở về đầu Xem Lokeshvara's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Lokeshvara
 
linhlinhlinh
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 25 November 2006
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 140
Msg 256 of 585: Đă gửi: 01 January 2007 lúc 2:14pm | Đă lưu IP Trích dẫn linhlinhlinh

bác nhapmon có ban cho linhlinh "đời này thÁNH KẾ VỊ VƯƠNG "vô t́nh "là có t́nh đó bác.dẫn truyện th́ có nhiều? "quantrọng hoá "cũng lắm?linhlinh ngu muội xin đưa ra ư kiến :nhâmdần (1962 ). - (theotiên tri1963 ). quí măo?kỷtỵ?ất sửu?xin bác cho đơi lời?c̣n họ lư?trần...?ww..?khôngc̣n quan trọng?xin được trao đỗi :họ nào phổ biền nhất tại an nam?vuilỏng traođổi tiếp?
Quay trở về đầu Xem linhlinhlinh's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi linhlinhlinh
 
thiennhan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 634
Msg 257 of 585: Đă gửi: 03 January 2007 lúc 4:05am | Đă lưu IP Trích dẫn thiennhan

Tiếp phần phân tích trước, Sấm Trạng Tŕnh gồm 487 câu viết liền, cũng như trong Sấm Kư Nguyễn Bỉnh Khiêm và bài Bạch Vân ca, do đó người đọc để t́m hiểu khó nhận biết được bài nào thuộc về thể loại nào, mỗi bài dài ngắn đề có chủ ư cho một thể loại, như phần đă phân tích trước, những đoạn Sấm khá rơ về mượn Sấm Trạng để dụng ư riêng, th́ c̣n lại có những đoạn khác chưa kết luận chắc chắn là của Trạng Tŕnh, hay của các môn sinh của Trạng Tŕnh làm ra, hoặc hậu sinh kế truyền đă làm thêm theo thể thất ngôn lục bát hoặc lục bát, phân tích những bài thơ được tách ra tạm chia làm 3 phần chính để suy luận:

1.     THIÊN: Thiên văn
2.     ĐỊA: Địa lư Phong thuỷ
3.     NHÂN: các nhân vật trong Sấm Trạng

C̣n phần rất quan trọng nữa là THỜI: Thời điểm, th́ ẩn hiện rất mù mờ trong một số câu, vùng Á Đông dùng Âm lịch cho nên một khoảng thời gian dài mấy trăm năm, mà căn cứ vào lục thập hoa giáp rất khó mà đoán đúng được thời điểm như dùng Dương lịch, ngay cả Sấm Nostradamus tiên đoán về thời điểm sự kiện xẩy ra, những người nghiên cứu về Nostradamus cũng lúng túng chỉ khi xẩy ra rồi mới rơ năm nào.

Trong bài phân tích này để bàn luận là THIÊN th́ có những câu như sau:

Ngưu tinh tụ Bảo giang (Tinh tụ Bảo giang thượng)
Đại nhân cư chính trung

Bảo giang đây chính là sông trời – Thiên Hà – Ngân Hà, sao Ngưu đă xuất hiện sáng lên dần theo luật Sinh Vượng, v́ vậy những câu sau nhắc tới Bảo giang hoặc có thể Hoàng giang, là có ư nói về Ngưu tinh sau hàng ngàn năm trước đă sáng rực rỡ (thời Thần Nông, thời Lạc Long Quân – Hùng Vương) lên rồi dần mờ tối biến mất, nay Ngưu tinh đă xuất hiện trở lại và sáng dần lên chủ đạo trong ṿm trời Việt Nam

5 - Trải v́ sao, mây che Thái ất
6 - Thủa cung tay, xe nhật phù lên

133 - Chọn Đẩu-Thai những v́ sao cả (là sao lớn trong giải Ngân Hà, sao Đẩu sao Ngưu thuộc chùm sao Huyền Vũ gồm các sao Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích - ngôi sao Đẩu của cḥm sao phương Nam gồm 7 sao là Tỉnh, Quỉ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn. Sao Tỉnh có h́nh Việt Tỉnh. Sao Thai=sao Tam Thai)
134 - Dùng ở tay phụ tá vương gia
135 – Bắc phương chính khí sinh ra (từ nơi phương Bắc Việt Nam sinh ra, phương hướng sẽ nói sau khi suy luận về phần ĐỊA)
136 - Có ông Bạch sĩ (xỉ) điều ḥa hôm mai

141 - Uy nghi trạng mạo khác h́nh
142 - Thác cư một gốc Kim tinh phương Đoài (có nhiều câu về phương Đoài sẽ suy luận sau)

185 - Xem Đoài cung, đến thời bất tạo
186 - Thấy vĩ tinh, liệu rạo cho mau

203 - Lưu tinh hiện trước đôi thu
204 - Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm

251 - Xem tượng trời, biết đường đời trị (tượng trời ám chỉ về sao Ngưu, Đẩu đă xuất hiện)
252 - Ngẩm về sau, họ Lư xưa nên
253 - Gịng nhà để lấy dấu truyền
254 - Ngẩm xem bốn báu c̣n in đời đời

257 - Lại nói xứ, Hoàng giang sinh thánh (xứ Hoàng giang - Đà giang là Địa lư
258 - Sông Bảo giang, thiên định ai hay ? (Bảo giang là Thiên văn)

269 - Năm Giáp Tư, vẽ khuê đă rạng
270- Lộ ngũ tinh, trinh tượng thái hanh (ngũ tinh gồm những v́ sao nào trong cḥm sao Huyền Vũ, phương Nam chư rơ ?)

414 - Bảo giang Thiên tử xuất (Phá Điền Thiên tử xuất) (trong giải Ngân Hà sao Ngưu xuất hiện, Thánh nhân chọn v́ sao lớn để Đẩu sinh)
415 - Bất chiến tự nhiên thành

420 - Danh vi Nguyễn gia tử
421 - Kim tịch (Tinh bản) sinh Ngưu lang (như câu 142, nghi vấn là họ Lư hay Nguyễn)

434 - Nam Việt hữu Ngưu tinh (Ngưu tinh đây là sao chủ của người Việt Nam)
435 - Quá thất thân thủy sinh (chữ thân này không có bản Hán tự nhưng nếu dùng chữ thân này 申:lại, đến – “qua bẩy lại mới sinh” có lẽ hợp với câu trên và những câu lục thất hơn, suy luận thêm sao Ngưu qua chu kỳ hoặc Vận thứ bẩy lại mới sinh ra ***)

450 - Danh vi Nguyễn gia tử
451 - Tinh bản tại Ngưu lang (nhắc lại giống câu 420-421)

Dục thức Thánh nhân xứ (câu này ở Sấm kư NBK giống trong Sấm Trạng câu 418-419, phụ trương ghi lại câu này như sau: 1 - Dục thức Thánh nhân hương - Thủy lam bảo trung tàng, 2 - Dục thức Thánh nhân tính - Mộc hạ liên đinh khẩu, 3 - Dục thức Thánh nhân diện - Tu tầm trương cú kiến)
Đa xuất ứng Bảo giang

Chấn cung xuất nhật
Đoài cung vẫn tinh

Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc
Ngưu xuất Lam điền nhật chính Đông (Ngưu đây là sao Ngưu, Lam điền là địa danh, nơi vùng đất có nhiều ngọc quư)

Uy nghi dung mạo khác h́nh
Thác cư một góc Kim tinh phương Đoài (phương Đoài nơi Trạng Tŕnh ở Bạch Vân am hay hoặc thành Thăng Long nh́n thiên văn thấy Thánh nhân sẽ xuất hiện)

Bảo giang Thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành

Tất cả những câu Sấm Hán tự ẩn rất nhiều ư nghĩa, nhưng v́ không ai biết hay có để đưa ra nguyên bản, người xưa có câu “Nói có sách, mách có chứng”, không có sách mà giải, dịch, chiết tự, suy luận cũng đều chủ quan, không hợp lư, thiếu khoa học ...

Chữ lục thất được nhắc lại nhiều trong Sấm Trạng, vậy chữ lục thất này nói về phương diện nào ?

Trích 1 đoạn trong bài viết ĐỊA THẾ PHONG-THỦY CỦA HÀ-NỘI, HUẾ, SÀI-G̉N VÀ VẬN MỆNH CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM của ông Lâm Quốc Thanh nói về Tam nguyên cửu vận:

Code:
***Tam Nguyên-Cửu Vận: là 1 chu kỳ 180 năm, được lập đi, lập lại không ngừng. Mỗi một chu kỳ này được chia ra làm 3 (Tam) Nguyên, mỗi Nguyên là một giai đoạn dài 60 năm, và được đặt theo thứ tự là Thượng Nguyên, Trung Nguyên và Hạ Nguyên. Mỗi Nguyên lại được chia làm 3 Vận: các Vận 1, 2, 3 thuộc về Thượng Nguyên; các Vận 4, 5, 6 thuộc về Trung Nguyên; và các Vận 7, 8, 9 thuộc về Hạ Nguyên. Mỗi Vận như thế là 1 giai đoạn dài 20 năm.
Ở đây, để tiện theo dơi những diễn biến lịch sử trong từng giai đoạn, người viết xin được giới thiệu với bạn đọc bảng Tam Nguyên-Cửu Vận của hơn 1,000 năm trở lại đây.

THƯỢNG NGUYÊN TRUNG NGUYÊN HẠ NGUYÊN
Vận 1 Vận 2 Vận 3 Vận 4 Vận 5 Vận 6 Vận 7 Vận 8 Vận 9
964   984   1004 1024 1044   1064 1084 1104 1124
1144 1164 1184 1204     1224   1244 1264 1284     1304
1324 1344 1364 1384     1404   1424 1444 1464     1484
1504 1524 1544 1564     1584   1604 1624 1644     1664
1684 1704 1724 1744   1764    1784   1804    1824 1844
1864 1884 1904 1924     1944   1964 1984 2004     2024

Chú ư: những năm trong bảng trên đều là những năm khởi đầu của mỗi Vận. Thí dụ như năm 964 là năm khởi đầu của Vận 1, nên từ năm đó cho đến năm 983 đều nằm trong Vận 1. Đến năm 984 mới bước vào Vận 2....

        B     
   6----1----8
T 7-----5----3 Đ
   2----9----4
      N

* Lạc Thư: là một đồ bàn h́nh vuông, bên trong có 9 số (c̣n được gọi là Cửu tinh), mỗi tương ứng với mỗi Vận, đồng thời chiếm 1 vị trí và phương hướng nhất định như h́nh bên cạnh. Như vậy, muốn biết được sự hưng, suy của một thành phố trong Vận nào, ta chỉ cần quan sát những khu vực tương ứng trong Lạc Thư là sẽ t́m ra được lời giải đáp. Chẳng hạn như muốn biết khí số của Hà Nội trong Vận 7 như thế nào, trước hết ta cần nh́n vào Lạc Thư, sẽ thấy số 7 nằm ở phía Tây. Như vậy, chỉ cần quan sát địa thế sông, núi ở khu vực phía Tây Hà Nội, đồng thời đối chiếu với khu vực đối diện tức là phía Đông th́ sẽ t́m ra được kết quả chính xác.
Trên đây chỉ là chút khái niệm về Lạc Thư và Tam Nguyên-Cửu Vận, ngoài ra, bạn đọc cũng cần biết hai yếu tố căn bản để định quẻ là Nước và Núi qua ba điểm dưới đây:

a/ Phục Ngâm: là khu vực của chính Vận mà lại có Thủy, như Vận 7, số 7 nằm ở phía Tây, nên phía Tây được coi là khu vực của chính Vận, mà ở đó lại có Thủy (nước) tức là bị Phục Ngâm.

b/ Phản Ngâm: là khu vực đối diện với chính Vận mà lại có núi, như Vận 7, số 7 nằm ở phía Tây, mà phía Đông lại có núi tức là bị Phản Ngâm.

c/ Chính Thủy: là Thủy nằm ở khu vực đối diện với chính Vận, như Vận 7, số 7 nằm ở hướng Tây, mà phía Đông lại có Thủy tức là có Chính thủy.

Trong những cách kể trên, chỗ nào có Phục Ngâm, Phản Ngâm là có sát khí chiếu tới, nên sẽ mang nhiều tai ương, hoạn nạn đến cho thành phố. C̣n chỗ nào có Chính thủy tức là được vượng khí chiếu tới, nên sẽ đem đến nhiều may mắn, thuận lợi.


Sau khi đă nắm được những diều cơ bản trên, mời bạn đọc hăy nh́n vào địa thế của 3 thành phố Hà Nội, Huế và Sài G̣n, để t́m hiểu những nguyên nhân đă tạo ra những chặng đường vinh - nhục cho đất nước ta trong suốt gần 1,000 qua.


Bài viết này rất hay và dài vào đây để đọc: Phong thuỷ SG-Huế-HN
Quay trở về đầu Xem thiennhan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thiennhan
 
nhoccon1412
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 15 March 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 329
Msg 258 of 585: Đă gửi: 03 January 2007 lúc 7:44am | Đă lưu IP Trích dẫn nhoccon1412

Hôm nay hết động đất xin đăng lại bài này với h́nh to , xin lỗi bác Nhập Môn nhé !

6. NHỊ THẬP BÁT TÚ


Tam Viên nằm ở khu vực giữa của bầu trời – Bắc Thiên Cực. Khu vực dải nằm giữa con đường mà mặt trăng đi qua ban đêm và mặt trời đi qua ban ngày được phân chia theo 28 cḥm – 28 Ṭa nhà của sao, tức Nhị thập bát Tú. Trong mỗi cḥm có một Ngôi sao là chủ tinh, là ngôi nằm gần nhất Bạch đạo, dù ngôi sao đó có thể không phải là sáng nhất.

Có tài liệu nói rằng ghi chép về Nhị thập bát tú đă được t́m thấy có từ thời Chiến quốc, 400 TCN ở Hồ Bắc, và khẳng định nó có sớm nhất là vào thế kỷ 5 TCN, trong Sử Kư cũng viết về các cḥm. Nhưng việc phân chia thành các cung theo Ngũ hành th́ phải đến đời Tần mới có, và việc gán tên các con vật th́ c̣n muộn hơn, có thể là chịu ảnh hưởng của Ấn Độ, giống như gán các con giáp vào các chi vậy. Điều đáng lưu ư là trong kinh điển Ấn Độ cổ cũng đề cập đến các cḥm sao quanh Bạch đạo, và cũng nêu con số 27 hoặc 28. Tuy các cḥm không trùng nhau, nhưng trong mối quan hệ giao lưu văn hóa thông qua Phật giáo, chúng cũng được gọi chung là Nhị thập bát Tú.


Quanh Thiên Cực được quy ước chia làm 4 phương Đông Tây Nam Bắc, 28 Tú cũng được chia là 4 cung, mỗi cung 7 cḥm, đó là:


Thanh Long – Rồng xanh - phương Đông - hành Mộc, mùa xuân, gồm:




Giác – Cang – Đê – Pḥng – Tâm – Vĩ – Cơ.



Bạch Hổ - Hổ trắng - phương Tây - hành Kim, mùa thu, gồm:

Khuê – Lâu – Vị - Măo – Tất – Chủy – Sâm.



Chu Tước – Chim đỏ - phương Nam - hành Hỏa, mùa hạ, gồm:

Tỉnh – Quỷ - Liễu – Tinh – Trương – Dực – Chẩn.



Huyền Vũ – Rùa, rắn đen (1) – phương Bắc, hành Thủy, mùa đông, gồm:

Đẩu – Ngưu – Nữ - Hư – Ngụy – Thất – Bích.



Nếu xếp theo ṿng Đông – Tây – Nam – Bắc th́ như vậy.

Có thể theo Xuân – Hạ – Thu – Đông th́ xuôi chiều kim đồng hồ là Thanh Long – Chu Tước – Bạch Hổ - Huyền Vũ.

Tuy nhiên thường 28 Tinh tú được xếp theo ṿng vận động trời đất là Đông – Bắc – Tây – Nam, ngược chiều kim đồng hồ, tức Thanh Long – Huyền Vũ – Bạch Hổ - Chu Tước, v́ vậy thứ tự các Tinh tú là : Giác – Cang – Đê – Pḥng – Tâm – Vĩ – Cơ – Đẩu – Ngưu – Nữ - Hư – Nguy – Thất – Bích – Khuê – Lâu – Vị - Măo – Tất – Chủy – Sâm – Tỉnh – Quỷ - Liễu – Tinh – Trương – Dực – Chẩn.



Việc đặt tên các Tinh tú cũng đặc biệt. Mỗi tên gồm 3 chữ, chữ đầu là tên gọi tắt như trên, không thống nhất. Trong đó có bộ phận cơ thể (sừng, cổ, tim,…), có đồ vật (đấu, giỏ, lưới, xe), có con người (nữ), con vật (trâu), có kiến trúc (pḥng, tường, giếng,…,), có cả các khái niệm (gốc, hư,…). Dường như không có quy tắc. Việc này có lẽ phản ánh tư duy phóng khoáng không g̣ bó cổ đại.



Chữ thứ 2 là một trong Thất chính lần lượt theo thứ tự: Mộc - Kim - Thổ - Nhật - Nguyệt - Hỏa - Thủy, tinh tú nào có chữ tương ứng sẽ là phù trợ cho Hành tinh ấy. Thuyết Ngũ hành đời Tần đă đem một khuôn khổ quy luật vào đây.



Chữ cuối cùng là tên 1 con vật, gồm cả vật nuôi, vật hoang, và thần thoại.



Con số 7 cũng là một cơ số quan trọng đối với người Trung Hoa. Có học giả cho rằng thời cổ đại người Trung Hoa chưa dùng cơ số 10, mà mới dùng cơ số 7, nên để lại một số dấu vết như tục cúng bảy bảy bốn chín ngày. Con số 7 được dùng trong Đạo giáo nhiều hơn.



Các cḥm này có số sao không giống nhau, ít nhất là 2 và nhiều nhất là 22, nằm trong phạm vi những cḥm sao khác nhau của Thiên văn phương Tây. Bản dưới đây là tên đầy đủ, số sao, và thống kê đối chiếu với các cḥm phương Tây.



Trong đồ h́nh trên bầu trời, Thanh Long phương Đông nằm ở bên trái, Cḥm Giác Đông Nam ở góc dưới bên trái, theo đúng Hậu Thiên bát quái là Trời bắt đầu mở ở Đông Nam, ṿng dần lên trên ṿng dần lên trên tức là theo phương Nam mà xoay ṿng (trên bầu trời phương vị ngược với mặt đất).





Vị trí cụ thể các cḥm Nhị thập bát tú trong các bản đồ sau, trong đó ngôi màu trắng là chủ tinh. Đường màu đỏ ở giữa là Thiên xích đạo, đường cong màu xanh là Hoàng đạo.



Cḥm Thanh Long – phía Đông, mùa Xuân


Cḥm Huyền Vũ – phía Bắc, mùa Đông

Cḥm Bạch Hổ - phía Tây, mùa Thu

Cḥm Chu Tước – phía Nam, mùa Hạ

Việc phân chia 28 cḥm sao này có từ thời cổ đại, và người Trung Hoa không muốn thay đổi những kiến thức của người đi trước, nên họ chấp nhận nó đến hàng ngàn năm sau. Trên thực tế việc dùng 28 cḥm có một cái tiện lợi là xác định đường đi của mặt trăng, nhưng có nhiều bất tiện. Trước hết là các cḥm không chiếm những cung bằng nhau; có cung như Tỉnh góc lớn hơn 30 độ, trong khi cung Chủy chưa đến 3 độ. Điều này là do độ lớn các cḥm chênh lệch quá nhiều, có cḥm chỉ có 2 sao, trong khi cḥm khác 22 sao. Độ sáng biểu kiến cũng rất khác nhau, rồi có cḥm như Chủy gần như nằm lọt vào giữa cḥm Sâm, nên không mang tính khoa học.



Trong văn hóa Ấn Độ cũng có 27 hoặc 28 cḥm sao nằm trong khu vực mặt trời và mặt trăng đi qua, nhưng không trùng với nhị thập bát tú. Các cḥm sao của Ấn Độ mang tính khái quát nhiều hơn, tượng trưng cho tất cả các v́ sao trên bầu trời. V́ vậy trong kinh Phật giáo cũng nói đến các cḥm sao, và khi sang Trung Quốc, được các ḥa thượng biên dịch là Nhị thập bát tú luôn, để thống nhất với quan sát, khoa học và truyền thống bản địa.



Nhị thập bát tú đă đi vào Văn hóa của Trung Quốc và các nước Hán hóa, mang nhiều ư nghĩa Văn hóa. Chẳng hạn cḥm sao Khuê tượng trưng cho Văn học, và ở Văn miếu Hà Nội có Khuê Văn Các (gác sao Khuê) tượng trưng cho vẻ đẹp, cao quư của văn học, trong cḥm Khuê có 2 ngôi sáng nữa là Đông và Bích (không phải cḥm Bích), nên Đông Bích cũng để chỉ văn học. Nhà Đường lập thư viện hoàng cung đặt tên là Đông Bích phủ. Lê Thánh Tông lập ra Tao đàn nhị thập bát tú gồm 28 người cũng mang tên các cḥm sao. Hoặc như Măo cũng tượng trưng cho ánh sáng, v́ gà báo trời sáng. Trong h́nh tượng truyền thống Trung hoa, Tinh chủ của các Tú là các vị thần mang đặc tính của các con vật, hay đúng hơn là con vật mang h́nh người, khi cần họ có thể biến thành các con vật tương ứng dễ dàng. Các Tú trở thành tín ngưỡng dân gian. Nhị thập bát tú không chỉ phát triển trong đời sống văn hóa, mà c̣n đi vào tôn giáo.



Hơn thế nữa, nhị thập bát tú đi vào đời sống, đến mức khi nói đến vật cứng rắn th́ ví với sừng của Cang Kim Long, nói đến chỗ rộng mà trống th́ ví với Hư Nhật Thử. Mỗi tú c̣n gắn với Ngũ hành, kết hợp tạo nên những phạm trù đặc biệt.



Trong cuốn sách Y thuật cổ “Hoàng Đế nội kinh”, Nhị thập bát tú ứng với 28 mạch trong cơ thể, trời xoay một ṿng qua hết 28 Tú th́ cúng tương ứng với mạch vận động 1 chu tŕnh trong cơ thể con người.



(1) H́nh tượng Huyền Vũ có liên quan mật thiết đến một vị thần có vị trí rất cao trong Đạo giáo là Huyền Thiên Trấn Vũ đại đế (C̣n các danh xưng khác là Thượng đế Tổ sư, Đăng ma thiên tôn, Hỗn nguyên Giáo chủ, Bắc Cực Huyền linh đại đế) có hai con vật thiêng là Linh Quy, Thần Xà, tượng trưng cho Trường tồn và Trí tuệ. V́ vậy chữ Vũ trong Huyền Vũ ở đây với nghĩa Sức manh là gồm cả Rùa và Rắn, tiếng Anh c̣n dịch là Warrior.



Tú         &nbs p;         &nbs p;hsiu (mansion)

Thạch Thân:      Shi Shen

Cam Đức:        Gande

Vu Hàm:         &n bsp; Wu Xian

Tư Mă Thiên:     Sima Qian

Sử Kư:         &nb sp;   Shiji

Trương Hoành   Zhang Heng

Tổ Xung Chi:      Zu Chongzhi, Tsu Ch'ung Chi, Cui Zhongji

Tô Tống:        & nbsp;   Susong

Nhất Hành:        Yi Xing

Hỗn Thiên:        Hu tian

Tam Viên:        Three Enclosures

Tử Vi:         &nb sp;     Purple Forbidden Enclosure

Thái Vi:         &nb sp;   Supreme Palace Enclosure

Thiên Thị:        &n bsp; Heavenly Market Enclosure.

Nhị thập bát tú: 28 Mansions

Bắc Đẩu:       &nb sp;   Big dipper

Thanh Long:      Green Dragon – Azure Dragon

Bạch Hổ:        &nb sp;  White Tiger

Chu Tước:        Red Bird, Red Sparrow, Vermilion Bird,

Huyền Vũ:        Black Warrior, Black Tortoise, Murky Tortoise

Bát Quái:         & nbsp;Ba Gua, Eight Trigrams,

Tiên thiên:        Earlier Heaven, Primal Arrangement –

Hậu thiên:        Ater Heaven, Inner World Arrangement




[/QUOTE]

__________________
_/|\_ Nam Mô A Di Đà Phật _/|\_

http://phapam.good.to
Quay trở về đầu Xem nhoccon1412's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nhoccon1412
 
NhapMon
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 259 of 585: Đă gửi: 03 January 2007 lúc 3:19pm | Đă lưu IP Trích dẫn NhapMon

Cám ơn bác nhoccon1412 đă bỏ công pốt lại bài Nhị Thập Bát Tú(NTBT) .

nhoccon1412 đă viết:

Ngưu tinh ở đây không ám chỉ người tuổi sửu mà theo thiên văn học th́ sao ngưu sáng th́ có giặc xâm lấn biên cương nước nhà


Góp ư với bác về sao Ngưu Lang trong chùm sao Đẩu . Theo tác gỉa bài (NTBT):

"Ngưu Lang và Chức Nữ cũng rất sáng, nhưng không nằm trong khu vực đặc biệt nào, nên cũng không được vẽ trong các bản đồ." Theo vậy th́ 02 sao này không có ư nghĩa ǵ quan trọng cả, cả về thiên văn lẫn "siêu linh". Mà qủa vậy, đối với VN th́ 02 sao ấy chỉ tượng cho 01 cặp t́nh nhân có một cuộc t́nh bi thảm mà thôi .

Lịch Vạn Niên Dịch Học Phổ Thông c̣n chia Nhị Thập Bát Tú thành 02 nhóm tốt xấu,

Nhóm sao đem lại sự bất tường:
Giác, Pḥng, Tâm, Vĩ, Cơ, Đẩu, Ngưu, Nguy, Vị, Tỉnh, Qủy, Tinh, Chẩn

Nhóm sao đem lại cát tường:
Cang, Đê, Nữ, Hư, Thất, Bích, Khuê, Lâu, Măo, Tất, Chủy, Sâm, Liễu, Trương, Dực

Sửa lại bởi NhapMon : 03 January 2007 lúc 3:45pm


__________________
NhapMon
Quay trở về đầu Xem NhapMon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi NhapMon
 
thiennhan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 634
Msg 260 of 585: Đă gửi: 03 January 2007 lúc 9:49pm | Đă lưu IP Trích dẫn thiennhan

Tiếp phần THIÊN ở trên, hai câu này rất trọng yếu về giai đoạn trong Sấm Trạng, câu Sấm khá rơ ràng về Ngưu tinh và quá THẤT thân THUỶ sinh

434 - Nam Việt hữu Ngưu tinh (Ngưu tinh đây là sao chủ của người Việt Nam)
435 - Quá thất thân thủy sinh (chữ thân này không có bản Hán tự nhưng nếu dùng chữ thân này 申:lại, đến – “qua bẩy lại mới sinh” hoặc "qua bẩy lại sinh thuỷ 水: nước " có lẽ hợp với câu trên và những câu thất hơn, suy luận thêm: sao Ngưu qua chu kỳ hoặc Vận thứ bẩy lại vào được nơi CHÍNH THUỶ)

Xem lại phần Phong thuỷ HN-Huế-SG của ông Lâm Quốc Thanh có viết đoạn sau:

Code:
Nếu đem địa thế núi, sông, biển cả vừa kể trên đối chiếu với Lạc Thư, ta sẽ thấy:

* Vận 1 chỉ là giai đoạn trung b́nh của Hà Nội. V́ mặc dù khu vực phía Bắc có nhiều sông ng̣i tức là phạm phải cách "Phục Ngâm", bị sát khí xâm phạm, nên sẽ đem đến nhiều tai ương, loạn lạc. Nhưng tại đây cũng có nhiều dăy núi đâm thẳng xuống đem theo nhiều vượng khí nên chưa đến nỗi, vẫn c̣n nhân tài có khả năng ổn định, xoay chuyển được thời cuộc. Bước sang

* Vận 2, t́nh thế mỗi lúc một suy thoái hơn, v́ khu vực phía Tây Nam của Hà Nội tuy chỉ có sông Mă tức là bị "Phục Ngâm" trong trường hợp nhẹ. Nhưng phía đối diện (Đông Bắc) lại có núi đồi trùng điệp tức là bị "Phản Ngâm", sát khí từ nơi đó sẽ tràn tới, khiến cho đất nước ngày càng trở nên hỗn loạn. May mà tại đây (khu vực phía Đông Bắc) cũng có nhiều sông ng̣i chằng chịt tức là đắc "Chính thủy", vượng khí vẫn c̣n đến với Hà Nội nên chưa đến nỗi bị suy vong. Qua các

* Vận 3, 4, đại thủy của vịnh Bắc bộ và Thái b́nh Dương nơi phía Đông và Đông Nam sẽ tạo ra cách "Phục Ngâm", sát khí quá nặng nề, nên sẽ đưa đất nước ta vào t́nh trạng yếu kém, tàn tạ hơn bao giờ hết. Phải đến khi bước vào

* Vận 5, nhờ địa thế "núi sông chầu phục", vượng khí của Hà Nội mới bắt đầu bùng lên mănh liệt, và cùng với nó là sức mạnh và tinh thần quật khởi của dân tộc. Qua

* Vận 6, Hà Nội sẽ phải đương đầu với những cuộc chiến tranh cực kỳ ác liệt, do các sông lớn như Nhị Hà, sông Đà đều bắt nguồn từ phía Tây Bắc, nguồn nước lại rất lớn nên phạm phải cách "Phục Ngâm" rất nặng. May là cũng tại phía Tây Bắc lại có những mạch núi rất dài, rất cao tiến xuống, cuốn theo vượng khí ngút trời, đủ sức để trấn áp sát khí nên Hà Nội sẽ vượt qua được mọi thử thách để đi đến chiến thắng. Nói chung là trong Vận 6, ngay cả những thế lực hùng mạnh bậc nhất trên thế giới mà đụng đến Hà Nội cũng đều sẽ rước lấy những thất bại thảm hại, ê chề. Đến:

* Vận 7, những con sông Đà, sông Mă ở phía Tây Hà Nội sẽ tạo ra nhiều sát khí (bị "Phục Ngâm"). Nhưng ngoài xa nơi phía Đông lại có vượng khí của đại thủy mênh mông chiếu tới, lấn át được sát khí, nên tuy hay bị những biến động về chính trị, nhưng là một giai đoạn tương đối yên lành, sung túc. Sang:

* Vận 8, Hà Nội sẽ bước vào giai đoạn cực thịnh, sản sinh ra những lănh tụ tài ba đem lại thanh b́nh và vinh quang cho đất nước.?Trong giai đoạn này tuy cũng có chiến tranh xảy ra, do khu vực phiá Đông Bắc có rất nhiều sông ng̣i chằng chịt. Nhưng cảnh thái b́nh, thịnh trị, sẽ nhanh chóng được tái lập v́ vượng khí của các dăy núi trong khu vực Đông Triều-Cẩm Phả sẽ đem đến cho Hà Nội rất nhiều may mắn, thuận lợi. Sang tới:

* Vận 9, thời kỳ hưng vượng vẫn tiếp tục được duy tŕ, cho tới khi bước sang Vận 1 th́ những mầm mống loạn lạc mới bắt đầu tái diễn trở lại.


Vậy câu Sấm:

Nam Việt hữu NGƯU tinh
Quá THẤT thân THUỶ sinh

Việt Nam đă đi vào chu kỳ Vận 7 từ năm 1984 - 2004, có nhiều biến chuyển đổi mới chuyển qua chu ḱ 7 bắt đầu tốt:

Quá THẤT thân: Vận 7, những con sông Đà, sông Mă ở phía Tây Hà Nội sẽ tạo ra nhiều sát khí (bị "Phục Ngâm"). Nhưng ngoài xa nơi phía Đông lại có vượng khí của đại thủy mênh mông chiếu tới, lấn át được sát khí, nên tuy hay bị những biến động về chính trị, nhưng là một giai đoạn tương đối yên lành, sung túc

THUỶ sinh: Chính Thủy: là Thủy nằm ở khu vực đối diện với chính Vận, như Vận 7, số 7 nằm ở hướng Tây, mà phía Đông lại có Thủy tức là có Chính thủy.

Trong những cách kể trên, chỗ nào có Phục Ngâm, Phản Ngâm là có sát khí chiếu tới, nên sẽ mang nhiều tai ương, hoạn nạn đến cho thành phố. C̣n chỗ nào có Chính thủy tức là được vượng khí chiếu tới, nên sẽ đem đến nhiều may mắn, thuận lợi.


Năm 2005 - 2024 là là Vận 8 và Vận 9 là chu kỳ cực thịnh của VN, xét những sự kiện đă trải qua th́ thấy có lư và ứng hợp. NGƯU tinh đang vào thời kỳ thịnh vượng, có thể thời nay đang đi vào đoạn kết của Sấm Trạng.
Quay trở về đầu Xem thiennhan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thiennhan
 

<< Trước Trang of 30 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 2.5313 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO