Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 222 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Thời nay đoạn kết của Sấm Trạng ? Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
NhapMon
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 261 of 585: Đă gửi: 03 January 2007 lúc 10:41pm | Đă lưu IP Trích dẫn NhapMon

Nam Việt hữu NGƯU tinh
Quá THẤT thân THUỶ sinh


Bác TN phân tích vận 7 trong 02 câu trên có phần hữu lư nếu chúng ta chấp nhận sự phân tích địa lư phong thủy của ông Lâm Quốc Thanh .

Đọc bài của ông LQT, thấy có vài điểm như sau:

Hà Nội cực thịnh vào vận 8 và 9, mỗi vận 20 năm, tổng cộng được 40 năm, sau đó vào lại vận 1 th́ loạn lạc trở lại!

* Vận 7, những con sông Đà, sông Mă ở phía Tây Hà Nội sẽ tạo ra nhiều sát khí (bị "Phục Ngâm"). Nhưng ngoài xa nơi phía Đông lại có vượng khí của đại thủy mênh mông chiếu tới, lấn át được sát khí, nên tuy hay bị những biến động về chính trị, nhưng là một giai đoạn tương đối yên lành, sung túc. Sang:

* Vận 8, Hà Nội sẽ bước vào giai đoạn cực thịnh, sản sinh ra những lănh tụ tài ba đem lại thanh b́nh và vinh quang cho đất nước.?Trong giai đoạn này tuy cũng có chiến tranh xảy ra, do khu vực phiá Đông Bắc có rất nhiều sông ng̣i chằng chịt. Nhưng cảnh thái b́nh, thịnh trị, sẽ nhanh chóng được tái lập v́ vượng khí của các dăy núi trong khu vực Đông Triều-Cẩm Phả sẽ đem đến cho Hà Nội rất nhiều may mắn, thuận lợị Sang tới:

* Vận 9, thời kỳ hưng vượng vẫn tiếp tục được duy tŕ, cho tới khi bước sang Vận 1 th́ những mầm mống loạn lạc mới bắt đầu tái diễn trở lạị


Sài G̣n ngược lại với Hà Nội, SG th́ tàn tạ vào vận 8 và vận 9, nhưng phục hồi trở lại khi vào vận 1!

Qua Vận 8, thượng nguồn của sông Đồng Nai ở phía Đông Bắc là sát khí, nên dù nằm ở vị trí nào Sài G̣n cũng sẽ có chiến tranh, loạn lạc. Nhưng nếu nằm ở khu vực hiện tại th́ c̣n bị thêm con sông Sài G̣n cũng đi qua khu vực phía Đông Bắc nữa, khiến cho sát khí trùng trùng, nên mới bị đại họa thê thảm như sau vụ khởi nghĩa của Lê văn Khôi trước đâỵ C̣n nếu dời vào khu vực giữa 2 con sông th́ chỉ c̣n sát khí của sông Đồng Nai, nên tuy vẫn bị chiến tranh, nhưng do nguyên khí c̣n vượng, nên dù gặp nhiều cơn sóng gió Sài G̣n vẫn chưa bị suy tàn hẳn.

Đến Vận 9 mới là thời kỳ tàn tạ, v́ cửa sông Sài G̣n và vùng biển nơi phía Nam lúc đó sẽ đem đến sát khí quá nặng, nên dù tọa lạc ở khu vực nào, Sài G̣n cũng đều bị thảm họa chiến tranh. Nhưng nếu nằm ở khu vực hiện tại, Sài g̣n c̣n bị khúc sông chém vào, vận khí của thành phố sẽ quá kiệt quệ, nên việc suy vong, mất nước, phải làm nô lệ cho người là điều chắc chắn. Nếu đọc kỹ lịch sử, chúng ta sẽ thấy khi chúa Nguyễn chiếm Sài G̣n, hay khi Pháp hạ thành Gia Định đều xảy ra trong Vận 9. Ngược lại, nếu được dời vào khu vực của chân long, th́ mặc dù lúc đó Sài g̣n cũng rất yếu ớt, lại không có được lănh tụ tài ba nên khi có chiến tranh sẽ không thể cản được bước tiến của giặc thù.

Nhưng rồi chẳng bao lâu, tinh thần quật khởi của Sài G̣n lại bộc phát, để đến khi bước vào Vận 1 Thượng Nguyên th́ sẽ có vĩ nhân xuất hiện đem lại cảnh thanh b́nh và vinh quang đến cho thành phố, cũng như cho đất nước, dân tộc.


Huế cũng thê lương vào vận 8 và 9.

Bước sang Vận 8, cửa khẩu Thuận-an và vùng biển phía Đông Bắc là sát khí (bị Phục Ngâm) nên sẽ tạo ra những cơn biến loạn.

Rồi sang Vận 9 cũng không tốt đẹp ǵ, v́ vận khí của Huế dựa rất nhiều vào sông Hương, mà con sông này lại xuất phát từ phía Nam đổ ra tức là lại bị "Phục Ngâm" nên chiến tranh, loạn lạc vẫn tiếp tục xảy ra



Như vậy, theo ông LQT th́ toàn cơi VN sẽ không bao giờ có 500 năm thái ḥa an lạc như cụ Trạng đă tiên tri .

Vài ư đóng góp .



__________________
NhapMon
Quay trở về đầu Xem NhapMon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi NhapMon
 
nhoccon1412
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 15 March 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 329
Msg 262 of 585: Đă gửi: 04 January 2007 lúc 3:08am | Đă lưu IP Trích dẫn nhoccon1412

bởi thế nên sẽ xảy ra sự thay đổi về vị trí địa lư do : động đất , thiên tai , lũ lụt v.v.... rồi 1 phần sẽ mất đi , 1 phần sẽ trồi lên tạo thành địa lư phong thủy mới cho 500 năm phồn thịnh , ông LQT chỉ xét nếu như địa lư cứ như thế này và không thay đổi . Nên nhớ sự h́nh thành nên vùng đất mới và sự mất đi của vùng đất cũ đă xảy ra ở trên trái đất này như trường hợp của châu Atlanlic vậy .

Code:
438 - Kư Mă xu (khu) Dương tẩu
439 - Phù Kê thăng đại minh
440 - Trư Thử giai phong khởi
441 - Th́n Măo xuất thái b́nh


Vậy là từ năm Hợi đến năm Th́n sẽ có chiến tranh chăng ? tại Việt Nam tôi nh́n khí tượng trên trời th́ thấy có nhiều mây đen nhưng không mưa , các bệnh dịch như cúm gà tái xuất hiện , đồng thời các cơn băo kỳ quái như cơn các băo 7,8,9 làm sụp đổ đất và ḷng con sông hồng cạn gần đáy . Trời th́ mây đen bao phủ , sông th́ cạn , đất th́ động đất , sụp lở , rồi cách đây 1 năm tượng đức mẹ đă rơi nước mắt tại nhà thờ đức bà tại Sài G̣n .

Cầu mong thánh nhân mau xuất hiện để cho thiên hạ thái b́nh . VN không cần làm 1 đại cường quốc để các nước phải chầu cũng được nhưng miễn sao đừng thiên tai , lọan lạc mọi người đều sống ấm no là được rồi .

Sửa lại bởi nhoccon1412 : 04 January 2007 lúc 3:22am


__________________
_/|\_ Nam Mô A Di Đà Phật _/|\_

http://phapam.good.to
Quay trở về đầu Xem nhoccon1412's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nhoccon1412
 
NhapMon
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 263 of 585: Đă gửi: 04 January 2007 lúc 4:36pm | Đă lưu IP Trích dẫn NhapMon

nhoccon1412 đă viết:
bởi thế nên sẽ xảy ra sự thay đổi về vị trí địa lư do : động đất , thiên tai , lũ lụt v.v.... rồi 1 phần sẽ mất đi , 1 phần sẽ trồi lên tạo thành địa lư phong thủy mới cho 500 năm phồn thịnh , ông LQT chỉ xét nếu như địa lư cứ như thế này và không thay đổi . Nên nhớ sự h́nh thành nên vùng đất mới và sự mất đi của vùng đất cũ đă xảy ra ở trên trái đất này như trường hợp của châu Atlanlic vậy .

Code:
438 - Kư Mă xu (khu) Dương tẩu
439 - Phù Kê thăng đại minh
440 - Trư Thử giai phong khởi
441 - Th́n Măo xuất thái b́nh


Vậy là từ năm Hợi đến năm Th́n sẽ có chiến tranh chăng ? tại Việt Nam tôi nh́n khí tượng trên trời th́ thấy có nhiều mây đen nhưng không mưa , các bệnh dịch như cúm gà tái xuất hiện , đồng thời các cơn băo kỳ quái như cơn các băo 7,8,9 làm sụp đổ đất và ḷng con sông hồng cạn gần đáy . Trời th́ mây đen bao phủ , sông th́ cạn , đất th́ động đất , sụp lở , rồi cách đây 1 năm tượng đức mẹ đă rơi nước mắt tại nhà thờ đức bà tại Sài G̣n .

Cầu mong thánh nhân mau xuất hiện để cho thiên hạ thái b́nh . VN không cần làm 1 đại cường quốc để các nước phải chầu cũng được nhưng miễn sao đừng thiên tai , lọan lạc mọi người đều sống ấm no là được rồi .


Bác nhoccon1412 chịu khó nghiên cứu lại có tấm ḷng cho đất nước . Thán phục!

__________________
NhapMon
Quay trở về đầu Xem NhapMon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi NhapMon
 
NhapMon
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 264 of 585: Đă gửi: 04 January 2007 lúc 5:24pm | Đă lưu IP Trích dẫn NhapMon

thiennhan đă viết:
Tiếp phần phân tích trước, Sấm Trạng Tŕnh gồm 487 câu viết liền, cũng như trong Sấm Kư Nguyễn Bỉnh Khiêm và bài Bạch Vân ca, do đó người đọc để t́m hiểu khó nhận biết được bài nào thuộc về thể loại nào, mỗi bài dài ngắn đề có chủ ư cho một thể loại, như phần đă phân tích trước, những đoạn Sấm khá rơ về mượn Sấm Trạng để dụng ư riêng, th́ c̣n lại có những đoạn khác chưa kết luận chắc chắn là của Trạng Tŕnh, hay của các môn sinh của Trạng Tŕnh làm ra, hoặc hậu sinh kế truyền đă làm thêm theo thể thất ngôn lục bát hoặc lục bát, phân tích những bài thơ được tách ra tạm chia làm 3 phần chính để suy luận:

1.     THIÊN: Thiên văn
2.     ĐỊA: Địa lư Phong thuỷ
3.     NHÂN: các nhân vật trong Sấm Trạng

C̣n phần rất quan trọng nữa là THỜI: Thời điểm, th́ ẩn hiện rất mù mờ trong một số câu, vùng Á Đông dùng Âm lịch cho nên một khoảng thời gian dài mấy trăm năm, mà căn cứ vào lục thập hoa giáp rất khó mà đoán đúng được thời điểm như dùng Dương lịch, ngay cả Sấm Nostradamus tiên đoán về thời điểm sự kiện xẩy ra, những người nghiên cứu về Nostradamus cũng lúng túng chỉ khi xẩy ra rồi mới rơ năm nàọ

Trong bài phân tích này để bàn luận là THIÊN th́ có những câu như sau:

Ngưu tinh tụ Bảo giang (Tinh tụ Bảo giang thượng)
Đại nhân cư chính trung

Bảo giang đây chính là sông trời – Thiên Hà – Ngân Hà, sao Ngưu đă xuất hiện sáng lên dần theo luật Sinh Vượng, v́ vậy những câu sau nhắc tới Bảo giang hoặc có thể Hoàng giang, là có ư nói về Ngưu tinh sau hàng ngàn năm trước đă sáng rực rỡ (thời Thần Nông, thời Lạc Long Quân – Hùng Vương) lên rồi dần mờ tối biến mất, nay Ngưu tinh đă xuất hiện trở lại và sáng dần lên chủ đạo trong ṿm trời Việt Nam

5 - Trải v́ sao, mây che Thái ất
6 - Thủa cung tay, xe nhật phù lên

133 - Chọn Đẩu-Thai những v́ sao cả (là sao lớn trong giải Ngân Hà, sao Đẩu sao Ngưu thuộc chùm sao Huyền Vũ gồm các sao Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích - ngôi sao Đẩu của cḥm sao phương Nam gồm 7 sao là Tỉnh, Quỉ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn. Sao Tỉnh có h́nh Việt Tỉnh. Sao Thai=sao Tam Thai)
134 - Dùng ở tay phụ tá vương gia
135 – Bắc phương chính khí sinh ra (từ nơi phương Bắc Việt Nam sinh ra, phương hướng sẽ nói sau khi suy luận về phần ĐỊA)
136 - Có ông Bạch sĩ (xỉ) điều ḥa hôm mai

141 - Uy nghi trạng mạo khác h́nh
142 - Thác cư một gốc Kim tinh phương Đoài (có nhiều câu về phương Đoài sẽ suy luận sau)

185 - Xem Đoài cung, đến thời bất tạo
186 - Thấy vĩ tinh, liệu rạo cho mau

203 - Lưu tinh hiện trước đôi thu
204 - Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm

251 - Xem tượng trời, biết đường đời trị (tượng trời ám chỉ về sao Ngưu, Đẩu đă xuất hiện)
252 - Ngẩm về sau, họ Lư xưa nên
253 - Gịng nhà để lấy dấu truyền
254 - Ngẩm xem bốn báu c̣n in đời đời

257 - Lại nói xứ, Hoàng giang sinh thánh (xứ Hoàng giang - Đà giang là Địa lư
258 - Sông Bảo giang, thiên định ai hay ? (Bảo giang là Thiên văn)

269 - Năm Giáp Tư, vẽ khuê đă rạng
270- Lộ ngũ tinh, trinh tượng thái hanh (ngũ tinh gồm những v́ sao nào trong cḥm sao Huyền Vũ, phương Nam chư rơ ?)

414 - Bảo giang Thiên tử xuất (Phá Điền Thiên tử xuất) (trong giải Ngân Hà sao Ngưu xuất hiện, Thánh nhân chọn v́ sao lớn để Đẩu sinh)
415 - Bất chiến tự nhiên thành

420 - Danh vi Nguyễn gia tử
421 - Kim tịch (Tinh bản) sinh Ngưu lang (như câu 142, nghi vấn là họ Lư hay Nguyễn)

434 - Nam Việt hữu Ngưu tinh (Ngưu tinh đây là sao chủ của người Việt Nam)
435 - Quá thất thân thủy sinh (chữ thân này không có bản Hán tự nhưng nếu dùng chữ thân này 申:lại, đến – “qua bẩy lại mới sinh” có lẽ hợp với câu trên và những câu lục thất hơn, suy luận thêm sao Ngưu qua chu kỳ hoặc Vận thứ bẩy lại mới sinh ra ***)

450 - Danh vi Nguyễn gia tử
451 - Tinh bản tại Ngưu lang (nhắc lại giống câu 420-421)

Dục thức Thánh nhân xứ (câu này ở Sấm kư NBK giống trong Sấm Trạng câu 418-419, phụ trương ghi lại câu này như sau: 1 - Dục thức Thánh nhân hương - Thủy lam bảo trung tàng, 2 - Dục thức Thánh nhân tính - Mộc hạ liên đinh khẩu, 3 - Dục thức Thánh nhân diện - Tu tầm trương cú kiến)
Đa xuất ứng Bảo giang

Chấn cung xuất nhật
Đoài cung vẫn tinh

Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc
Ngưu xuất Lam điền nhật chính Đông (Ngưu đây là sao Ngưu, Lam điền là địa danh, nơi vùng đất có nhiều ngọc quư)

Uy nghi dung mạo khác h́nh
Thác cư một góc Kim tinh phương Đoài (phương Đoài nơi Trạng Tŕnh ở Bạch Vân am hay hoặc thành Thăng Long nh́n thiên văn thấy Thánh nhân sẽ xuất hiện)

Bảo giang Thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành

Tất cả những câu Sấm Hán tự ẩn rất nhiều ư nghĩa, nhưng v́ không ai biết hay có để đưa ra nguyên bản, người xưa có câu “Nói có sách, mách có chứng”, không có sách mà giải, dịch, chiết tự, suy luận cũng đều chủ quan, không hợp lư, thiếu khoa học ...

Chữ lục thất được nhắc lại nhiều trong Sấm Trạng, vậy chữ lục thất này nói về phương diện nào ?

Trích 1 đoạn trong bài viết ĐỊA THẾ PHONG-THỦY CỦA HÀ-NỘI, HUẾ, SÀI-G̉N VÀ VẬN MỆNH CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM của ông Lâm Quốc Thanh nói về Tam nguyên cửu vận:

Code:
***Tam Nguyên-Cửu Vận: là 1 chu kỳ 180 năm, được lập đi, lập lại không ngừng. Mỗi một chu kỳ này được chia ra làm 3 (Tam) Nguyên, mỗi Nguyên là một giai đoạn dài 60 năm, và được đặt theo thứ tự là Thượng Nguyên, Trung Nguyên và Hạ Nguyên. Mỗi Nguyên lại được chia làm 3 Vận: các Vận 1, 2, 3 thuộc về Thượng Nguyên; các Vận 4, 5, 6 thuộc về Trung Nguyên; và các Vận 7, 8, 9 thuộc về Hạ Nguyên. Mỗi Vận như thế là 1 giai đoạn dài 20 năm.
Ở đây, để tiện theo dơi những diễn biến lịch sử trong từng giai đoạn, người viết xin được giới thiệu với bạn đọc bảng Tam Nguyên-Cửu Vận của hơn 1,000 năm trở lại đâỵ

THƯỢNG NGUYÊN TRUNG NGUYÊN HẠ NGUYÊN
Vận 1 Vận 2 Vận 3 Vận 4 Vận 5 Vận 6 Vận 7 Vận 8 Vận 9
964   984   1004 1024 1044   1064 1084 1104 1124
1144 1164 1184 1204     1224   1244 1264 1284     1304
1324 1344 1364 1384     1404   1424 1444 1464     1484
1504 1524 1544 1564     1584   1604 1624 1644     1664
1684   1704   1724    1744    1764     1784    1804    1824 1844
1864 1884 1904 1924     1944   1964 1984 2004     2024

Chú ư: những năm trong bảng trên đều là những năm khởi đầu của mỗi Vận. Thí dụ như năm 964 là năm khởi đầu của Vận 1, nên từ năm đó cho đến năm 983 đều nằm trong Vận 1. Đến năm 984 mới bước vào Vận 2....

        B      
   6----1----8
T 7-----5----3 Đ
   2----9----4
      N

* Lạc Thư: là một đồ bàn h́nh vuông, bên trong có 9 số (c̣n được gọi là Cửu tinh), mỗi tương ứng với mỗi Vận, đồng thời chiếm 1 vị trí và phương hướng nhất định như h́nh bên cạnh. Như vậy, muốn biết được sự hưng, suy của một thành phố trong Vận nào, ta chỉ cần quan sát những khu vực tương ứng trong Lạc Thư là sẽ t́m ra được lời giải đáp. Chẳng hạn như muốn biết khí số của Hà Nội trong Vận 7 như thế nào, trước hết ta cần nh́n vào Lạc Thư, sẽ thấy số 7 nằm ở phía Tâỵ Như vậy, chỉ cần quan sát địa thế sông, núi ở khu vực phía Tây Hà Nội, đồng thời đối chiếu với khu vực đối diện tức là phía Đông th́ sẽ t́m ra được kết quả chính xác.
Trên đây chỉ là chút khái niệm về Lạc Thư và Tam Nguyên-Cửu Vận, ngoài ra, bạn đọc cũng cần biết hai yếu tố căn bản để định quẻ là Nước và Núi qua ba điểm dưới đây:

a/ Phục Ngâm: là khu vực của chính Vận mà lại có Thủy, như Vận 7, số 7 nằm ở phía Tây, nên phía Tây được coi là khu vực của chính Vận, mà ở đó lại có Thủy (nước) tức là bị Phục Ngâm.

b/ Phản Ngâm: là khu vực đối diện với chính Vận mà lại có núi, như Vận 7, số 7 nằm ở phía Tây, mà phía Đông lại có núi tức là bị Phản Ngâm.

c/ Chính Thủy: là Thủy nằm ở khu vực đối diện với chính Vận, như Vận 7, số 7 nằm ở hướng Tây, mà phía Đông lại có Thủy tức là có Chính thủỵ

Trong những cách kể trên, chỗ nào có Phục Ngâm, Phản Ngâm là có sát khí chiếu tới, nên sẽ mang nhiều tai ương, hoạn nạn đến cho thành phố. C̣n chỗ nào có Chính thủy tức là được vượng khí chiếu tới, nên sẽ đem đến nhiều may mắn, thuận lợị


Sau khi đă nắm được những diều cơ bản trên, mời bạn đọc hăy nh́n vào địa thế của 3 thành phố Hà Nội, Huế và Sài G̣n, để t́m hiểu những nguyên nhân đă tạo ra những chặng đường vinh - nhục cho đất nước ta trong suốt gần 1,000 quạ


Bài viết này rất hay và dài vào đây để đọc: Phong thuỷ SG-Huế-HN


NM vẫn nghĩ sự phân tích vận 7 của bác TN qua sự vận dụng địa lư phong thủy có logic . Nhưng sự phân tích địa lư của ông LQT th́ lại thiếu logic!

Theo NM th́ Sấm Trạng không phải chỉ tiên tri 01 sự kiện mà thôi, Sấm có khă năng tiên tri nhiều sự kiện cùng một lúc, nên NM vẫn cho rằng câu

"Qúa thất thân thủy sinh"

tiên tri năm ra đời của vị Thánh kia dựa vào mốc thời gian 1954 khi đất nước chia hai qua 02 câu:

"Bắc hữu kim thành tráng
Nam tạc ngọc bích thành"


Ngoài ra Sấm vẫn có thể tiên tri thêm: vận 7 là giai đoạn chuẩn bị cho VN một vận hội huy hoàng kéo dài 500 năm như bác TN đă phân tích . Tuy nhiên v́ cái lư của ông LQT không ăn khớp với phân tích của bác TN, nên phe ta hăy thử nghiên cứu phong thủy dựa vào Lạc Thư như của ông LQT, nhưng bằng một h́nh thức khác coi thử thế nào .

Thay v́ dùng Lạc Thư cho các thành phố Hà Nội, Huế, Sài G̣n, NM nghĩ chúng ta hăy dùng Lạc Thư cho cả VN, áp dụng cho 03 miền Bắc Trung Nam . Theo cách này th́ vận 7 ứng vào phương chính Tây của miền Trung . Phương chính Đông của miền Trung là quần đảo Trường Sa:

"quần đảo Trường Sa nằm ở điểm cực Đông Việt Nam, nơi nhận được ánh sáng ban mai sớm nhất nước" LINK

tương ứng với câu

" Ngưu xuất lam điền nhật chính đông"

từ Trường Sa (chính Đông) sẽ t́m được hướng chính Tây, rồi từ đó nếu t́m ra được địa điểm "Chính Thủy" th́ sự phân tích của bác TN được chứng minh .

Vài ư chia xẻ






Sửa lại bởi NhapMon : 04 January 2007 lúc 5:40pm


__________________
NhapMon
Quay trở về đầu Xem NhapMon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi NhapMon
 
thiennhan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 634
Msg 265 of 585: Đă gửi: 05 January 2007 lúc 12:43am | Đă lưu IP Trích dẫn thiennhan

434 - Nam Việt hữu Ngưu tinh
435 - Quá thất thân thủy sinh
436 - Địa giới sĩ (xỉ) vị bạch
437 - Thủy trầm nhĩ bất kinh (Thủy trầm nhi Bắc kinh)

Trong hai câu 434-435 chưa có thể kết luận là chu kỳ bao nhiêu năm thịnh vượng của dân Việt, câu “Quá thất thân thuỷ sinh” là để nói tới Ngưu tinh sao chủ mệnh của dân Việt sẽ bắt đầu vượng lên nhập ĐỊA từ vận nào để sinh ra NHÂN (không cứ hẳn Thánh nhân phải sinh ra trong vận 7), nếu như vận của sao Ngưu thuộc phần THIÊN th́ chu kỳ phải dài hơn của ĐỊA và NHÂN:

Code:
(sưu tầm) Đă bàn đến Tượng số th́ phải kể đến tên Thiệu Ung, hay c̣n gọi là Thiệu Khang Tiết và cuốn sách Hoàng cực kinh thế nổi tiếng của ông được biên soạn theo lư thuyết của Kinh dịch và Kinh Thái Huyền có 60 chương phân tích về tượng số của trời đất sự biến hóa của Thái cực ông đă lấy những mă vạch âm dương mà vua Phục Hi đă đặt ra để định tượng số, lập hẳn ra một học thuyết có ảnh hưởng đến tận bây giờ Ông được các học giả qua nhiều đời suy tôn là bậc đại triết gia của Nho giáo. Thiệu Khang Tiết cho rằng: Vật lớn không ǵ bằng trời đất, thế mà cũng có chỗ hết. Cái lớn của trời th́ đến âm dương là hết. Cái lớn của đất th́ đến Cương nhu là hết. Trời sinh ra bởi động. Đất sinh ra bởi tĩnh. Lúc mới động th́ dương sinh động đến cực th́ âm sinh. Một âm, một dương giao nhau mà hết cái dụng của trời đất. Ông c̣n lấy cái thể và cái dụng của tứ tượng phối hợp với nhau thành tượng số tự nhiên như: Nóng, lạnh ngày, đêm, mưa, gió, sương … làm sự biến và sự hóa của trời đất, Lấy tính, t́nh, h́nh, thể, chạy, bay, cỏ, cây … làm sự cảm và sự ứng của vạn vật, Lấy Nguyên, Hội, Vận, Thế, Tuế, Tiết, Nhật Nguyệt làm cái trước và cái sau của không gian và thời gian. Theo đó, ṿng thời gian có một Nguyên là 129.600 năm gồm 12 Hội, mỗi Hội là 10.800 năm có 30 Vận, mỗi Vận là 360 năm có 12 Thế mỗi Thế là 30 năm. Như vậy, một Nguyên có 12 Hội, 360 Vận, 4320 Thế. Cuộc đại biến hóa của vũ trụ cũng đi theo quy tŕnh như trên, tức là sự biến đổi siêu vật chất đă có nhiều điều trùng lặp, giống nhau đến lạ kỳ với học thuyết khoa học của những nhà vật lư, toán học nghiên cứu về vũ trụ và lượng tử hiện đại. Hơn nữa, Thiệu Khang Tiết cũng dùng tượng số này tạo thành lư thuyết giáo dục và tu dưỡng đạo đức. Ví như có tính là có t́nh. T́nh là cái phản lại của tính cũng như mặt trăng sáng là do lấy ánh sáng từ mặt trời vậy. Tính là thần, t́nh là quỷ, nghĩa là tính th́ trong lành sáng suốt, t́nh th́ quỷ quái mờ tối, cho nên người ta cần phải phục tính, nói cách khác là rèn luyện để trở lại chính ḿnh. Khi đă về nguyên tính thiêng liêng tỏa sáng th́ chính là lúc đạt tới mức thần.,cái thần của Thiệu Khang Tiết cũng phảng phất như đạo Lăo vậy.


Vậy mỗi Vận của THIÊN phải là 360 năm chứ không phải 20 năm như của ĐỊA, mà địa lư với c̣n người có tương tác ảnh hưởng qua lại, con người có thể làm tác hại đổi đất như lấp bể, đào sông, xẻ núi, phá rừng ..., và đất có thể làm tác hại cho người như động đất, sụp núi, lở sông ... nhưng với THIÊN th́ vô vọng đổi được, không thể nào đổi được Trời cả, v́ vậy trong Sấm có câu “Đương THỜI đời trị xoay vần được đâu”, Trời = THỜI đă cho tới lúc thịnh trị rồi th́ chẳng xoay chuyển thay đổi được t́nh thế, người xưa có câu “thay TRỜI hành Đạo” nhận nhiệm vụ của Trời để làm t́nh thế, chứ chẳng có thể đổi TRỜI để xoay chuyển t́nh thế cho đất cho người.

C̣n như như bài viết của ông LQT th́ trong Sấm lại có câu:

Bắc hữu Kim thành tráng
Nam hữu Ngọc bích thành

Khi vận phía Bắc suy th́ vận phía Nam vượng và ngược lại, cả hai đều là Kim Ngọc của nước Việt, dù trải qua theo phong thuỷ th́ mỗi vận theo địa lư lúc thịnh lúc suy th́ sẽ hỗ trợ lẫn nhau, Bắc vào vận suy Nam là hậu phương hỗ trợ, Nam vào vận suy Bắc sẽ giúp đỡ, miền Trung là đ̣n gánh cho hai đầu Nam Bắc rất là quan trọng chia gánh cho hai miền Nam Bắc lúc thịnh hay suy.

Hai câu sau:

436 - Địa giới sĩ (xỉ) vị bạch
437 - Thủy trầm nhĩ bất kinh (Thủy trầm nhi Bắc kinh)

Hai câu trên nói về THIÊN hai câu dưới nói về ĐỊA và NHÂN, câu 436 như VSSL chữ XỈ vị BẠCH là tên của Thánh nhân, có nghĩa nôm na Trời có sao Ngưu giáng xuống địa giới sinh ra Thánh nhân, câu 437 - Thủy trầm nhĩ bất kinh (Thủy trầm nhi Bắc kinh) không có nguyên bản Hán tự lại có 2 câu khác nhau không thể lạm bàn.

3 - Một câu là một nhiệm mầu
4 - Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao

Và rồi:

Học cách vật mới ḍ tới chốn
Chép ghi làm một bổn xem chơi.

Chỉ phân tích và suy luận xem chơi trong lúc c̣n rảnh, không hề có ư là giải đóan hay giải thích.


Sửa lại bởi thiennhan : 05 January 2007 lúc 12:58am
Quay trở về đầu Xem thiennhan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thiennhan
 
NhapMon
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 266 of 585: Đă gửi: 05 January 2007 lúc 9:49am | Đă lưu IP Trích dẫn NhapMon

NhapMon đă viết:


NM vẫn nghĩ sự phân tích vận 7 của bác TN qua sự vận dụng địa lư phong thủy có logic . Nhưng sự phân tích địa lư của ông LQT th́ lại thiếu logic!

Theo NM th́ Sấm Trạng không phải chỉ tiên tri 01 sự kiện mà thôi, Sấm có khă năng tiên tri nhiều sự kiện cùng một lúc, nên NM vẫn cho rằng câu

"Qúa thất thân thủy sinh"

tiên tri năm ra đời của vị Thánh kia dựa vào mốc thời gian 1954 khi đất nước chia hai qua 02 câu:

"Bắc hữu kim thành tráng
Nam tạc ngọc bích thành"


Ngoài ra Sấm vẫn có thể tiên tri thêm: vận 7 là giai đoạn chuẩn bị cho VN một vận hội huy hoàng kéo dài 500 năm như bác TN đă phân tích . Tuy nhiên v́ cái lư của ông LQT không ăn khớp với phân tích của bác TN, nên phe ta hăy thử nghiên cứu phong thủy dựa vào Lạc Thư như của ông LQT, nhưng bằng một h́nh thức khác coi thử thế nào .

Thay v́ dùng Lạc Thư cho các thành phố Hà Nội, Huế, Sài G̣n, NM nghĩ chúng ta hăy dùng Lạc Thư cho cả VN, áp dụng cho 03 miền Bắc Trung Nam . Theo cách này th́ vận 7 ứng vào phương chính Tây của miền Trung . Phương chính Đông của miền Trung là quần đảo Trường Sa:

"quần đảo Trường Sa nằm ở điểm cực Đông Việt Nam, nơi nhận được ánh sáng ban mai sớm nhất nước" LINK

tương ứng với câu

" Ngưu xuất lam điền nhật chính đông"

từ Trường Sa (chính Đông) sẽ t́m được hướng chính Tây, rồi từ đó nếu t́m ra được địa điểm "Chính Thủy" th́ sự phân tích của bác TN được chứng minh .

Vài ư chia xẻ



Nghĩ tới nghĩ lui th́ dùng Lạc Thư đưa vào địa lư như của ông LQT không ổn, v́ đất nước luôn luôn bất an trong bất kỳ vận nào (mỗi vận 20 năm).

Dùng vận 360 năm vào Lạc Thư th́ chưa có cơ sở nào cả.

Nói chung là chúng ta không thể dùng một việc chưa được chứng minh để giải thích hoặc chứng minh một việc khác .

__________________
NhapMon
Quay trở về đầu Xem NhapMon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi NhapMon
 
NhapMon
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 267 of 585: Đă gửi: 05 January 2007 lúc 10:06am | Đă lưu IP Trích dẫn NhapMon

Xin góp ư với bác TN cho vui, có ǵ mạo phạm bác bỏ qua cho

thiennhan đă viết:


Bắc hữu Kim thành tráng
Nam hữu Ngọc bích thành

Khi vận phía Bắc suy th́ vận phía Nam vượng và ngược lại


Nghĩa là ở VN, sẽ không bao giờ có cả 02 miền Nam Bắc cùng vượng hoặc cùng suy cả. NM xin được không đồng ư với suy luận này

thiennhan đă viết:
cả hai đều là Kim Ngọc của nước Việt, dù trải qua theo phong thuỷ th́ mỗi vận theo địa lư lúc thịnh lúc suy th́ sẽ hỗ trợ lẫn nhau, Bắc vào vận suy Nam là hậu phương hỗ trợ, Nam vào vận suy Bắc sẽ giúp đỡ, miền Trung là đ̣n gánh cho hai đầu Nam Bắc rất là quan trọng chia gánh cho hai miền Nam Bắc lúc thịnh hay suỵ


Trong một đất nước, chuyện hỗ trợ giữa địa phương này với địa phương khác là chuyện rất b́nh thường và hiển nhiên, cho nên NM không nghĩ cụ Trạng lại dùng 02 câu kia để tiên tri một chuyện b́nh thường như vậy .


Sửa lại bởi NhapMon : 05 January 2007 lúc 2:12pm


__________________
NhapMon
Quay trở về đầu Xem NhapMon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi NhapMon
 
thiennhan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 634
Msg 268 of 585: Đă gửi: 06 January 2007 lúc 3:11am | Đă lưu IP Trích dẫn thiennhan

Trong sự phân tích và suy luận về một vấn đề rất cần đến sự phản biện, nhờ sự phản biện mà sự phận tích và suy luận sẽ khách quan hơn và rơ nét hơn, v́ vậy các bạn đừng ngại khi cùng t́m hiểu chung trong một vấn đề mà cần phải phản biện, mỗi người góp 1 phần trí óc th́ vấn đề cần t́m hiểu sẽ trở nên dễ thấy hơn 1 người suy nghĩ.

Nước VN trong thời cụ Trạng chưa có miền Nam, nhưng có lẽ tiên kiến của cụ Trạng đă thấy và mưu tính cho nước Việt mới chỉ cách cho chúa Nguyễn vào miền Nam, rồi cụ lại cho những môn sinh giỏi nhất theo pḥ để đạt được mục đích chính, c̣n về các miền trong đất nước hỗ trợ nhau dĩ nhiên là sư b́nh thường, nhưng hỗ trợ nhau trên khía cạnh phong thuỷ lại là khác, con người có vận tốt vận xấu nhưng có vợ th́ vận ḿnh xấu vận của vợ tốt th́ chia ra huề, c̣n độc thân nếu vận xấu thất nghiệp có lẽ cả 10 năm chiu húp cháo một ḿnh, c̣n có vợ th́ vẫn có cơm ăn v́ ... nhờ vợ nuôi c̣n ḿnh bị thất nghiệp phải bó gối chờ vận tốt vậy. V́ vậy nếu nói Nam là ngọc bích Bắc là Kim thành có lẽ cũng không đến nỗi ra ngoài tầm hiểu rộng, nếu như 1 nước khi vận tốt cũng chỉ có 1 thời gian rồi xấu, th́ khi tốt th́ thật là tốt cho cả nước, nhưng khi xấu th́ thôi rồi chịu chung số phận, c̣n VN th́ lúc nào cũng ... ấm êm, nhưng đó cũng chỉ là 1 khía cạnh chứ không phải là chủ đạo cho toàn cuộc, v́ vậy hai câu này là chủ đạo cho thời thịnh trị của VN:

Ngưu tinh tụ Bảo giang
Đại nhân cư chính trung

Trời là nhất kế tới đất rồi tới người, khi vận của Trời đă thịnh th́ chi phối làm chủ đạo, đất và người chỉ nương theo, đại vận 10 năm tốt tiểu vận 1 năm xấu chẳng ảnh hưởng nhiều, nhung ngược lại th́ như 1 cơn mưa rào trong mùa khô hạn chẳng đủ thấm đất, Thiên thời địa lợi nhân hoà, 3 yếu tố th́ thiên thời vẫn đứng đầu cho sự thành công, 2 phần sau để nương theo để thành công nhiều hay it.
Quay trở về đầu Xem thiennhan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thiennhan
 
ngoctrongdda
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 26 November 2006
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 142
Msg 269 of 585: Đă gửi: 07 January 2007 lúc 1:32am | Đă lưu IP Trích dẫn ngoctrongdda

Lokeshvara đă viết:
thánh nhân có thể là gia đ́nh gốc người Hoa sang CamBuChia làm ăn, họ có liên quan đến bộ Mộc ,rồi duyên cớ ǵ đó mà sang Vịêt Nam sống ,thánh thân có thể là người mệnh Kim ,sinh năm Sửu.. 
Ừ bộ Mộc có lư hơn.Cám ơn bạn đă góp ư kiến ủng hộ !
Quay trở về đầu Xem ngoctrongdda's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ngoctrongdda
 
ngoctrongdda
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 26 November 2006
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 142
Msg 270 of 585: Đă gửi: 07 January 2007 lúc 4:04am | Đă lưu IP Trích dẫn ngoctrongdda

Nhân mấy ngày lễ đi chơi về ,đă ủng hộ t/g LVV ,bây giờ mới thấy được bác Thiennhan xuất chiêu có logic ,tôi xin ứng hộ vài ư kiến

Khí tượng thiên văn ở Trời khi : Sao Ngưu tụ tại sông Quư ->Sao Ngưu xuất hiện và rực sáng trên ṿm trời chủ đạo của Việt Nam?

Dưới hạ giới ,Đất ứng hợp :Miền Bắc ( Hà Nội) qua vận thất(7) khai?cũng là lúc họ (bộ) Mộc đời thứ 7 ->sẽ có Trâu phá điền

Chính là thời điểm Người ra đời :Năm Sửu Thiên tử giáng trần !

Nói 1 cách khác :Thiên sao Ngưu (trâu,sửu) chủ mệnh của dân Việt  bắt đầu vượng lên nhập Địa cùng lúc Ngưu (trâu,sửu) phá điền,chính là thời điểm sinh ra,Ngưu(trâu,sửu) cũng là chủ tinh của Nhân !

Sự phối hợp tài t́nh của Tam Tài , liệu có cần Tam cấp tương ứng không? phần sấm chữ nho c̣n có : Sửu vi thánh quân vương,Tỵ nhân vi tướng,Th́n Tuất vi quân sư.

Vậy chúng ta chỉ c̣n t́m thời điểm xuất hiện của vị này :Không cần biết " Mộc ,Lư hay Nguyễn..v..v.. đi lại về " nhưng nếu có "Ngh́n năm  lại thấy mọi nơi vẹn toàn" , 1000 năm sau sẽ có 1 trường hợp tương tự như Lư Công Uẩn sinh 974 xuất hiện vào năm 1010 khoảng 36,37 tuổi sẽ mang lại thanh b́nh thịnh trị?

Cứ cho rằng cụ Trạng Tŕnh tiên đoán đúng..Đất nước Việt Nam đă chịu bao nhiêu đau khổ v́ chiến tranh nội chiến và ngoại xâm cho nên có thể giải pháp êm đẹp nhất là chuyển giao quyền lực từ từ ,nhưng ở trong 1 thế giới phẳng dân tộc Việt với mấy ngàn năm thống khổ không thể nào tiến lên hùng cường được.Bởi vậy năm 2010 vị này có thể chỉ mới thấy tại báo chí hay 1 số phương tiện thông tin đại chúng ,chỉ đến khi có những dao động mạnh cỡ WW3 th́ ông mới xuất hiện thể hiện tài năng chăng???

Network dở quá viết xong bị xóa hết ư ,viết lại đâm lung tung.NTD

 

Quay trở về đầu Xem ngoctrongdda's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ngoctrongdda
 
NhapMon
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 271 of 585: Đă gửi: 07 January 2007 lúc 5:24pm | Đă lưu IP Trích dẫn NhapMon

Thử t́m lại biên giới cổ của Việt-Nam:
bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích và hệ thống ADN.


Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ.
Giám đốc Trung-quốc sự vụ, viện Pháp-á

Chúng tôi xin giới thiệu với độc giả Việt-Nam bài diễn văn của Giáo-sư Trần Đại-Sỹ đọc trong dịp khai giảng niên khóa 1991-1992 tại Viện Pháp-Á (Institut Franco-Asiatique viết tắt là IFA). Nguyên văn bằng tiếng Pháp, đây là bản dịch tiếng Việt của Tăng Hồng Minh. Trong dịp khai giảng niên học này, IFA đă mời một số đông các học giả, trí thức và kư giả tham dự. Sau bài diễn văn, có cuộc trao đổi rất thú vị.

Xin nhắc lại, trong khoảng thời gian 1977-1992, tác giả làm việc cho Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu (Coopérative Européenne Pharmaçeutique, viết tắt là CEP) và Ủy-ban trao đổi y học Pháp-Hoa (Commité Médical Franco-Chinois viết tắt là CMFC), nên đă được các đồng nghiệp giúp đỡ, dùng hệ thống ADN để t́m lại nguồn gốc dân tộc Việt-Nam.

Chính với công tŕnh nghiên cứu của tác giả trong thời gian 1977-1991, dùng hệ thống ADN phân biệt dân-tộc Trung-hoa, dân tộc Việt-Nam...đă kết thúc cuộc tranh căi 90 năm qua biên giới cổ của Việt–Nam. Kết luận về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam bằng khoa ADN đi ngược lại với tất cả các thuyết từ trước đến giờ. Các thuyết này khẳng định người Việt do người Hoa di cư xuống để trốn lạnh, để tỵ nạn v.v. Nhưng ADN cho biết chính người ở vùng Đông Nam Á đă đi lên phương Bắc thành người Hoạ

Sau khi bài diễn văn này phổ biến (1991), có một số "học giả" v́ không theo kịp đà tiến hóa của khoa học, đă lên tiếng chỉ trích chúng tôị Biết rằng họ dốt nát quá, muốn giải thích cho họ, họ phải có một tŕnh độ nào đó... v́ vậy chúng tôi không trả lờị Phần nghiên cứu của chúng tôi quá dài, quá chuyên môn. Độc giả muốn t́m hiểu thêm có thể đọc công tŕnh nghiên cứu dưới đây:

J.Y.CHU, cùng 13 nhà bác học Trung-quốc cũng nghiên cứu Di-truyền học ADN (DNA), công bố năm 1998: The Nation Academy of Sciences, USA, Vol.95 issue 20, ngày 29 tháng 7 năm 1998. Tài liệu khẳng định rằng nguồn gốc người Trung-hoa, Đông Á, do người Đông-Nam-á đi lên, chứ không phải do người Trung-hoa di cư xuống.

Về bài diễn văn này, từ năm 1991, có rất nhiều bản dịch sang nhiều thứ tiếng, đăng trên nhiều báo khác nhaụ Mỗi dịch giả lại tự ư lược đi, đôi khi cắt mất nhiều đoạn. Nay chúng tôi xin dịch nguyên bản, đầy đủ. V́ vậy độc giả thấy có nhiều đoạn quá chuyên môn, xin lướt quạ
Trong khi diễn giả tŕnh bầy, ông có ngắt ra nhiều đoạn, để thính giả thảo luận. Các bài trích đăng trước không ghi phần nàỵ Để độc giả dễ theo dơi, cô Tăng Hồng Minh (THM) ghi chép, chú giải đặt ngay dưới đoạn liên hệ, thay v́ ghi ở cuối bàị

Khi xuất bản lần thứ nhất², bộ Anh-hùng Bắc-cương của giáo-sư Trần, chúng tôi có cho trích một phần bài này in vào cuối quyển 4. Nay chúng tôi công bố toàn bộ tài liệu, lấy làm tài liệu chính thức và phủ nhận tất cả những bản do nhiều nơi phổ biến trước đâỵ
Paris ngày 10-10-2001

Sở tu thư, viện Pháp-Á


SƠ TẦM VỀ TỘC VIỆT
Năm lên năm, tôi học chữ Nho, một loại chữ của Trung-quốc, nhưng dùng chung cho hầu hết các nước vùng Á-châu Thái-b́nh dương (ACTBD). Thầy khai tâm của tôi là ông ngoại tôị Ông tôi là một đại thần của triều đ́nh Đại-Nam (tức Việt-Nam).

Chế độ phong kiến của nước tôi đă chấm dứt từ năm 1945, hiện (1991) vị Hoàng-đế cuối cùng của Đại-Nam là Bảo Đạị Ngài vẫn c̣n sống ở quận 16 Paris.

Năm lên sáu tuổi, tôi được học tại trường tiểu học do chính phủ Pháp mở tại Việt-Nam. Thời gian 1943-1944 rất ít gia đ́nh Việt-Nam c̣n cho con học chữ Nhọ Bởi đạo Nho cũng như nền cổ học không c̣n chỗ đứng trong đời sống kinh tế, chính trị nữạ Thú thực tôi cũng không thích học chữ Nho bằng chơi bi, đánh đáọ Nhưng v́ muốn làm vui ḷng ông tôi mà tôi học. Hơn nữa học chữ Nho, tôi có một kho tàng văn hóa vĩ đại để đọc, để thỏa măn trí thức của tuổi thơ. Thành ra tôi học rất chuyên cần. Các bạn hiện diện nơi đây không ít th́ nhiều cũng đă học chữ Nho đều biết rằng chữ này học khó như thế nàọ Nhưng tôi chỉ mất có ba tháng đă thuộc làu bộ Tam tự kinh, sáu tháng để thuộc bộ Ấu-học ngũ ngôn thị Năm bẩy tuổi tôi được học sử, và năm chín tuổi bị nhét vào đầu bộ Đại-học.

Chương tŕnh giáo dục cổ bắt học sinh học hai loại sử. Bắc-sử tức sử Trung-quốc. Nam sử tức sử của Việt-Nam. Tôi được học Nam sử bằng chữ Nho, đồng thời với những bài sử khai tâm bằng chữ Quốc ngữ vào năm bảy tuổị Thời điểm bấy giờ bắt đầu có những bộ sử viết bằng chữ Quốc ngữ, rất giản lược, để dạy học sinh; không bằng một phần trăm những ǵ tôi học ở nhà. Thầy giáo ở trường Pháp biết tôi là cái kho vô tận về sử Hoa-Việt, nên thường bảo tôi kể cho các bạn đồng lớp về anh hùng nước tôị Chính v́ vậy tôi phải lần ṃ đọc những bộ sử lớn viết bằng chữ Hán như:

Đại-Việt sử kư toàn thư (ĐVSKTT),
An-Nam chí lược (ANCL),
Đại-Việt thông-sử (ĐVTS),
Khâm-định Việt sử thông giám cương mục (KĐVSTGCM),
Đại-Nam nhất thống chí (ĐNNTC).
Đại cương mỗi bộ sử đều chép rất giản lược về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam sau:

Vua Minh cháu bốn đời vua Thần-Nông, nhân đi tuần thú phương nam, đến núi Ngũ-lĩnh, kết hôn với một nàng tiên hạ sinh một con trai tên Lộc-Tục. Vua lập đài, tế cáo trời đất, phong cho con trưởng làm vua phương Bắc, tức vua Nghi, phong con thứ là Lộc-Tục làm vua phương Nam. Ngài dạy hai thái tử rằng:

« Nghi làm vua phương Bắc, Tục làm vua phương Nam, lấy núi Ngũ-lĩnh làm cương giớị Hai người làm vua hai nước nhưng vốn cùng gốc ở ta, phải lấy điều hiếu hoà mà ở với nhaụ Tuyệt đối Nam không xâm Bắc, Bắc chẳng chiếm Nam. Kẻ nào trái lời, sẽ bị tuyệt tử, tuyệt tôn ».


Xét triều đại Thần-Nông, khởi từ năm 3118 trước Tây lịch, đến đây th́ chia làm hai:

1. Thần-Nông Bắc.
Vua Nghi (2889-2884 trước Tây lịch)
Vua Lai (2843-2794 trước Tây lịch)
Vua Ly (2795-2751 trưước Tây-lịch)
Vua Du-Vơng (2752-2696 trước Tây-lịch).

Đến đây triều đại Thần-Nông Bắc chấm dứt, đổi sang triều đại Hoàng-đế từ năm giáp Tư (2697 trước Tây-lịch). Các nhà chép sử Trung-quốc lấy thời đại Hoàng-đế làm kỷ nguyên. Trong bộ Sử-kư, Tư-mă Thiên khởi chép quyển một là Ngũ-đế bản kỷ, coi Hoàng-đế là Quốc-tổ Trung-quốc, không chép về thời đại Thần-Nông.

2. Triều đại Thần-Nông Nam.
Thái-tử Lộc-Tục lên làm vua năm Nhâm-Tuất (2879 trước Tây-lịch) hiệu là Kinh Dương, lúc mười tuổị Sau người Việt lấy năm này làm kỷ nguyên lập quốc. Nếu cộng chung cho đến nay (1991) là 4870 năm, v́ vậy người Việt tự hào rằng đă có năm ngh́n năm văn hiến. (1)

[Nội dung bài diễn văn hôm nay, tôi chỉ bàn đến diễn biến chính trị, lịch sử, văn hóa, địa lư của dân tộc -Trung-hoa, và dân tộc Việt-Nam trong khoảng thời gian 4870 năm từ năm 2879 trước Tây-lịch cho đến năm nay 1991. C̣n như đi xa hơn về những thời tiền cổ, thời đồ đá, đồ đồng, đồ sắt, quá phức tạp, quá dài, tôi không luận đến ở đâỵ]

Xét về cương giới cổ sử chép:

« Thái-tử Lộc-Tục lên ngôi lấy hiệu là Kinh Dương (2), đặt tên nước là Xích-quỷ, đóng đô ở Phong-châu nay thuộc Sơn-Tâỵ Vua Kinh Dương lấy con gái vua Động-đ́nh là Long-nữơ đẻ ra Thái-tử Sùng-Lăm. Thái-tử Sùng-Lăm lại kết hôn với công chúa Âu-Cơ con vua Đế-Lai (3). Khi vua KinhĐương băng hà thái-tử Sùng-Lăm lên nối ngôi vua, tức vua Lạc-Long, đổi tên nước là Văn-Lang. Nước Văn-Lang Bắc tới hồ Động-đ́nh, Nam giáp nước Hồ-tôn, tây giáp Ba-thục, đông giáp biển Đông-hảị)

Cổ sử đến đây, không có ǵ nghi ngờ, nhưng tiếp theo lại chép:

« Vua Lạc-Long lấy công chúa Âu-Cơ sinh ra một bọc trăm trứng nở ra trăm con. Ngài truyền cho các hoàng tử đi bốn phương lập ấp, tổ chức cai trị giáo hóa dân chúng. Mỗi vị lập một ấp theo lối cha truyền con nốị

Hoàng-tử thứ nhất tới thứ mười lập ra vùng hồ Động-đ́nh. (Nay là Hồ-Nam, Quư-châu, Trung-quốc.)

Hoàng-tử thứ mười một tới thứ hai mươi lập ra vùng Tượng-quận. (Nay là Vân-Nam và một phần Quảng-Tây, Tứ-xuyên thuộc Trung-quốc.)

Hoàng-tử thứ ba mươi mốt tới bốn mươi lập ra vùng Chiêm-thành. (Nay thuộc Việt-Nam, từ Thanh-hóa đến Đồng-naị)

Hoàng-tử thứ bốn mươi mốt tới năm mươi lập ra vùng Lăo-quạ (Nay là nước Lào và một phần Bắc Thái-lan.)

Hoàng-tử thứ năm mươi mốt tới sáu mươi lập ra vùng Nam-hảị (Nay là Quảng-đông, và một phần Phúc-kiến, Trung-quốc.)

Hoàng-tử thứ sáu mươi mốt tới bảy mươi lập ra vùng Quế-lâm. (Nay thuộc Quảng-tây, Trung-quốc.)

Hoàng-tử thứ bảy mươi mốt tới tám mươi lập ra vùng Nhật-nam. (Nay thuộc Việt-Nam từ Nghệ-an tới Quảng-b́nh.)

Hoàng-tử thứ tám mươi mốt tới chín mươi lập ra vùng Cửu-chân. (Nay thuộc Việt-Nam từ Ninh-b́nh tới Thanh-hóa, Nghệ-an, Hà-tĩnh.)

Hoàng tử thứ chín mươi mốt tới một trăm lập ra vùng Giao-chỉ. (Nay là Bắc Việt-Nam và một phần tỉnh Quảng-tây, Vân-Nam thuộc Trung-quốc.)

Ngài hẹn rằng: Mỗi năm các hoàng-tử phải về cánh đồng Tương vào ngày Tết, để chầu hầu phụ mẫu ».

Một huyền sử khác lại thuật:

Vua Lạc-Long nói với Âu-Cơ rằng: « Ta là Rồng, nàng là loài Tiên ở với nhau lâu không được. Nay ta đem năm mươi con xuống nước, nàng đem năm mươi con lên rừng. Mỗi năm gặp nhau tại cánh đồng Tương một lần »

Các sử gia người Việt lấy năm vua KinhĐương lên làm vua là năm Nhâm-tuất (2879 trước Tây-lịch), nhưng không tôn vua KinhĐương với Công-chúa con vua Động-đ́nh làm Quốc-tổ, Quốc-mẫu, mà lại tôn vua Lạc-Long làm Quốc-tổ và Công-chúa Âu-Cơ làm Quốc-mẫụ Cho đến nay Quư-vị hỏi trăm người Việt ở hải ngoại rằng tổ là ai, họ đều tự hào:

« Chúng tôi là con Rồng, cháu Tiên.
Quốc-tổ tên Lạc-Long, Quốc-mẫu tên Âu-Cơ ».
Chủ đạo của tộc Việt bắt nguồn từ niềm tin nàỵ

3. Triều đ́nh, dân tộc.
Tôi đă tŕnh bầy với Quư-vị về hai triều đại đầu tiên cai trị vùng Á-châu Thái-b́nh dương: Phía Bắc sông Trường-giang sau thành Trung-quốc. Phía Nam sông Trường-giang tới vịnh Thái-lan, sau thành Đại-Việt.
Hai triều đại Thần-Nông Nam-Bắc cai trị dân chúng:
Không có nghĩa là dân chúng cùng một chủng tộc;
Không có nghĩa là tộc Hoa, tộc Việt là một;
Cũng không có nghĩa tất cả dân chúng tộc Hoa, tộc Việt đều là huyết tộc của vua Thần-Nông.

Trung-quốc, Đại-Việt là anh em về phương diện chính trị. Gịng Thần-Nông cai trị vùng đất Trung-quốc, Đại-Việt là anh em, nhưng dân chúng không hoàn toàn là anh em. Dân chúng hai nước bao gồm nhiều tộc khác nhau như Mongoloid, Malanésien, Indonésien, Australoid, và cả Négro-Australoid...v.v.

Người Hoa, người Việt nhân triều đại Nam-Bắc Thần-Nông tổ chức cai trị, lập thành nước, mà tôn làm tổ mà thôị Chứ hai vùng hồi đó có hàng ngh́n, hàng vạn bộ tộc khác nhau, ngôn ngữ khác nhau, văn hóa khác nhaụ
Sau này các văn nhân người Hoa ở vùng lưu vực Hoàng-hà, lưu vực sông Hán, nhân có chữ viết, lại không đi ra ngoài, rồi tưởng tượng mà viết thành sách, tự cho ḿnh là con trời, tự trời mà xuống; sau đó đem văn minh, truyền bá ra khắp thế giới (Thiên-hạ), người sau lấy làm chủ đạo của họ. Tôi sẽ bàn đến ở dướị

Tôi xin cử một tỷ dụ, để Quư-vị nh́n rơ hơn. Ông Washington là vị Tổng-thống đầu tiên lập ra nước Hoa-kỳ, chứ ông không phải là tổ của các sắc dân đến từ châu Phi, châu Âu, cũng như dân bản xứ. Hai vị vua Nghi, vua Kinh Dương không phải là tổ huyết tộc của người Hoa, người Việt. Hai ngài chỉ là tổ về chính trị mà thôị

IỊ CHỦ ĐẠO TRUNG QUỐC, VIỆT-NAM.
Như Quư-vị đă thấy, mỗi dân tộc đều có một chủ đạo, cùng một biểu hiệụ Người Pháp cho rằng tổ tiên là người Gaulois, con vật tượng trưng là con gà trống. Người Anh lấy biểu hiệu là con sư-tử. Người Hoa-kỳ lấy biểu hiệu là con chim ưng. Người Trung-hoa lấy biểu hiệu là con Rồng. Người Việt lấy biểu hiệu là con Rồng và con chim Âụ Gốc biểu hiệu này lấy từ huyền sử vua Lạc-Long là loài rồng, công-chúa Âu-Cơ là loài chim.

Người Do-thái họ tự tin rằng họ là giống dân linh, được Chúa chọn. V́ vậy, sau hai ngh́n năm mất nước, họ vẫn không bị đồng hóạ Khi tái lập quốc, với dân số bằng một phần trăm khối Ả-rập, nhưng họ vẫn đủ khả năng chống với bao cuộc tấn công để tồn tạị Đó là nhờ niềm tin họ thuộc sắc dân được Chúa chọn.

Tôi xin nói rơ về chủ đạo của Trung-quốc và Việt-Nam. Như Quư-vị đều biết, hiện Trung-quốc, Việt-Nam đều là những nước theo chủ nghĩa Cộng-sản, đặt căn bản trên thuyết của Karl Marx, Friedrich Engels.

Chủ thuyết này đến Trung-quốc, Chủ-tịch Mao Trạch Đông biến thể đi thành Maoismẹ Tại Việt-Nam, người mang chủ thuyết Marx, Engels vào là Chủ-tịch *** ; ông được đào tạo tại Liên-sô, v́ vậy chủ thuyết của ông phảng phất Léninisme, pha thêm Việt-tính do ông tạo rạ Dường như hiện nay trên khắp thế giới, kể cả Liên-bang Sô-viết chỉ Việt-Nam là quốc gia duy nhất c̣n duy tŕ tượng Lénine tại một công viên lớn của Thủ-đô (Hà-nội).

Theo như dự đoán của chúng tôi th́ Trung-quốc, cũng như Việt-Nam cùng nhận thấy thuyết của Karl Marx, Friedrich Engels không c̣n hợp thời, không c̣n ích lợi nữạ Cả hai đang từng bước, từng bước trở lại với chủ đạo của ḿnh. Xin các vị cứ chờ, không lâu đâu cả hai sẽ hoàn toàn trở về với kho tàng quư báu của nước ḿnh!

Tôi thấy Trung-quốc trở lại quá mau, quá mạnh. Con rồng Trung-quốc mà Hoàng-đế Napoléon bảo rằng hăy để nguyên cho nó ngủ. Bằng như nó thức dậy, nó sẽ làm rung chuyển thế giớị Thưa Quư-vị, con rồng Trung-quốc đă thức dậy rồi, nhưng nó chưa làm rung động thế giới!


1.- Chủ đạo của Trung-quốc.
Người Hoa th́ tin rằng ḿnh là con trờị Cho nên trong các sách cổ của họ,ï vua được gọi là Thiên-tử, c̣n các quan th́ luôn là người nhà trời xuống thế pḥ tá cho vuạ Chính niềm tin đó cùng với văn minh Hoa-hạ, văn minh Nho-giáo đă kết thành chủ-đạo của họ.

Cho nên người Hoa dù ở đâu, họ cũng có một tổ chức xă hội riêng, sống với nhau trong niềm kiêu hănh con trờị Cho dù họ lưu vong đến ngh́n năm họ cũng không bị đồng hóa, không quên nguồn gốc.

Cũng chính v́ vậy, mà từ một tộc Hoa nhỏ bé ở lưu vực sông Hoàng-hà, họ đánh chiếm, đồng hóa hàng ngh́n nước xung quanh, và nước của họ rộng lớn như ngày naỵ Hầu hết những nước khác đến cai trị họ, đều bị họ đồng hóạ Mông-cổ, Măn-thanh bị đồng hóa, bị mất hầu hết lănh thổ. Nhưng chủ-đạo và sức mạnh của người Trung-quốc phải ngừng lại ở biên giới Hoa-Việt.
Chủ đạo của Trung-quốc bắt nguồn từ thời nàỏ Từ sách nàỏ Do ai khởi xướng?

Đầu tiên là Kinh-thư, không rơ tác giả là ai, xuất hiện trước Khổng-tử, thiên Vũ-cống gọi thế giới chúng ta ở là Thiên-hạ (Dưới trời). Thời cổ, các văn nhân Trung-quốc không đi xa hơn vùng sông Hán, sông Hoàng-hà, họ tưởng đâu thế giới chỉ có Trung-quốc, nên gọi Trung-quốc là Thiên-hạ. Thiên-hạ là Trung-quốc, tức là nước ở giữạ Bốn phía Trung-quốc là biển, nên gọi Trung-quốc là hải-nội, các nước khác là hải-ngoạị

Kinh-thư thiên Vũ-cống chia Thiên-hạ thành 9 châu: Kư, Duyện, Thanh, Từ, Dương, Kinh, Dự, Lương, Ung. Lại dùng khoảng cách, chia làm năm cơi, gọi là Ngũ-phục, mỗi cơi cách nhau năm trăm dặm (250 km). Ngũ-phục là Điện-phục, Hầu-phục, Tuy-phục, Yêu-phục, Hoang-phục.

Trung-ương là kinh đô của nhà vuạ
Điện-phục ở ngoài kinh đô năm trăm dặm.

Hầu-phục ở ngoài cơi Điện-phục năm trăm dặm: trong năm trăm dặm cơi Hầu th́ khoảng cách một trăm dặm để phong thái ấp cho các quan khanh, đại phụ Hai trăm dặm nữa phong cho các tước Nam. Hai trăm dặm nữa phong cho các chư Hầụ

Kế tiếp Hầu-phục là Tuy-phục. Trong năm trăm dặm cơi Tuy th́ ba trăm dặm là nơi truyền bá văn chương, giáo hóa quần chúng; c̣n hai trăm dặm để hưng thịnh vơ bị, bảo vệ quốc giạ

Sau cơi Tuy là cơi Yêụ Trong ba trăm dặm cơi Yêu là nơi cho rợ phương Đông ở. Hai trăm dặm c̣n lại là nơi để đầy tội nhân.

Cơi cuối cùng là cơi Hoang, năm trăm dặm. Trong ba trăm dặm gần dành cho mọi phương Nam ở, hai trăm dặm cuối cùng để đầy người có tội nặng.
Ra khỏi cơi Hoang là... biển.

Với lối phân chia lẫm cẩm, hài hước ấy, năm ngh́n năm qua, dân Trung-quốc coi là Kinh, tức những ǵ không thể thay đổi, rồi trở thành chủ đạo của tộc Hoạ
Tiếp theo Kinh Thư, sách Tả-truyện, Tả Khâu Minh cũng viết:

Trời làm chủ Thiên-hạ,
Vua nối trời mà cai trị.
Kẻ chịu mệnh trời mà cai trị là Thiên-tử.
Đến Mạnh-tử, thiên Ly-lâu viết:
Thiên hạ là quốc gia,
Gốc của thiên hạ là quốc,
Gốc ở quốc là giạ

V́ ảnh hưởng của sách cổ nên người Hoa mới nảy sinh ra tư tưởng « Nội Hoa hạ, ngoại Di, Địch ». Nghĩa là trong Ngũ-phục th́ là chốn văn minh, c̣n ngoài ra th́ là mọi rợ.

Kinh-lễ, thiên Vương-chế nói:
Đông phương viết Di,
Tây phương viết Nhung,
Nam phương viết Man,
Bắc phương viết Địch.
Nghĩa là:
Người ở Đông phương gọi là Di,
Tây-phương là Nhung,
Nam phương là Man,
Bắc phương là Địch.

Di, Nhung, Man, Địch là những từ để chỉ mọi rợ. Bốn chữ đó khi viết th́ có bộ trùng, bộ thú, bộ khuyển ở cạnh. Có nghĩa các sắc dân đó là cầm thú, côn trùng, chó mèo !

Ngay đối với người Âu, Mỹ hồi thế kỷ thứ 20 về trước, người Hoa gọi là Bạch-quỷ! (Thính giả cười ồ lên!). Họ c̣n phân ra người Âu là Tâyđương Quỷ. Người Mỹ là Mỹ-lan-tây Quỷ. Người Anh là Hồng-mao Quỷ. Người Nga là La-sát Quỷ.

Từ nguồn gốc kinh điển cổ, người Hoa tự cho ḿnh là con trời (Thiên-tử), cho nên hầu hết các tiểu thuyết của họ th́ vua luôn có tướng tinh là con rồng vàng, là Thanh-y đồng tử trên thượng giơí giáng sinh. Các quan vơ th́ luôn là Vũ-khúc tinh quân, các quan văn là Văn-khúc tinh quân. Quần thần th́ là Nhị-thập bát tú giáng hạ. Với chủ đạo này, họ đă đánh chiếm mấy trăm nước tạo thành một Trung-quốc vĩ đạị

2.- Chủ đạo của Việt-Nam.
Như trên đă tŕnh bầy, với nguồn gốc lập quốc, người Việt có niềm tin ḿnh là con của Rồng, cháu của Tiên, cho nên người Việt có một sức bảo vệ quốc gia cực mạnh. Truyền thống sang thế kỷ thứ 2 trước Tây-lịch lại thêm vào tinh thần của vua AnĐương. Sang đầu thế kỷ thứ nhất, nổ ra cuộc khởi nghĩa của một phụ nữ, và 162 anh hùng, trong đó có hơn trăm là nữ.

Cuộc khởi nghĩa đuổi ngoại xâm Trung-hoa, lập lên triều đại Lĩnh-Nam. Phụ nữ đó làø vua Trưng. Nối tiếp mỗi thời đại đều có tinh thần riêng, tạo thành niềm tin vững chắc.

Tộc Việt đă chiến đấu không ngừng để chống lại cuộc Nam tiến liên miên trong hai ngh́n năm của người Hoạ Bất cứ thời nào, người Việt dù bị phân hóa đến đâu, nhưng khi bị ngoại xâm, họ lập tức ngồi lại với nhau để bảo vệ quốc giạ Trong những lớp phế hưng của lịch sử Việt, hễ ai dựa theo chủ đạo tộc Việt, đều thành công trong việc giữ được quyền cai trị dân.

Gần đây nhất, người Việt bị các thế lực Quốc-tế, gây ra cuộc chiến tranh tương tàn khủng khiếp (1945-1975). Nhưng nay, Việt-Nam đang trên đà phục hưng chủ đạọ Ư tôi muốn nói sự cố gắng phi thường của hơn hai triệu người Việt ở ngoài lănh thổ Việt-Nam, đă là bó đước sáng chuyển chủ đạo trở về nước ḿnh.

Trong thời gian 1954-1975, miền Bắc theo chế độ Cộng-sản, theo chủ thuyết Quốc-tế. Nhưng họ biết khai thác cái chủ đạo của Việt-Nam, họ huy động được tinh thần yêu nước của dân tộc, nên cuối cùng họ chiến thắng.

Cũng tiếc thay, những người cầm quyền miền Nam từ 1963-1975, không biết khai thác ḷng yêu nước của dân tộc, lại chấp nhận cho quân đội Hoa-kỳ và đồng minh nhảy vào ṿng chiến, việc này có khác ǵ quỳ gối, trao ngọn cờ chính nghĩa cho miền Bắc? Tôi nghĩ những người lănh đạo miền Nam như ông Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Trần Thiện Khiêm, cho đến giờ này (1992) chưa từng biết ǵ về kho tàng ḷng yêu nước của người Việt, lại cũng chưa từng nghe, từng nói đến chữ chủ đạo tộc Việt bao giờ.

Trước họ, cố Tổng-thống Ngô Đ́nh Diệm (1954-1963), v́ biết rơ chủ đạo tộc Việt. Ngài từ chối không cho Hoa-kỳ đổ quân vào Việt Nam, mà đang là một đồng minh của Hoa-kỳ, Ngài đă trở thành kẻ thù của Hoa-kỳ, bị Hoa-kỳ giết hết sức thảm khốc.

IIỊ ĐI T̀M LẠI NGUỒN GỐC DÂN TỘC VIỆT.
Năm trước đồng nghiệp của tôi đă giảng cho các bạn sinh viên hiện diện các giả thuyết về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, bao gồm:

Thuyết của giáo sư Léonard Aurousseau về cuộc di cư của người Ư-Việt hay Ngô-Việt sang Âu-Lạc.
Thuyết của Claude Madroll về cuộc di cư của người Mân-Việt sang Âu-Lạc.

Thuyết của học giả Đào Duy-Anh, Hồ Hữu-Tường về cuộc di cư do thời tiết của người Việt từ Bắc xuống Nam.
Tất cả các thuyết này đều căn cứ vào những thư tịch cổ Trung-quốc, Việt-Nam. Mà những thư tịch này không có một biện chứng khoa học nào cả.

Cuối cùng các giáo sư đồng nghiệp đă nhận định rằng: Nhờ vào khoa khảo cổ, nhờ vào hệ thống khoa học DNA, từ nay không c̣n những giả thuyết về nguồn gốc tộc Việt nữa, mà chỉ c̣n lại công cuộc nghiên cứu của tôi, rồi kết luận:

« Thoạt kỳ thủy, trên vùng đất thuộc lănh thổ Trung-quốc, Việt-Nam hiện tại: Giống người đă từ châu Phi đến bằng hai đường. Một là đường Nam-á, đến Đông Nam-á, ngược lên vùng Hoa Nam. Hai là từ châu Phi, tới châu Âu, rồi sang Bắc Trung-quốc. Cuối cùng cả hai giống người ḥa lẫn với nhau trên lănh thổ Trung-quốc.

C̣n trong ṿng 5000 năm trước Tây lịch cho đến nay, th́ tộc Việt bao gồm trăm giống Việt sống rải rác từ phía nam sông Trường-giang, Đông tới biển, Tây tới Tứ-xuyên, Nam tới vịnh Thái-lan. Người Việt từ Ngô-Việt di cư xuống phương Nam. Người Mân-Việt đi xuống Giao-chỉ.

Người Việt di cư từ nam sông Trường-giang tránh lạnh xuống Bắc-Việt đều đúng. Đó là những cuộc di cư của tộc Việt trong lănh thổ của họ, như cuộc di cư từ Bắc vào Nam năm 1954 ; chứ không phải họ là người Trung-quốc di cư xuống Nam, lập ra nước Việt. »

Chính v́ lư do dùng hệ thống ADN biện biệt tộc Hoa, tộc Việt, nên tôi được mời đến đây đọc bài diễn văn khai mạc niên khóa nàỵ Sau đây tôi tŕnh bầy sơ lược về công tŕnh nghiên cứu đó. Tôi xin nhắc lại, tôi chỉ là một bác sĩ y-khoa, cho nên những nghiên cứu của tôi đặt trên lư luận thực nghiệm, cùng lư luận y-khoa, nó hơi khác với những ǵ mà các bạn đă học.

(c̣n tiếp)


Sửa lại bởi NhapMon : 07 January 2007 lúc 5:34pm


__________________
NhapMon
Quay trở về đầu Xem NhapMon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi NhapMon
 
nhpv
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 March 2003
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 157
Msg 272 of 585: Đă gửi: 07 January 2007 lúc 8:03pm | Đă lưu IP Trích dẫn nhpv

bác NhapMon post lên phần c̣n lại đi bác. Bài này rất hay. cám ơn bác
Quay trở về đầu Xem nhpv's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nhpv
 
NhapMon
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 273 of 585: Đă gửi: 07 January 2007 lúc 8:31pm | Đă lưu IP Trích dẫn NhapMon

Thử t́m lại biên giới cổ của Việt-Nam:
bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích và hệ thống ADN.


Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ.
Giám đốc Trung-quốc sự vụ, viện Pháp-á


"Nghi làm vua phương Bắc, Tục làm vua phương Nam, lấy núi Ngũ-lĩnh làm cương giớị Hai người làm vua hai nước nhưng vốn cùng gốc ở ta, phải lấy điều hiếu hoà mà ở với nhaụ Tuyệt đối Nam không xâm Bắc, Bắc chẳng chiếm Nam. Kẻ nào trái lời, sẽ bị tuyệt tử, tuyệt tôn."

(Tiếp theo và hết)
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong việc đi t́m nguồn gốc tộc Việt, tôi đă dùng phương pháp y-khoa nhiều nhất, và phương pháp khoa học mới đâỵ Tôi đă được giáo sư Tarentino về khoa Anatomie của Ư và giáo sư sinh vật Vareilla Pascale của Pháp tích cực giúp đỡ. Tôi chỉ muốn chứng minh rằng trong khoảng 5000 trước Tây-lịch, lănh thổ tộc Việt nằm từ phía Nam sông Trường-giang tới vịnh Thái-lan. Phía Tây tới tỉnh Tứ-xuyên Trung-quốc, phía Đông tới biển Nam-hảị Nghĩa là bao gồm toàn bộ Hoa-Nam, và Đôngđương.

1. Dùng biện chứng y-khoa vào khảo cổ.
Biện chứng căn bản của người nghiên cứu y-khoa là:

"Khi có chứng trạng, ắt có nguyên do"

Biện chứng này đă giúp tôi rất nhiều trong khi nghiên cứu về nguồn gốc tộc Việt. Khi nghiên cứu, những tài liệu cổ, dù là huyền thoại, dù là huyền sử, dù là triết học, tôi cũng coi là chất liệu quan trọng. Như tôi đă tŕnh bày, nước tôi có một tôn giáo, mà toàn dân đều theo đó là thờ các anh hùng dân tộc. Tại những đền thờ chư vị anh hùng, thường có một cuốn phổ kể sự tích các ngàị V́ theo thời gian, tiểu sử các ngài bị dân chúng huyền thoại hóa đi, riết rồi thành hoang đường. Cho nên những học giả đi tiên phong, nghiên cứu về sử học Việt thường bỏ quạ Tôi lại suy nghĩ khác:

"Không có nguyên do, sao có chứng trạng?"

V́ vậy tôi đă t́m ra rất nhiều điều lư thú. Tỷ dụ: Bất cứ một nhà nghiên cứu nào, khi khảo về thời vua An Dương cũng cho rằng chuyện thần Kim-quy do vua móng làm nỏ bắn một lúc hàng ngh́n mũi tên khiến Triệu-Đà bị bại là hoang đường, là ma trâu đầu rắn. Nhưng tôi lại tin và cuối cùng tôi t́m ra sự thật. Hồi ấy Cao Cảnh hầu Cao Nỗ đă chế ra nỏ liên châu, như súng liên thanh ngày naỵ Tôi cũng t́m ra kích thước của ba mũi tên đồng của nỏ nàỵ(4)

Trước tôi đă có các nhà khảo cổ căn cứ vào xương sọ t́m được tại Trung và Bắc-phần (70 cái). Trong đó có 38 cái do người Pháp sưu tầm thuộc thời đại Đồ-đá, th́ 29/38 cái được kết luận là thuộc chủng loại Malanésien, Indonésien, Australoide hay Nam-á. Với 29 cái th́ không thể kết luận rằng đó là toàn thể. Gần đây các học giả Việt-Nam lại t́m ra 32 xương sọ, thuộc thời đại Đồ-sắt (1000 năm trước Tây-lịch đến 300 sau Tây-lịch), th́ 22/27 thuộc chủng loại Mongoidẹ Với 32 cái th́ không thể kết luận rằng đó là toàn thể tộc Việt thuộc chủng loại Mongoidẹ

Những tác giả trên đă căn cứ vào chỉ số xương sọ để kết luận. Nhưng y học đă tiến bộ, căn cứ vào chỉ số xương sọ để định nguồn gốc đă bị đánh đổ. Nguyên do: Khi con người di cư đến vùng khác, bị khí hậu, bị nước uống, bị thực phẩm làm thay đổi xương sọ. Chúng tôi dùng hệ thống ADN, hệ thống sinh học mới nhất thử nghiệm ngay những người đang sống của 35 ḍng họ tại Hoa Nam với Việt-Nam, rồi với những ḍng họ khác tại Hoa Bắc. Lại cũng thử nghiệm những bộ xương của ba vùng trên, không phân biệt thời gian. Cuối cùng chúng tôi t́m ra sự khác biệt của những tộc Hoa Nam, Việt Nam với những tộc Hoa Bắc, và đi đến kết luận: lănh thổ Văn-lang, tới hồ Động-đ́nh. (5)

2. Những vấn đề
Ranh giới phía Nam của nước Văn-lang tới nước Hồ-tôn đă quá rơ ràng. Ranh giới phía Tây với Ba-thục, phía Đông với biển lại tùy thuộc vào ranh giới phía Bắc. Nếu như ranh giới phía Bắc qủa tới hồ Động-đ́nh, th́ ranh giới phía Tây chắc phải giáp Ba-thục và phía Đông phải giáp Đông-hảị Có thực như thế không?

V́ vậy tôi đi t́m ranh giới phía Bắc.
Dưới đây là huyền thoại, huyền sử mà tôi đă bấu víu vào để đi nghiên cứụ Tôi cần tra cứu cho ra:

Vấn đề thứ nhất,
Cổ sử Việt đều nói rằng ranh giới phía Bắc tới hồ Động-đ́nh. Có thực như vậy không?
Truyền thuyết nói Đế-Minh lập đàn tế cáo trời đất, rồi chia thiên hạ làm haị Từ Ngũ-lĩnh về Bắc cho Đế-Nghi, sau thành Trung-quốc. Từ Ngũ-lĩnh về Nam truyền cho vua KinhĐương sau thành Văn-lang.
Núi Ngũ-lĩnh, hồ Động-đ́nh nay vẫn c̣n. Nhưng liệu có di tích ǵ chứng minh chăng? Tôi phải đi t́m Ngũ-lĩnh, hồ Động-đ́nh.

Vấn đề thứ nh́,
Truyền thuyết nói: Sau khi vua KinhĐương, vua Lạc-Long kết hôn, đều lên núi Tam-sơn trên hồ Động-đ́nh hưởng thanh phúc ba năm. Lúc ngài lên núi có chín vạn hoa tầm xuân nở. Tôi phải đi t́m núi Tam-sơn ở hồ Động-đ́nh. Liệu trên núi này có di tích ǵ về cuộc t́nh năm ngh́n năm trước chăng?

Vấn đề thứ ba,
Truyền sử nói: Sau khi Quốc-tổ Lạc-Long, Quốc-mẫu Âu-Cơ cho các hoàng tử đi bốn phương qui dân lập ấp, dặn rằng: Mỗi năm về Tương-đài chầu Quốc-tổ, Quốc-mẫu một lần.
Cổ sử nói: Quốc-tổ dẫn năm mươi con xuống biển, Quốc-mẫu dẫn năm mươi con lên núi, hẹn mỗi năm một lần gặp nhau ở cánh đồng Tương.
Cánh đồng Tương ở đâủ Nếu có cánh đồng Tương th́ cũng có thể kết luận rằng biên giới nước Văn-lang tới hồ Động-đ́nh. Tôi phải đi t́m.

Vấn đề thứ tư,
Chứng tích thứ nhất xác định:
Bộ Sử-kư của Tư-mă, Nam-Việt liệt truyện có thuật việc: vua nước Nam-Việt là Triệu-Đà thường đem quân quấy nhiễu biên giới Việt-Hán là Nam-quận, Trường-sa (Mậu-Ngọ 183 trước Tây-lịch).
Như vậy biên giới Nam-Việt (Tức Việt-Nam) với Hán (Tức Trung-quốc) ở vùng nàỵ Ngày nay Trường-sa là thủ phủ của tỉnh Hồ-nam, nằm ngay Nam ngạn sông Trường-giang.

Vấn đề thứ năm,
Huyền sử nói rằng: trong cuộc khởi nghĩa của vua Trưng: Khi Trưng Nhị, Trần Năng, Phật Nguyệt, Lại Thế-Cường, Trần Thiếu-Lan đem quân đánh Trường-sa (39 sauTây-lịch), th́ nữ tướng Trần Thiếu-Lan tử trận, mộ chôn ở ghềnh Thẩm-giang (sự thật đó là Tương-giang thông với hồ Động-đ́nh).

Sau đó ít năm có trận đánh giữa Lĩnh-Nam và Hán (42 sau Tây-lịch). Tướng Lĩnh-Nam tổng trấn hồ Động-đ́nh là Phật Nguyệt, tướng Hán là Mă Viện, Lưu Long (40 sau Tây-lịch).
Có thực thế không? Có hai trận Trường-sa, hồ Động-đ́nh không? Nếu có th́ ranh giới thời Lĩnh-Nam (40-43 sau Tây-lịch) quả tới hồ Động-đ́nh.

Vấn đề thứ sáu,
Năm 42, sau Tây-lịch, ba tướng thống lĩnh Kỵ-binh thời vua Trưng là Đào Chiêu-Hiển, Đào Đô-Thống, Đào Tam-Lang, đánh nhau với quân Hán tại Bồ-lăng thuộc Tượng-quận, v́ quân ít, thế cô, ba ông tự tử. Vậy Bồ-lăng ở đâủ Có trận này không? Nếu có trận này th́ ranh giới Lĩnh-Nam phía Tây quả tới Ba-thục (Tứ-xuyên.)

Thưa Quư-vị,
Nhưng các sử gia gần đây (1900-1975) đều đặt nghi vấn rằng: Làm ǵ biên giới thời Văn-Lang rộng như vậỷ Nếu có chỉ ở vào phía Bắc biên giới Hoa-Việt hiện nay trăm cây số là cùng. Lại cũng có những người dốt nát (1975-1991), không đủ sách đọc, không theo kịp sự tiến triển của y học, họ chỉ đọc những tài liệu sai lầm, rồi họ như con ngựa kéo xe, chỉ biết có vậy, chúng tôi thấy họ ngu dốt quá, nên không trả lời, cũng như giải thích.
Tôi căn cứ vào những chứng trạng trên mà đi t́m nguồn gốc.

V. ĐI T̀M BIÊN GIỚI NƯỚC VĂN- LANG
1. Núi Ngũ-lĩnh
Cuối năm Canh-Thân (1980) tôi lấy máy bay đi Bắc-kinh, rồi đổi máy bay ở Bắc-kinh đi Trường-sạ Trường-sa là thủ phủ của tỉnh Hồ-nam. Tất cả di tích của tộc Việt như hồ Động-đ́nh, núi Tam-sơn, núi Ngũ-lĩnh, sông Tương, Thiên-đài, Tương-đài, cánh đồng Tương đều nằm ở tỉnh nàỵ

Tôi đi nghiên cứu với một thư giới thiệu của giới chức cao cấp y học Pháp-Hoa (CMFC). Có một sự hiểu lầm lớn, v́ trong thư giới thiệu các giới chức y-khoa chỉ xin được giúp đỡ cho tôi, nên khi tôi muốn tiếp xúc với sở du-lịch, ty văn hóa địa phương, họ đều tưởng tôi tới Trường-sa để nghiên cứu sự cấu tạo h́nh thể cùng bệnh tật dân chúng tại đâỵ Thành ra tôi bị mất khá nhiều th́ giờ nghe thuyết tŕnh của các đồng nghiệp về vấn đề nàỵ Tôi cư ngụ trong khách sạn Trường-sa tân điếm nằm trên đại lộ Nhânđân.

Tôi mua cuốn địa phương chí mới nhất của tỉnh, rồi ṃ vào thư viện ty văn hóa, sở bảo vệ cổ-tích, đại-học văn-khoa, lục lọi những tài liệu cổ, mà ngay những sinh viên văn khoa cũng ít ai ghé mắt tớị
Đầu tiên tôi đêi t́m núi Ngũ-lĩnh. Không khó nhọc, tôi thấy ngay đó là năm dăy núi gần như ngăn đôi Nam, Bắc Trung-quốc

Một là Đạiđữu lĩnh.
Hai là Quếđương, Kỳ-điền lĩnh.
Ba là Cửu-chân, Đô-lung lĩnh.
Bốn là Lâm gia, Minh-chữ lĩnh.
Năm là Thủy-an, Việt-thành lĩnh.

Về vị trí:
Ngọn Thủy-an, Việt-thành chạy từ tỉnh Phúc-kiến, đến huyện Tuần-mai tỉnh Quảng-đông.
Ngọn Đạiđữu chạy từ huyện Đạiđữu (Nam-an), tỉnh Giang-Tây đến huyện Nam-hùng tỉnh Quảng-đông.
Ngọn Cửu-chân, Đô-lung chạy từ Đạo-huyện tỉnh Hồ-nam tới Gia- huyện tỉnh Quảng-tâỵ
Ngọn Lâm-gia, Minh-chữ chạy từ Lâm-huyện tỉnh Hồ-Nam đến Liên-huyện tỉnh Quảng-Đông.
Ngọn Quếđương từ Toàn-huyện tỉnh Hồ-nam tới huyện Quế-lâm tỉnh Quảng-tâỵ
Lập tức tôi thuê xe đi một ṿng thăm các núi nàỵ Tôi đi mất mười ngày, trải gần 15.000 cây số.

Như vậy là Ngũ-lĩnh có thật, nay có núi đă đổi tên, có núi vẫn giữ tên cũ. Một câu hỏi đặt ra: Tại sao khi vua Minh phân chia từ Ngũ-lĩnh về Nam thuộc Lộc-Tục mà lĩnh địa Việt tới hồ Động-đ́nh, mà hồ ở phía Bắc núi đến mấy trăm cây số. Tôi giải đoán như thế này:

Một là vua Minh tế trời ở trên núi Ngũ-lĩnh là nơi người gặp tiên rồi chia địa giớị Nhưng bấy giờ dân chưa đông, mà sông Trường-giang rộng mênh mông, sóng lớn quanh năm nên vua Nghi chỉ giữ từ Bắc ngạn mà thôị C̣n vua KinhĐương th́ sinh trưởng ở vùng này, lại nữa lấy con vua Động-đ́nh (một tiểu quốc), nên thừa kế luôn vùng đất của nhạc giạ

Hai là dân chúng Nam-ngạn Trường-giang với vùng Nam Ngũ-lĩnh vốn cùng một khí hậu, phong tục, nên họ theo về Nam không theo về Bắc, thành thử hồ Động-đ́nh mới thuộc lănh địa Việt.

Kết luận:
"Quả có núi Ngũ-lĩnh phân chia Nam, Bắc Trung-quốc hiện thời, vậy có thể núi này đúng là nơi phân chia lănh thổ Văn-Lang và Trung-Quốc khi xưạ"

Ánh sáng đă soi vào nghi vấn huyền thoạị

2. Thiên-đài nơi tế cáo của vua Minh
Tương truyền vua Minh lập đàn tế cáo trời đất trên núi Quếđương, phân chia lănh thổ Lĩnh-Bắc tức Trung-Quốc, Lĩnh-Nam tức Đại-Việt. Đàn tế đó gọi là Thiên-đàị Nhưng dăy núi Quếđương có mấy chục ngọn núi nhỏ không biết ngọn Thiên-đài là ngọn nàỏ Trên bản đồ không ghị Sau tôi hỏi thăm dân chúng th́ họ chỉ cho tôi thấy núi Thiên-đài nằm gần bên bờ Tương-giang. Điều này dễ hiểu, tỷ như ngày nay, du khách nh́n bản đồ sẽ không thấy địa điểm Sài-g̣n. Nhưng trong dân chúng, họ vẫn nhớ tên cũ.

Tôi đi thăm Thiên-đàị
Thiên-đài là ngọn đồi nhỏ, cao 179m, đỉnh tṛn có đường thoai thoải đi lên. Trên đỉnh có ngôi chùa nhỏ, nay để hoang. Tuy chùa được cấp huyện bảo tồn nhưng không có người trụ tŕ. Chùa xây bằng gạch nung, mái lợp ngóị Lâu ngày chùa không được tu bổ, nhiều chỗ ngói bị lở, bị khuyết. Tường mất hết vữa, gạch bị ṃn nhiều chỗ gần như lún sâụ Duy nền với cổng bằng đá là c̣n nguyên, tuy nhiều chỗ đá bị bong rạ Bên trong cột kèo bằng gỗ đă nứt nẻ khá nhiềụ Những câu đối, chữ c̣n, chữ mất.

Tại thư viện Hồ-nam tôi t́m được một tài liệu rất cũ, giấy hoen ố, nhưng chữ viết như phượng múa rồng bay, gồm 60 trang. Đầu đề ghi:

Thiên-đài di sự lục
Trinh-quán tiến sĩ Chu Minh-Văn soạn.
Trinh-quán là niên hiệu của vua Đường Thái-Tông, từ năm Đinh-Hợi (627) đến Đinh-Mùi (647) nhưng không biết Chu đỗ tiến-sĩ năm nàỏ

Tuy sách do Chu Minh-Văn soạn, nhưng dường như bản nguyên thủy không c̣n. Bản này do người sau sao chép lại vào đời Thanh Khang-Hỵ Nội dung sách có ba phần. Phần của Chu Minh-Văn sọan, phần chép tiếp theo Chu Minh-Văn, của một sư ni tên Đàm-Chi, không rơ chép vào bao giờ.

Phần thứ ba chép pháp danh các vị trụ tŕ từ khi lập chùa tới thời Khang-Hy (1662-1772). Chu Minh-Văn là tiến sĩ đời Đường, nên văn của ông thuộc loaị văn cổ rất súc tích, đầy những điển cố cùng thành ngữ lấy trong Tứ-thư, Ngũ-kinh cùng kinh Phật. Nhân viên quản thủ thư viện thấy tôi đọc dễ dàng, chỉ lướt qua là hiểu ngay, ông ta ngạc nhiên khâm phục vô cùng. Nhưng nếu ông ấy biết rằng, tôi chỉ được học loại văn đó vào hồi sáu, bảy tuổi th́ ông sẽ hết phục. Tài liệu Chu Minh-Văn cũng nhắc lại việc vua Minh đi tuần thú phương Nam, kết hôn với nàng tiên sinh ra Lộc-Tục. Vua lập đàn tại núi này để tế cáo trời đất, v́ vậy đài cũng mang tên Thiên-đài núi cũng mang tên Thiên-đài sơn, Minh-Văn c̣n kể thêm:

"Cổ thời trên đỉnh núi chỉ có Thiên-đài thờ vua Đế Minh, vua Kinh-Đương. Đến thời Đông-Hán, một tướng của vua Bà tên Đào Hiển-Hiệu được lệnh rút khỏi Trường-sạ Khi rút tới Quếđương ông cùng ngh́n quân lên Thiên-đài lễ, nghe người giữơ đền kể sự tích xưạ Ông cùng quân sĩ nhất định tử chiến, khiến Lưu Long thiệt mấy vạn người mới chiếm đươc núị Về đời Đường để xóa vết tích Việt-Hoa cùng Nam Bắc, các quan được sai sang đô hộ Lĩnh-Nam mới cho xây chùa tại đâỵ"

Tôi biết vua Bà là vua Trưng, c̣n tướng Đào Hiển-Hiệu là em con chú của Bắc-b́nh vương Đào Kỳ. Ngài Đào Kỳ lĩnh chức Đại Tư-mă thời vua Trưng. C̣n tướng Đào Hiển-Hiệu tước phong quốc công, giữ chức Hổ-nha đại tướng quân. Nữ tướng Hoàng Thiều-Hoa chỉ huy trận rút lui khỏi Trường-sa, hồ Động-đ́nh, đă sai Hiển-Hiệu đi cản hậu, đóng nút chặn ở Thiên-đài, đợi quân Lĩnh-Nam rút hết, sẽ rút saụ Nhưng Hiển-Hiệu cùng chư quân lên núi thấy di tích thời Quốc-tổ, Quốc-mẫu, đă không chịu lui quân, tử chiến, khiến quân Hán chết không biết bao nhiêu mà kể tại đâỵ

Ngoài cổng chùa có hai đôi câu đối:
Thoát thân Nam thành xưng sư tổ,
Thọ pháp Tây-thiên diễn Phật- kinh.
Hai câu này ngụ ư ca tụng Thái-tử Tất-Đạt-Đa đang đêm ra khỏi thành đi t́m lẽ giải thoát sau đó đắc pháp ở Tây-thiên, đi giảng kinh.
Tam bảo linh ứng, phong điều vũ thuận,
Phật công hiển hách quốc thái an dân.

Hai câu này là ngụ ư nói: Tam bảo linh thiêng, khiến cho mưa thuận, gió ḥa đó là công lao của nhà Phật khiến quốc thái dân an.

Nơi có dấu vết Thiên-đài, c̣n đôi câu đối khắc vào đá:

Thiên-đài đại đại phân Nam, Bắc.
Lĩnh địa niên niên dữ Việt-thường.

Nghĩa là: Từ sau vụ vua Minh tế cáo ở đây, đài thành Thiên-đài, biết bao đời phân ra Nam, Bắc. Núi Ngũ-lĩnh năm này qua năm khác với gịng giống Việt-thường.
Chỗ miếu thờ của Đào Hiển-Hiệu có đôi câu đối:

Nhất kiếm Nam-hồ kinh Vũ-đế,
Thiên đao Bắc-lĩnh trấn Lưu Long.

Nghĩa là: Một kiếm đánh trận ở phía Nam hồ Động-đ́nh làm kinh tâm vua Quang-Vũ nhà Hán. Ư chỉ nữ tướng Phật-Nguyệt đánh bại Mă Viện ở phía Nam hồ Động-đ́nh. Một ngh́n tay đao do Hiển-Hiệu thủ ở Bắc núi Ngũ-lĩnh trấn Lưu Long.

Kết luận:
"Như vậy việc vua Minh tế cáo trời đất là có thật. V́ có Thiên-đài nên thời Lĩnh-Nam mới có trận hồ Động-đ́nh. Hai sự kiện đó chứng tỏ lănh địa thời vua Trưng cũng như Văn-Lang xưa qủa tới Ngũ-lĩnh, hồ Động-đ́nh."


3. Cánh đồng Tương
Nhắc lại: Có hai huyền sử nói về cánh đồng Tương:
Một là Quốc-tổ dẫn năm mươi con xuống biển, Quốc-mẫu dẫn năm mươi con lên núi, mỗi năm tái hội nhau trên cánh đồng Tương một lần.
Hai là Quốc-tổ, Quốc-mẫu truyền các hoàng tử đi khắp bốn phương quy dân lập ấp, mỗi năm hội tại cánh đồng Tương một lần.

Tôi đoán:
Cả hai vị Quốc-tổ KinhĐương, Lạc-Long sau khi kết hôn đều đem Quốc-mẫu lên núi Tam-sơn trên hồ Động-đ́nh hưởng thanh phúc ba năm. Vậy th́ cánh đồng Tương sẽ gần đâu đó trên hồ Động-đ́nh.
Phía Nam hồ Động-đ́nh là sông Tương-giang, chảy theo hướng Nam-Bắc dài 811 km, lưu vực tới 92500km2, chẻ đôi tỉnh Hồ-nam với Quảng-tâỵ Vậy cánh đồng Tương sẽ nằm trong lưu vực Tương giang.

Tôi thuê thuyền đi từ cảng Dương-lâm nơi xuất phát ra Tương-giang là hồ Động-đ́nh, xuống Nam, qua Tương-âm, tôi dừng lại, nghiên cứu địa thế cùng thăm chùa Bạch-mă. Đây là địa phận quận Íchđương.Vô t́nh tôi t́m ra một nhánh sông Âu-giang và một cái hồ rất lớn, vào mùa nước lớn rộng tới 4-5 mẫu, vào mùa nước cạn chỉ c̣n 2-3 mẫu mà thôị Suốt lộ tŕnh từ hồ Động-đ́nh trở xuống, trên cửa sông Tương cũng như hai bên bờ chim Âu bay lượn khắp nơị Đặc biệt trên Âu-giang, Âu-hồ, giống chim này càng nhiều vô kể. Từ Âu-giang, tôi trở lại sông Tương, xuôi tới Trường-sa thủ phủ của Hồ-nam rồi tới các quận lỵ Tương-đàm, Chu-châu, Hànhđương, Quếđương.
Không khó nhọc tôi t́m ra:

"Cánh đồng Tương, tức là vùng trũng phía Tây-ngạn, giới hạn phía Bắc là hồ Động-đ́nh, Nguyên-giang. Phía Nam là Linh-lăng, Hành-giang. Phía Tây là vùng Chiêuđương, Lănh-thủỵ Nhưng nay cánh đồng Tương chỉ c̣n khu vực tứ giác: Tương-giang, Nguyên-giang, Liên-thủy, Thạch-khê-thủy"

Sau khi t́m ra cánh đồng Tương, Thiên-đài, cùng những đàn chim âu, tôi giải đoán như thế này:

« Quốc-tổ Lạc Long kết hôn với công chúa con Đế-Lai, hẳn công chúa cũng có tên. Nhưng v́ lâu ngày người ta không nhớ được tên ngài, nên đă lấy con chim Âu, rất hiền ḥa, xinh đẹp ở vùng hồ Động-đ́nh, Tương-giang mà gọi là Âu-Cơ (Cơ là vợ vua). V́ người ta gọi Quốc-mẫu là Âu-Cơ, th́ họ nghĩ ngay đến Quốc-mẫu sinh đẻ. Khi chim Âu đẻ th́ phải đẻ ra trứng. C̣n con số một trăm, là con số triết học Việt-Hoa dùng để chỉ tất cả. Như trăm bệnh là tất cả các bệnh, trăm họ là toàn dân. Trăm con có nghĩa là tất cả dân ttrong nước đều là con Quốc-mẫu »

Kết luận:
« Đă có cánh đồng Tương, th́ chuyện Quốc-tổ, Quốc-mẫu hẹn mỗi năm hội tại đây một lần là có. Khi sự kiện có núi Ngũ-lĩnh, có Thiên-đàị Nay chứng cớ được kiểm điểm, th́ lănh địa của tộc Việt xưa quả tới hồ Động-đ́nh ».


4. Hồ Động-đ́nh và Tam-sơn
Hồ Động-đ́nh nằm ở phía Nam sông Trường-giang. Hồ được coi như nơi phát tích ra tộc Việt. Địa khu Bắc sông Trường-giang được gọi là tỉnh Hồ-bắc, tức đất Kinh-châu thuở xưạ Địa khu phía Nam sông Trường-giang được gọi là tỉnh Hồ-nam. Hồ Động-đ́nh nằm trong tỉnh Hồ-nam. Hồ thông với sông Trường-giang bằng hai con sông. Cho nên người ta coi hồ như nơi chứa nước sông Trường-giang, rồi đổ vào Tương-giang. Trên Bắc-ngạn hồ có núi Tam-sơn. Tôi đă lên đây ba lần.

Tương truyền các các nữ tướng thời vua Trưng như Trưng-Nhị, Trần Năng, Hồ Đề, Phật Nguyệt, Trần Thiếu-Lan đánh chiếm Trường-sa vào ngày đầu năm, v́ vậy tôi cũng tới đây vào dịp này để thấy rơ phong cảnh, rồi tả trận đánh trong bộ Cẩm-khêđi-hận (6). Hồ rộng 3915 cây số vuông, độ sâu về mùa cạn là 38,5 mét, về mùa nước lớn là 39,20 mét. Tra trong chính sử th́ quả hồ Động-đ́nh thuộc lănh địa Văn-Lang. Như trên đă nói, triều đại Thần-Nông Bắc đến đời vua Du-Vơng th́ mất vào năm 2696 trước Tây-lịch, chuyển sang thời đại Hoàng-Đế. Sử gia Trung-Quốc cho rằng Hoàng-Đế là tổ lập quốc.

Nói theo triết học Tây phương th́ vua Du-Vơng gốc từ Thần-Nông thuộc nông nghiệp cư trú trong vùng đồng bằng ở phương Nam lấy hỏa làm biểu hiệu nên c̣n gọi là Viêm-đế. C̣n vua Hoàng-đế gốc ở dân du mục, săn bắn, từ phương Bắc xuống. Dân du mục nghèo, nhưng giỏi chinh chiến. Dân nông nhiệp giàu nhưng không giỏi vơ bị nên bị thuạ Bộ Sử-kư của Tư-mă-Thiên, quyển 1, Ngũ-đế bản kỷ chép rằng:

«...Thời vua Hoàng-đế, họ Thần-Nông (Bắc) đă suy, chư hầu chém giết lẫn nhau, khiến trăm họ khốn khổ vô cùng. Triều Thần-Nông không đủ khả năng chinh phục. Vua Hiên-Viên Hoàng-Đế thao luyện can qua, chinh phục những chư hầu hung ác. V́ vậy các nơi theo về rất đông. Trong các chư hầu th́ Suy-Vưu mạnh nhất.

Vua Du-Vơng triều Thần-Nông định đem quân xâm lăng chư hầu, nhưng chư hầu chỉ tuân lệnh Hoàng-Đế. Vua Hoàng-Đế tu sửa đức độ, luyện tập binh mă, vỗ về trăm họ, giúp đỡ bốn phương, luyện tập thú dữ rồi đại chiến với vua Du-Vơng ở Bản-tuyền, thành công.

Suy-Vưu làm lọan, không tuân đế hiệụ Hoàng-Đế triệu tập chư hầu cùng Suy-Vưu đại chiến ở Trác-lộc, bắt sống Suy Vưụ Chư hầu tôn ngài làm Thiên-tử thay họ Thần-Nông. Trong thiên hạ nơi nào không thuận vua Hoàng-Đế đem quân chinh phục.

Lănh thổ của Hoàng-Đế, Đông tới biển, vùng núi Hoàn-sơn, Đại-tông. Phía Tây tới núi Không-động, Kê-đầụ Nam tới Giang, Hùng, Tương... »(7)
Sông Giang đây tức là sông Trường-giang, Hùng đây tức là Hùng-nhĩ-sơn, Tương là Tương-sơn. Bùi Nhân đời Tống lập giải Sử-kư nói rằng Tương-sơn thuộc Trường-sạ

Kết luận:
"Từ chính sử, huyền-sử đều cho biết lĩnh địa Văn-lang tới hồ Động-đ́nh. Khi vua Hoàng-Đế dứt triều Thần-Nông Bắc, th́ triều Thần-Nông Nam tức họ Hồng-bàng c̣n kéo dài đến 2439 năm nữạ Lănh thổ Trung-quốc thời Hoàng-Đế cũng chỉ tới sông Trường-giang. Phía Nam bao gồm Trường-sa, hồ Động-đ́nh vẫn thuộc Văn-lang."


Khi chính sử ghi chép như vậy th́ việc Quốc-tổ, Quốc-mẫu với hồ Động-đ́nh, núi Tam-sơn không c̣n là huyền thoại nữạ Vậy chuyện các ngài lên núi hưởng thanh phúc nên ghi vào chính sử.

5. Biên giới lĩnh địa tộc Việt thế kỷ 2 trước Tây lịch
Sử Hán là bộ Sử-kư của Tư-mă Thiên. Sử Việt như bộ Đại-Việt sử kư toàn thư, Khâm-định Việt-sử thông giám cương mục, đều ghi rằng vào thế kỷ thứ nh́ trước Tây-lịch, thời Triệu Đà cai trị lĩnh địa tộc Việt, biên giới vẫn c̣n ở vùng Trường-sa, hồ Động-đ́nh.

Sử Hán, sử Việt đều chép chi tiết giống nhau về vụ Triệu Đà lập quốc ở lănh thổ Lĩnh-Nam. Tần Thủy- Hoàng sai Đồ Thư mang quân sang đánh Âu-lạc, chiếm được vùng đất phía Bắc, lập làm ba quận:

Nam-hải (Quảng-đông và một phần Phúc-kiến),
Quế-lâm (Quảng-tây, Hồ-nam và một phần Quí châu),
Tượng-quận (Vân-nam và một phần Quư-châu).

Vua AnĐương sai Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung và Cao-cảnh hầu Cao Nỗ đem quân chống, giết được Đồ Thư và tiêu diệt nữa triệu quân Tần. Tuy vậy vua AnĐương cũng không chiếm lại vùng đất đă mất.

Sau nhân thời thế loạn lạc, một viên quan Tần là Triệu Đà trấn vùng Nam-hải, đem quân chiếm vùng Tượng-quận, Quế-lâm, rồi dùng gián điệp trong vụ án Mỵ-Châu, Trọng-Thủy mà chiếm được Âu-lạc lập ra nước Nam-Việt. Lănh thổ nước Nam-Việt bao gồm những vùng nào ? Không một sử gia nào chép rơ ràng. Nhưng cứ những sự kiện lẻ tẻ, ta cũng có thể biết rằng lănh địa Nam-Việt là lănh địa thời Văn-lang.

Trong khi Triệu Đà lập nghiệp ở phương Nam, th́ cuộc nội chiến ở phương Bắc chấm dứt. Hạng Vũ, Lưu Bang diệt Tần, rồi Lưu Bang thắng Hạng Vũ lập ra nhà Hán. Lưu Bang lên ngôi vua sai Lục Giả sang phong chức tước cho Triệu Đà. Đúng ra Triệu Đà cũng không chịu thần phục nhà Hán, nhưng họ hàng thân thuộc, mồ mả của Triệu Đà đều ở vùng Chân-định. Đà sợ nhà Hán tru diệt họ hàng, cùng đào mồ cuốc mả tổ tiên lên mà phải lùi bước.
Năm 183 trước Tây-lịch, Cao-tổ nhà hán là Lưu Bang chết, Lă-hậu chuyên quuyền cấm bán hạt giống, thú vật cái, kim khí sang Nam-Việt. Triệu Đà không thần phục nhà Hán, rồi đem quân đánh Trường-sa, Nam-quận.

Kết luận:
"Trường-sa là quận biên cương của Hán. Vậy ít nhất lănh thổ Nam-Việt, Bắc tới Trường-sạ Nam quận là quận ở phía Bắc sông Trường-giang. Mà Nam-quận là quận biên cương Hán, th́ biên giới Nam-Việt ít nhất tới Nam-ngạn sông Trường-giang"


6. Lĩnh địa thời vua Trưng
6.1. Vua Bà của Trung-quốc là vua Trưng
Trong những năm 1978-1979 khi dẫn phái đoàn Ủy-ban y học Pháp-Hoa (CMFC) đi trao đổi tại các tỉnh cực Nam Trung-Quốc như Quảng-đông, Quảng-tây, Vân-nam, Quư-châu và Tứ-xuyên... tôi thấy khắp các tỉnh này, không ít th́ nhiều đều có đạo thờ vua Bà. Nhưng tôi không t́m được tiểu sử vua Bà ra saọ Ngay những cán bộ Trung-quốc ở địa phương, họ luôn đề cao vua Bà, mà họ cũng chỉ biết lờ mờ vua Bà là người nổi lên chống tham quan. Khắp năm tỉnh, tôi ghi chú được hơn trăm đền, miếu thờ những tướng lĩnh thời vua Bà.

Bấy giờ tôi lại t́m thấy ở Hồ-nam, nhiều di tích về đạo thờ vua Bà hơn. Tại thư viện bảo tồn di tích cổ , tôi t́m thấy một cuốn phổ rất cổ, soạn vào thế kỷ thứ tám chép sự tích nữ vương Phật Nguyệt như sau:

« Ngày xưa, Ngọc-hoàng Thượng-đế ngự trên điện Linh-tiêu, có hai công chúa đứng hầụV́ sơ ư hai công chúa đánh vỡ chén ngọc. Ngọc-hoàng Thượng-đế nổi giận đầy hai công chúa xuống hạ giớị Hai công chúa đi đầu thai được mấy ngày th́ Tiên-lại giữ sổ tiên-giới tâu rằng có 162 tiên đầu thai xuống theo hai công chúạ Ngọc-hoàng Thượng-đế sợ công chúa làm loạn ở hạ giới, ngài mới truyền Thanh-y đồng tử đầu thai để theo dẹp loạn. Thanh-y đồng tử sợ địch không lại hai công chúa, có ư ngần ngừ không dám đị Ngọc-hoàng Thượng-đế truyền Nhị thập bát tú đầu thai theọ

Thanh-y đồng tử sau là vua Quang Vũ nhà Hán. Nhị thập bát tú đầu thai thành hai mươi tám vị văn thần vơ tướng đời Đông-Hán.

C̣n hai công chúa đầu thai xuống quận Giao-chỉ, vào nhà họ Trưng. Chị là Trắc, em là Nhị. Lúc Trưng Trắc sinh ra có hương thơm đầy nhà, thông minh quán chúng, có sức mạnh bạt sơn cử đỉnh, được gả cho Đặng Thi-Sách.

Thi-Sách làm phản, bị Thái-thú Tô Định giết chết. Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa, được 162 anh hùng các nơi nổi lên giúp sức, nên chỉ trong một tháng chiếm hết sáu quận của Trung-quốc ở phía Nam sông Trường-giang: Cửu-chân, Nhật-nam, Giao-chỉ, Quế-lâm, Tượng-quận, Nam-hảị Chư tướng tôn Trưng Trắc lên làm vua, thường gọi là vua Bà.

Quang-Vũ nhà Hán sai Phục-ba tướng quân Tân-tức hầu Mă Viện. Long-nhương tướng quân Thận-hầu Lưu Long đem quân dẹp giặc. Vua Bà sai nữ tướng Phật Nguyệt tổng trấn hồ Động-đ́nh. Mă Viện, Lưu Long bị bạịVua Quang Vũ truyền Nhị thập bát tú nghênh chiến, cũng bị bạị Nữ vương Phật Nguyệt phép tắc vô cùng, một tay nhổ núi Nga-mi, một tay nhổ núi Thái-sơn, đánh quân Hán chết, xác lấp sông Trường-giang, hồ Động-đ́nh, oán khí bốc lên tới trờị

Ngọc-hoàng Thượng-đế sai thiên-binh, thiên-tướng trợ chiến cũng bị bạị Ngài phải sai thần Du Liệt sang Tây phương cầu cứu Phật Như Laị Đức Phật sai mười tám vị Kim-cương, ba ngàn La-hán trợ chiến cũng bị bạị Cuối cùng ngài truyền Quán Thế Âm bồ tát tham chiến. Nữ vương Phật-Nguyệt với Quan-Âm đấu phép ba ngày ba đêm, bất phân thắng bạị Sau Quán Thế Âm thuyết pháp nữ vương Phật Nguyệt giác ngộ, bỏ đi tụ
Ta nhân ngày lành, viết lại chuyện xưa, xin dâng đôi câu đối:

Tích trù Động-đ́nh uy trấn Hán,
Phương lưu thanh sử lực phù Trưng

(Một trận Động-đ́nh uy trấn Hán
Tên c̣n trong sử sức phù Trưng).

Bỏ ra ngoài những huyền hoặc về Nữ-vương Phật-Nguyệt, tài liệu chứng minh: Đạo thờ vua Bà tại năm tỉnh Nam Trung-quốc là di tích của ḷng tôn kính thờ anh hùng dân tộc của tộc Việt trên lănh thổ cũ của người Việt c̣n sót lạị Vua Bà mà người Trung-hoa thờ như một thứ tôn giáo, chính là vua Trưng.

Kết luận:
"Khi đă có nữ tướng Phật Nguyệt đánh trận Trường-sa, hồ Động-đ́nh. Mà có trận hồ Động-đ́nh th́ lănh thổ thời Lĩnh-Nam, phía Bắc quả tới phía Nam sông Trường-giang."


6.2. Quả có trận Trường-sa, hồ Động-đ́nh năm 39 sau Tây-lịch
Huyền sử (những cuốn phổ) nói rằng: Khi bà Trưng Nhị cùng các tướng Trần Năng, Phật Nguyệt, Trần Thiếu-Lan, Lại Thế-Cường đánh Trường-sa vào đầu năm Kỷ-Hợi (39 sau Tây-lịch). Trong trận đánh này, nữ tướng Trần Thiếu-Lan tử trận, được mai táng ở ghềnh sông Thẩm-giang (8). Thẩm-giang chính là đọan sông ngắn ở Bắc, tiếp nối với hồ Động-đ́nh. Một cuốn phổ khác, chép vào thời Nguyễn nói rằng: Các sứ thần triều Lư, Trần, Lê khi qua đây đều có sắm lễ vật đến cúng miếu thờ bà Trần Thiếu-Lan. Năm 1980 tôi đến đây t́m hiểụ Không khó nhọc tôi t́m ra trong cuốn địa phương chí, do sở du lịch Trường-sa cấp, một đoạn chép:

« Miếu thờ liệt nữ Trần Thiếu-Lan ở đầu sông Tương. Hồi cách mạng văn hóa bị phá hủỵ Tượng đồng bị nấu rạ Vệ binh đỏ phá luôn cả bia đá ».
Tôi t́m tới nơi, th́ miếu chỉ c̣n lại cái nền bằng đá ong, mộ vẫn c̣n.(9)

Kết luận:
"Thời Lĩnh-Nam quả có việc Trưng Nhị, Trần Năng, Hồ Đề, Trần Thiếu-Lan, Lại Thế-Cường đánh trận Trường-sạ Trong trận, nữ tướng Trần Thiếu-Lan tuẫn quốc. Khi có trận đánh này, th́ lănh địa thời Lĩnh-Nam quả gồm có hồ Trường-sa, hồ Động-đ́nh."


6.3. Quả có trận Bồ-lăng, năm 42 sau Tây-lịch
Huyền sử kể rằng: ba tướng họ Đào là Chiêu-Hiển, Đô Thống và Tam-Lang được vua Trưng trao cho trấn tại Tượng-quận (Vân-nam) . Nhưng v́ quân ít, thế cô, ba ông không chống lại với quân Hán, do Vương Bá chỉ huỵ Ba ông đă tự tận. Hiện tại đền thờ của ba ông có đôi câu đối:

Tượng-quận dương uy nhiêu tướng lược,
Bồ-lăng tuẫn tiết tận thần trung.

Nghĩa là:
Trận Tượng-quận dương oai, rơ tài tướng giỏị
Bến Bồ-lăng tuẫn tiết, tỏ ra thần trung.
Hầu hết các sử gia đều cho rằng: Bồ-lăng tức là bến Bồ-đề, ngoại ô Thăng-long. Vả lănh thổ Việt-Nam hồi đó đâu có rộng vậỷ

Tôi không tin lư luận nàỵ Tôi quyết có trận Tượng-quận. V́ saỏ V́ ba ngài chiến đấu tại Tượng-quận, khi Tượng-quận thất thủ, tuẫn tiết th́ tuẫn tiết tại chỗ, có đâu rút từ Tượng-quận về tới Long-biên (Hà-nội) trải mấy ngh́n cây số, rồi mới tự tử? Vả cái tên bến Bồ-đề mới xuất hiện vào năm 1427-1428 khi vua Lê Thái-tổ vây Đông-đô (Thăng-long).

V́ vậy, trong dịp hè năm 1982, tôi cầm đầu phái đoàn CMFC sang Vân-Nam, Trung-quốc, để nghiên cứu về một giống trà có khả năng trị tuyệt chứng Cholestérol, Triglycéride... Lợi dụng dịp nhầy, tôi quyết t́m cho ra sự thực.
Thế là phái đoàn dùng tầu đi từ Độ-khẩu theo Kim-sa-giang (Trường-giang) qua Nam-khê, Giang-tân, Trùng-khánh, tới ngă ba sông Ô-giang, Trường-giang th́ gặp bến Bồ-lăng.

Tại đây tôi được sở du-lịch chỉ cho xem miếu thờ ba vị thần, tướng của vua Bà. Nhưng họ không biết tên vua Bà cùng ba vị tướng. Cả vùng này có đạo thờ vua Bà (lên đồng). Hồi trước 1949 rất thịnh. Sau cách mạng Văn-hóa (1965-1967) miếu được cấp cho dân chúng ở. Hỏi hướng dẫn viên du lịch về vua Bà, họ chỉ cho biết vua Bà là người nổi lên chống tham quan thời Hán. Tôi đến thăm miếụ Miếu khá lớn, chủ hộ ở trong miếu trước đây là cán bộ Văn-hóa Bồ-lăng.

Trước miếu có nhiều câu đối, nay chỉ c̣n lại có bạ Ông chủ hộ khoe rằng để bảo tồn di tích văn hóa, hằng năm ông phải mua sơn tô chữ cho khỏi mất:

Khẳng khái, phù Trưng, thời bất lợi,
Đoạn trường, trục Định, tiết... can vân.

Nghĩa là:
Khẳng khái phù vua Trưng, ngặt thời của Ngài không lâụ
Đuổi được Tô Định, nhưng đau ḷng thay, phải tự tận, khí tiết ngút từng mâỵ

Tôi xin vào trong miếu xem, th́ bệ thờ nay là nơi vợ chồng ông nằm ngủ. Hai bên bệ cũng có đôi câu đốị

Giang-thượng tam anh phù nữ chúa,
Bồ-lăng bách tộc khốc thần trung.

Nghĩa là:
Trên sông Trường-giang, ba vị anh hùng pḥ tá nữ chúạ
Tại bến Bồ-lăng, trăm họ khóc cho các vị thần trung thành.

Ông chủ hộ th́ cho rằng bách tộc là toàn dân Trung-quốc. Tôi giảng cho ông nghe về sự tích trăm con của Quốc-tổ, Quốc-mẫụ V́ vậy chữ bách tộc đây để chỉ người Việt. Ông thích lắm. Ông chỉ vào khoảng trống của hai cái cột thuật rằng trước kia cũng có đôi câu đối, nhưng bị vạc mất. Ông đề nghị tôi làm một đôi khác thay thế. Tôi nhờ hướng dẫn viên du lịch mua giùm hai hộp sơn. Một hộp sơn đỏ loại láng và một hộp loại thiếp vàng. Ông với tôi sơn cột mầu đỏ. Chiều hôm đó sơn đỏ khô, tôi trở lại viết bằng sơn thiếp vàng đôi câu đối có sẵn tại đền thờ ba ngài ở thôn Ngọc-động, huyện Gia-lâm, Hà-nội:

Tái Bắc tức chinh trần, công cao trục Định,
Bồ-lăng dương nộ lăng, nghĩa trọng phù Trưng.

Nghĩa là:
Ải Bắc yêu gió bụi can qua, công cao đuổi Tô Định.
Bồ-lăng nổi bao đào, nghĩa nặng phù vua Trưng.

Kết luận:
Như vậy th́ quả có trận Tượng-quận. Mà có trận Tượng-quận th́ biên giới Lĩnh-Nam hồi ấy giáp Ba-Thục, tức Tứ-xuyên ngày naỵ


7. Nghiên cứu những khai quật
Vào những năm 1964-1965, giáo sư luật khoa Vũ Văn Mẫu đang sọan thảo tài liệu về cổ luật Việt-Nam. Người giúp giáo sư Mẫu đọc sách cổ là Hoàng-triều tiến-sĩ Nguyễn Sỹ-Giác. Cụ Giác tuy thông kinh điển, thư tịch cổ, nhưng lại không biết ngoại ngữ, cùng phương pháp phân tích, tổng hợp Tây-phương. Cụ giới thiệu tôi với giáo sư Mẫụ Tôi đă giúp giáo sư Mẫu đọc, soạn các thư tịch liên quan đến cổ luật.

Chính v́ vậy tập tài liệu « Cổ-luật Việt Nam và tư pháp sử » có chương mở đầu «Liên hệ giữa nguồn gốc dân tộc và Cổ luật Việt-Nam » (10). Bấy giờ tôi c̣n trẻ, không đủ tài liệu khai quật của Trung-Quốc, của Bắc Việt-Nam, và bấy giờ những lư thuyết về ADN chưa có hệ thống, nên có nhiều chi tiết sai lầm. Hôm nay đây, tôi xin lỗi anh linh Hoàng-triều tiến-sĩ Nguyễn Sỹ-Giác, anh linh giáo sư Vũ Văn-Mẫụ Tôi xin lỗi các vị đồng nghiệp hiện diện, xin lỗi các sinh-viên về những sai lầm đó.

Triều đại Hồng-Bàng thành lập từ năm 2879 năm trước Tây-lịch, tương đương với thời đại đồ đá mài (le néolithique), tức cuối thời đại văn-hóa Bắc-sơn (11). Trong những khai quật về thời đại này tại Bắc-Việt, Đông Vân-Nam, Quảng-Đông, Hồ-Nam, người ta đều t́m được những chiếc ŕu thiết diện h́nh trái soan, trong khi tại Nhật, Bắc Trường-giang chỉ t́m được lọai ŕu thiết diện h́nh chữ nhật, chứng tỏ vào thời đó có một thứ văn hóa tộc Việt giống nhaụ

Sang thời đại văn-hóa Đông-sơn (12) hay đồ đồng (âge de bronze). Trong thời gian này đă t́m được trống đồng Đông-sơn trên bờ sông Mă (Thanh hóa). Sự thật trống đồng đă t́m thấy ở toàn bộ các tỉnh Nam Trường-giang như Hồ-nam, Quư-châu,Vân-nam, Quảng-đông, Quảng-tây, Namđương, Lào (13), Bắc và Trung-Việt. Nhưng ở Namđương, Lào rất ít. Nhiều nhất ở Bắc-Việt, rồi tới Vân-nam, Lưỡng-quảng. Phân tích thành phần gần như giống nhaụ

Đồng 53%,
Thíếc 15-16%,
Ch́ 17-19%,
Sắt 4%.
Một ít vàng bạc.

Khảo về y-phục, mồ mả, răng xương trong các ngôi mộ, qua các thời đại cho đến hết thế kỷ thứ nhất sau Tây-lịch, tôi thấy trong các vùng Nam Trường giang cho đến Trung Bắc-Việt, cùng Lào, Thái đều giống nhaụ Bây giờ dùng hệ thống ADN kiểm những bộ xương, kiểm máu người sống, chúng tôi đă biện biệt được sự khác biệt vào thời Việt, Hoa lập quốc.

Kết luận,
"Tộc Việt quả có lĩnh địa Bắc tới hồ Động-đ́nh, Tây tới Tứ-xuyên như cổ sử nói"


8. Tổng kết
Sáu vấn đề tôi nêu ra ở trên, rồi đi t́m, tất cả đều c̣n đầy đủ di tích.

Như vậy: Biên giới cổ của nước Việt-Nam, với các triều đại Hồng-bàng, Âu-lạc, Lĩnh-Nam phía Bắc quả tới hồ Động-đ́nh, phía Tây giáp Tứ-xuyên.

V. KẾT LUẬN
Thưa Quư-vị
Quư-vị đă cùng tôi đi vào những chi tiết từ huyền thoại, huyền sử, cổ sử, cùng triết học, cho tới tin học, y học để t́m về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, về biên giới cổ của tộc Việt.

Trong chính sử Trung-quốc, Việt-Nam đều ghi rơ ràng nguồn gốc tộc Việt, nhưng cái nguồn gốc đó căn cứ vào cổ thư của người Trung-hoa, nên hoàn toàn sai lạc. Bởi cổ thư cho rằng người Trung-hoa tự sinh ra, rằng người Việt chẳng qua do những người Trung-hoa di chuyển xuống lưu ngụ. Sự thực nhờ hệ thống ADN, chúng ta biết rằng chính những người ở châu Phi đến Đông Nam-á trước, rồi di chuyển lên Hoa-Nam. Tại Hoa-Nam giống người này lại hợp với giống người từ châu Phi sang châu Âu, rồi từ châu Âu vào Trung-á, hợp với người ở Hoa-Nam mà thành tộc Hán.

Nhưng ngược lại, do cổ thư Trung, Việt, hay do ADN, chúng ta cũng biết rất rơ biên cương nước Việt thời mới lập quốc.

Hồi thơ ấu, tôi sống bên cạnh những nhà Nho, chỉ đọc sách chữ Hán của người Hoa, người Việt viết. Mà những sách này đều chép rằng tộc Việt gồm có trăm họ khác nhau, mang tên Bách-Việt. Những tên Âu-Việt, Lạc-Việt, Đông-Việt, Nam-Việt, Việt-Thường đều thuộc Bách-Việt cả. Cái tên trăm họ hay trăm Việt (Bách-Việt) phát xuất từ huyền thọai vua Lạc-Long sinh ra trăm con. Trăm có nghĩa là toàn thể, tất cả, chứ không hoàn toàn là con số như ta tưởng ngày nay (14).

Các vị cổ học, học cổ sử, rồi coi lĩnh địa tộc Việt bao gồm phía Nam sông Trường-giang lấy mốc là hồ Động-đ́nh với sông Tương, núi Ngũ-lĩnh là đương nhiên. Chính hồi nhỏ, khi học tại trường Pháp, vào thời kỳ 13-14 tuổi, tôi chỉ được học vài trang ngắn ngủi về nguồn gốc tộc Việt, trong khi đó gia đ́nh cho tôi đọc mấy bộ sử dài hàng mấy chục ngh́n trang của Hoa, của Việt (Nếu dịch sang chữ Việt số trang gấp bốn, sang Pháp, Anh văn số trang gấp năm sáu). Chính tôi cũng nh́n nguồn gốc tộc Việt, lĩnh thổ tộc Việt tương tự như các nhà cổ học.

Nay tôi mới chứng minh được.

Phải chờ cho đến khi tôi ra trường (1964). Bấy giờ giáo sư Vũ Văn-Mẫu thạc-sĩ luật khoa nhờ Hoàng triều tiến-sỹ Nguyễn Sỹ-Giác sưu tầm tài liệu cổ luật. Cụ Giác học theo lối cổ, không biết những phương pháp quy nạp, tổng hợp nên giới thiệu giáo sư Mẫu với tôị Ngay từ lần đầu gặp nhau, mà một già, một trẻ đă có hai cái nh́n khác biệt.

Giáo sư Mẫu trên 50 tuổi mà lại có một cái nh́n rất trẻ, tôi mới có 25 tuổi lại có cái nh́n rất già về nguồn gốc tộc Việt. Qua cuộc trao đổi sơ khởi, bấy giờ tôi mới biết có rất nhiều truyền thuyết nói về nguồn gốc dân tộc Việt, mà các tác giả thiếu cái học sâu xa về cổ học Hoa-Việt đưa rạ V́ vậy tôi đă sưu tầm tất cả những ǵ trong thư tịch cổ, giúp giáo sư Mẫu đem viết thành tài liệu giảng dạỵ Nhưng sự sưu tầm đó không đầy đủ, v́ chỉ căn cứ trên thư tịch cổ.

Nay tôi mới biết có quá nhiều sai lầm, tôi xin lỗi các đồng nghiệp hiện diện, xin lỗi Quư-vị.

Hồi bấy giờ tôi sống ở Sài-g̣n, thuộc Việt-Nam cộng-ḥa đang là nước chống Cộng, nên tôi không thể sang Trung-Quốc, cũng như về Bắc t́m kiếm thêm tài liệụ Phải chờ đến năm 1976 làm việc cho CMFC, hàng năm dẫn các đồng nghiệp sang Trung-Quốc nghiên cứu, trao đổi y học, tôi mới có dịp t́m kiếm lại di tích xưa trong thư viện, trong bảo tàng viện, trên bia đá cùng miếu mạo, đền chùa và nhất là đến tại chỗ nghiên cứụ Gần đây nhờ các đồng nghiệp dùng hệ thống ADN, tôi mới biện biệt được nguồn gốc tộc Việt, biên cương thời lập quốc của tộc Việt.

Hôm nay tôi xin kết luận với các bạn rằng:
Người Trung-hoa không phải là con trời như những văn gia cổ của họ viết, dù ngày nay họ c̣n nghĩ như vậỵ
Họ cũng không tự sinh ra, rồi tản đi tứ phương.
Không hề có việc người Trung-hoa trốn lạnh hay v́ lư do chính trị di cư xuống vùng đất hoang, tạo thành nước Việt.


Trong lịch sử quả có một số người Trung-hoa di cư sang Việt-Nam sau những biến cố chính trị. Như ngày nay người Việt di cư đi sống khắp thế giớị

Lại càng không có việc người Việt gốc từ ḍng giống Mă-lai như một vài người ngố ngếch đưa ra

Theo sự nghiên cứu bắng hệ thống ADN, từ cổ, giống người Trung-hoa, do giống người từ Đông Nam-á di lên. Những người Đông Nam-á lại đến từ châu Phi qua ngả Nam-á vào thời gian hơn 20.000 năm trước.

Người châu Phi đến Bắc Trung-hoa do ngả Âu-châu rồi vào Trung-á, khoảng 15.000 năm. Rồi hai giống người này tạo thành tộc Hoạ

Tộc Việt sống rải rác từ phía Nam sông Trường-giang, xuống măi vịnh Thái-lan.

Biên giới nước Việt thủa lập quốc gồm từ Nam sông Trường giang đến vịnh Thái-lan, Đông tới biển. Tây tới Tứ-xuyên của Trung-quốc ngày nay

Đến đây tôi xin phép các vị giáo sư, quư khách, các sinh viên cho tôi ngừng lờị Xin hẹn lại quư vị đến tháng 11-92 tôi sẽ tŕnh bày trước quư vị về nguồn gốc triết Việt.

Trân trọng kính chào quư vị.
Giáo-sư Trần Đại-Sỹ,
Giám đốc Trung-quốc sự vụ

Tài liệu nghiên cứu chính:
SÁCH CHỮ HÁN
Tư Mă-Thiên, Sử kư, Trung-hoa thư cục Thượng-hải xuất bản 1959
Ban-Cố, Tiền Hán thư, Trung-hoa thư cục xuất bản 1959
Phạm Việp, Hậu Hán thư, Trung hoa thư cục xuất bản 1959.
Hoài Nam Tử, quyển 18, Trùng Hoa thư cục Đài Bắc xuất bản, 1959.
Cố Dă-Vương, Địađư chí, Cẩm-chương thư cục xuất bản 1920.
Trần Luân-Quưnh, Hải quốc kiến văn lục, cổ bản, thư viện Paris.
Lê Quư-Đôn, Phu-biên tạp lục, cổ bản của thư viện Paris.
Lê Quư-Đôn, Đại-Việt thông sử, cổ bản của thư viện Paris.
Phan huy-Ích, Lịch triều biến chương loại chí, cổ bản của thư viện Paris.
Quốc-sử quán, Hoàng-Việt địa dư chí, bản của thư viện Paris.
Quốc-sử quán, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, bản của thư viện Paris.
Địa đồ xuất bản xă, Trung-hoa nhân dân cộng ḥa quốc phân tỉnh địa đồ tập, Bắc-kinh 1974.
Đại học văn khoa Hồ-nam, Hồ-nam lịch đại khảo chứng 1980.
Cùng rất nhiều tài liệu không tác giả, lưu trữ tại thư viện, bảo tàng viện Hồ-nam, Quư-châu, Quảng-đông, Quảng-tây, Vân-Nam.
SÁCH CHỮ PHÁP
Léonard Aurouseaụ La première conquête chinoise des pays anamites, BEFEO XXIII
Claude Madrolle, Le Tonkin Ancien, BEFEO, XXXVIỊ
SÁCH CHỮ VIỆT
Đào Duy-Anh, Nguồn gốc dân tộc Việt-nam, Hà-nội 1946.




Sửa lại bởi NhapMon : 07 January 2007 lúc 8:42pm


__________________
NhapMon
Quay trở về đầu Xem NhapMon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi NhapMon
 
nhoccon1412
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 15 March 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 329
Msg 274 of 585: Đă gửi: 12 January 2007 lúc 6:59am | Đă lưu IP Trích dẫn nhoccon1412

Vận 8 (2004-2023) Luận giải



Năm 2004 là một năm quan trọng, nó là năm chuyển đổi từ Vận Trung Nguyên sang Vận Hạ Nguyên khởi đầu từ năm 2004 cho đến năm 2023, Vận khí Hạ Nguyên Phi Tinh theo Đồ H́nh sau :



Vận 8 Phi tinh


Sao Bát Bạch là sao nhập giữa, khí của nó là vượng khí có tác dụng mạnh nhất chi phối toàn bộ địa cầu. Bát Bạch là sao Cát tinh chủ phúc lộc nên nó chi phối vận Hạ Nguyên là vận tương đối tốt. Thiếu nam sẽ thông minh, năng động, thiếu nữ cũng trở nên hoạt bát, thông minh hơn. Không lợi cho người già và trung niên, sức khoẻ giảm sút, kém năng động. Phương Đông Bắc sẽ vượng cát, gặt hái nhiều thành công và hoà b́nh yên ổn nhưng hàm chứa nhiều bệnh tật, hạn hán do bị khí độc của sao Nhị Hắc. Phương Tây Nam nhiều tai hoạ kiện tụng, dao súng. Phương Đông Nam nhiều cướp bóc xáo trộn. Phương Tây vẫn tiếp tục hưng vượng.

Bát Bạch nhập trung cung là Cấn tượng của thiếu nam thuộc thổ, nên sự xuất hiện của nhiều thần đồng, nhiều thương gia trẻ tuổi tài ba. Phía Đông Bắc đại phái do vượng khí Bát Bạch. Màu chi phối vận này vượng khí là màu Thổ như vàng, trắng, kem.

Vật khí mang nhiều năng lượng và cát khí là những vật liệu thuộc Thổ, làm từ đất như gốm, đá thuỷ tinh, pha lê.

Về kinh tế th́ nông, lâm sản thu lợi, xây dựng, đầu tư xây dựng cơ bản, đường xá, quy hoạch đô thị, bất động sản, đầu tư vào khu vực miền núi, thuỷ điện, ... là các ngành nghề kinh doanh chiến lược và thu nhiều lợi nhuận.

Sức khoẻ và quan hệ được đánh giá cao hơn tiền bạc, sẽ có nhiều đầu tư nghiên cứu cho y tế, giáo dục và vi sinh hoá.

Số 8 là số may mắn chi phối chủ đạo trong 20 năm hạ nguyên, v́ vậy nên dùng nhiều số 8 và các vật khí sau đây :

- Chuông khánh Bát quái, 8 đồng xu
- Rùa đầu rồng ngồi trên bát quái
- Nên mang theo Bát Quái như đồng xu, túi Bát Quái
- Chuông gió 8 ống
- Bộ Tứ Linh : Long, Phượng, Hổ, Rùa
- Quả cầu thuỷ tinh
- Bộ Tam Đa bằng đá
- Cây nho ngọc, cây nho thuỷ tinh

Xét trên phi tinh đồ ta thấy :

+ Phương Tây : Sao Nhất Bạch – Sinh Khí chiếm đóng. Khí của sao này rất tốt lại được bản cung Đoài - Kim sinh trợ nên vượng đinh, vượng tài, phát triển thuận lợi. Phương này sẽ có nhiều nhân tài xuất hiện bởi Nhất Bạch c̣n gọi là Văn Xương tinh chủ về thông minh học thức, văn tài nổi danh lỗi lạc.

+ Phương Tây Nam : Ngũ Hoàng chiếm đóng, Ngũ Hoàng là Đại Sát tinh đi đến đâu chủ tai hoạ đến đó nên phương này chủ bệnh tật tai hoạ. Phương Tây Nam c̣n là phương linh thần tức là phương đối diện với phương Đông Bắc là phương Chính Thần đương vượng nên phương này cần có sông biển hội tụ, nếu không có sẽ phát sinh nhiều biến động, thiên tai, địch hoạ.

+ Phương Nam : Sao Tam Bích chiếm đóng là sao Tử Khí. Khí xấu Tam Bích đại hung chủ thiên tai, cướp bóc, Tam Bích Mộc sinh trợ cho bản cung Ly nên hoả quá vượng dễ phát sinh hoả hoạn, bệnh dịch đặc biệt là bệnh máu huyết, thần kinh.

+ Phương Đông Nam : Sao Thất Xích là sao Thoái Khí toạ lạc tại bản cung Tốn. Bản cung Tứ Lục không vượng lại bị Thất Xích Kim tương khắc nên chủ ḱm hăm sự phát triển, xuất hiện chiến tranh hoặc tai hoạ, bệnh tật.

+ Phương Đông : Sao Lục Bạch – Sát Khí chiếm đóng : Lục Bạch chiếm tại bản cung Chấn, hai sao Tam Bích, Lục Bạch chủ về đấu đá, Kim Mộc tương khắc nên dễ có chiến tranh, bệnh tật, nội loạn.
Phương Đông Bắc : Bản cung Cấn nơi sao Bát Bạch đang đương vận nên vượng khí, lại được sao Nhị Hắc hợp thập chủ thông khí, hai hành Thổ hỗ trợ nên phương này phát triển mạnh mẽ, nơi đây cũng xuất hiện nhiều nhân tài, thần đồng nhỏ tuổi đặc biệt là thiếu nam bởi quẻ Cấn đại diện là thiếu nam.

+ Phương Bắc : Sao Tứ Lục chiếm đóng tại bản cung Khảm - đại diện Nhất Bạch. Hai sao Tứ Nhất đi với nhau chủ thông minh anh tài xuất hiện, đặc biệt là về các lĩnh vực giáo dục, khoa học xă hội, văn chương.
Phương Tây : Cửu Tử Hoả Tinh là sao vượng khí chiếm đóng, v́ khí của sao này hưng vượng nên phương Tây tiếp tục phát triển và đạt được nhiều thành tựu. Tuy nhiên Cửu tử hoả khắc bản cung Càn - Kim nên phải đề pḥng nhiều tai nạn và bệnh tật, đặc biệt liên quan đến giao thông, xe cộ, thiên tai.

+ Trung cung có Bát Bạch Thổ về Ngũ Hành tương đồng với hành Thổ ở trung cung nên các khu vực miền Trung sẽ phát triển mạnh. Khu vực Trung Đông cũng có thể có hoà b́nh trong thời gian vận 8 và chấm dứt được nhiều năm nội chiến, loạn lạc.

Sửa lại bởi nhoccon1412 : 12 January 2007 lúc 7:25am


__________________
_/|\_ Nam Mô A Di Đà Phật _/|\_

http://phapam.good.to
Quay trở về đầu Xem nhoccon1412's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nhoccon1412
 
nhpv
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 15 March 2003
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 157
Msg 275 of 585: Đă gửi: 12 January 2007 lúc 11:34am | Đă lưu IP Trích dẫn nhpv

Cám ơn bác NhapMon đă đăng bài này và cũng phải cám ơn bác sĩ Trần Đại Sỹ đă bơ công ra nghiên cứu để thế hệ đi sau biết sự thật về lịch sữ Việt Nam. Hy vọng 1 ngày nào đó nhpv có đi Pháp sẽ đến pḥng mạch cũa bác sĩ đễ được tận mắt xem cây băo kiếm Trấn Bắc B́nh Nam.
Quay trở về đầu Xem nhpv's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nhpv
 
NhapMon
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 276 of 585: Đă gửi: 12 January 2007 lúc 6:44pm | Đă lưu IP Trích dẫn NhapMon

Bài "Vận 8 (2004-2023) Luận giải" của bác nhoccon1412 đưa lên rất hữu ích để nghiên cứu Sấm!

"Phương Tây : Sao Nhất Bạch – Sinh Khí chiếm đóng. Khí của sao này rất tốt lại được bản cung Đoài - Kim sinh trợ nên vượng đinh, vượng tài, phát triển thuận lợị Phương này sẽ có nhiều nhân tài xuất hiện bởi Nhất Bạch c̣n gọi là Văn Xương tinh chủ về thông minh học thức, văn tài nổi danh lỗi lạc."

Đoạn văn diễn tả phương Tây (phương Đoài) trên phù hợp với ư nghĩa của Măo Nhật Kê và cḥm sao Bạch Hổ đă được bác đưa lên trước đây . Đặc biệt ở đây lại đề cập đến Văn Xương là một "sao" trong Tử Vi và Bát Tự. Tính chất của sao Nhất Bạch (tức Văn Xương) cùng mô tả phần nào Thầy Nhân Thập!

Cám ơn bác nhoccon

__________________
NhapMon
Quay trở về đầu Xem NhapMon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi NhapMon
 
nhoccon1412
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 15 March 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 329
Msg 277 of 585: Đă gửi: 14 January 2007 lúc 1:36am | Đă lưu IP Trích dẫn nhoccon1412

Phong Thủy Đại Việt

Nguyễn Cường.



Thường theo phong tục hay thói quen vào dịp đầu năm, đa số người Việt thích t́m hiểu vận mạng cho mỗi cá nhân và người thân trong năm mới như thế nào qua các bộ môn tử vi, bói bài, xin xăm v.v, hay nói chung các môn khoa học huyền bí. Đi xa hơn và có tính cao cấp hơn nữa là một số ít các “Tử Vi Gia”, lại dùng phương tiện đó để đoán chơi vận mệnh cho cả nước! Đúng sai lành dữ như thế nào th́ ít có ai chứng nghiệm được liền, v́ đa số chắc sẽ quên đi và coi như là những chuyện đọc cho vui trong mấy ngày xuân lai rai.

Không ngoài thông lệ nói trên, người viết cũng muốn nhân dịp năm mới sắp tới, gởi đến quưđọc giả một vài ḍng đặc biệt về khoa Điạ Lư Phong Thuỷ cho Việt Nam, với hy vọng rằng mọi chuyện sẽ xảy ra tốt đẹp cho tương lai cuả đất nước và dân tộc.    

Trong tất cả các loại khoa học “huyền bí “ c̣n sót lại cho đến hiện tại cuả văn minh Trung Hoa, có lẽ khoa Phong Thủy (Feng Shui) là c̣n được ưa chuộng một cách rộng rải, không những phổ biến ở nhiều nơi trong vùng châu Á mà c̣n lan truyền sang cả những nơi chốn văn minh nhất phương Tây. Đa số chúng ta chắc sẽ không c̣n ngạc nhiên khi nghe nói, có những ông chủ cơ sở hàng trăm triệu đô ở Cali hay New York, đă mời những ông “Thầy Địa Lư” tận bên Hồng Kông hay Đài Loan làm cố vấn về “Phong Thuỷ” cho các công tŕnh sắp xây dựng! Mặc dù được phổ biến rộng răi như vậy, nhưng có một ứng dụng nhỏ trong khoa phong thuỷ liên hệ đến bộ môn h́nh tượng học, th́ lại có thể coi như là bị thất truyền, v́ không thấy có sách vở nào ghi chép lại rơ ràng mạch lạc cho có phương pháp theo khoa học.

Điều nghịch lư ở đây là trong các câu chuyện truyền miệng cuả dân gian về khoa Điạ lư âm phần, bộ môn chuyên đi t́m các thế đất tốt để an táng cho thân nhân qua đời, với hy vọng là con cháu sẽ hưởng được hồng phúc cuả tổ tiên, th́ đa số lại đều có nhắc tới. Cụ thể như thế đất h́nh cái “Yên Ngựa” th́ có nhiều con cháu ra làm quan, thế đất có h́nh “Bút Nghiên” th́ con cháu thi cử đỗ đạt cao, hay thô tục b́nh dân hơn là: “ Thế đất làng giống như ...cuả đàn ông, nên con gái làng thường bị chửa hoang!” v.v. Thắc mắc lớn ở đây là bằng cách nào, các nhà Điạ lư Phong Thủy có thể liên tưởng và nghiệm ra được những kết quả như vậy? Thú thật là không có câu trả lời và phải nh́n nhận là rất “siêu h́nh”, nếu không nói là “Phi khoa học”, v́ không ai có thể giải thích được. Nhưng không phải là hoàn toàn vô lư.

Ai có thể giải thích được hiện tượng tại sao nước Ư (Italy) có h́nh dáng giống y hệt như một chiếc giày bốt, đă là quốc gia đoạt giải vô địch bóng đá (world cup) nhiều nhất thế giới với tất cả là bốn (4) lần? Nếu cho là t́nh cờ ngẫu nhiên th́ tại sao nước thứ hai sắp hạng sau đó là Ba Tây (Brazil) với cầu vương Pélé và hai lần đoạt giải vô địch thế giới, cùng có bản đồ quốc gia giống như chiếc giày(tennis) thể thao! Cũng đừng quên chuyện dân Ư ở các vùng đảo Sicily ngay trước cái chân, vốn nổi tiếng là tay anh chị giang hồ về “đấm đá” nhất thế giới.

Nếu c̣n chưa đủ để thuyết phục th́ hăy nh́n cả Châu Âu giống như một con khủng long với cái chân là nước Ư muốn đá Phi Châu, và Tây Ban Nha (Spain) là cái đầu (giống đầu ḅ tót) như đang muốn húc Phi Châu. Trong khi nước Anh (Britain) th́ giống như đang ngồi cỡi trên lưng (Pháp) và bụng (Đức) cuả con khủng long. Kết quả thật sự là nước Anh đă từng làm bá chủ trên chính trường Châu Âu, và cuối cùng là Âu Châu đă “đá và húc” cho tan nát cả lục địa Phi Châu . Ngoài ra, Tây Ban Nha cũng đă tiên phong dẫn đầu Âu châu trong việc thám hiểm thế giới và chiếm đất làm thuộc địa. Chưa nói đến tại sao dân Tây Ban Nha lại có tṛ chơi đấu ḅ rừng độc đáo nhất thế giới!

Cũng tương tự, không biết có phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa truyền thuyết “con Rồng” và h́nh dạng cuả nước Việt Nam? Nếu khách quan nh́n vào h́nh thể bản đồ điạ lư, th́ quả thật là h́nh thể nước Việt Nam trông giống như con “Rồng” đang uốn lượn thân ḿnh bên bờ Thái B́nh dương. Những ǵ mô tả sau đây hoàn toàn là do kết quả tổng hợp từ nhiều nhà Điạ Lư Phong Thuỷ nghiệp dư và chuyên gia người Việt, trong đó thân thể con “Rồng Đại Việt ” gồm có ba phần Đầu, Ḿnh, và Đuôi (hay chân tay):

Đầu con Rồng ở miền Bắc với Hà Nội là con mắt, nh́n ra mũi rồng nằm ngay cảng Hải Pḥng. Râu Rồng là tập hợp cuả những ḥn đảo ở vịnh Hạ long (Có người cho mấy ngàn ḥn đảo nhỏ là do rồng “nhả ngọc phun châu”). Miệng Rồng chính là vùng tam giác đồng bằng trù phú gồm có Thái B́nh, Hải Dương và Nam Định, dùng để nuôi ăn hay cung cấp luá gạo cho miền Bắc. Theo luật thiên nhiên, bao giờ phần đầu cũng phải nắm giữ vai tṛ lănh đạo chỉ huy tất cả các bộ phận khác c̣n lại cuả thân thể. Bởi vậy cho nên gần 800 năm lịch sử của Đại Việt, Thăng Long (Hà Nội) luôn đóng vai tṛ là kinh đô, nơi ngự trị sinh sống cuả các bậc Vua Chúa, quan lại và tầng lớp trí thức khoa bảng của cả nước Đại Việt.

Khuyết điểm nếu có là tầm nh́n xa của Rồng Đại Việt ra Thái B́nh Dương bị che khuất mất bởi đảo Hải Nam. Theo phong thuỷ th́ ví như là Rồng bị bịt mắt! Nhưng trầm trọng nhất chính là những ǵ đang nằm ở phiá trên cuả cái đầu Rồng. Nếu nh́n thật kỷ th́ từ vùng Cao Bắc Lạng qua tận Lào Cai và Lai Châu trông giống như cái sừng hay cái chóp đỉnh đầu bị kềm kẹp lại bởi đại lục Trung Hoa và xứ Lào. C̣n nói theo cách Phong Thuỷ là con Rồng VN bị đè đầu, giống như câu chuyện “Tề Thiên Đại Thánh” bị núi Ngũ Hành nặng cả ngàn (tỷ) cân đè nhốt xuống, ngóc đầu lên thoát ra không nổi! Suốt gần 800 năm, tuy bề ngoài có vẻ như tự chủ độc lập, nhưng thực tế cho thấy là Đại Việt bị chi phối và khống chế toàn diện về văn hoá lẫn chính trị từ Trung Quốc. Cứ mỗi ba năm là phải làm lễ triều cống. Mỗi lần muốn lập Vua mới lên ngôi đều phải xin phép, và sau đó đích thân Vua phải làm lễ quỳ lạy về phương Bắc để nhận lănh “Sắc Phong Vương” từ Thiên Triều. Không vị vua Đại Việt nào dám xưng Đế, cho măi đến đời vua Quang Trung hay Nguyễn Huệ (nên bị giảm thọ chết một cách bất ngờ?) và các đời Vua nhà Nguyễn sau này, do nhờ có bảo hộ của thực dân Pháp. Tuy nhiên cũng có lập luận cho rằng đó là khôn khéo cuả các bậc Vua Chúa Đại Việt nhằm xoa dịu tự ái Bắc Triều, hầu tránh khỏi cảnh chiến tranh và để giữ vững bờ cơi đất nước. Dù đúng sai như thế nào th́ kết quả cũng cho thấy hiển nhiên là trong quá khứ, Đại Việt luôn luôn phải chịu ảnh hưởng, nếu không muốn nói là chịu sự bảo hộ từ các triều đại Trung Hoa.    

Miền Bắc Trung Phần coi như thuộc về nữa trên thân ḿnh gồm có phần ngực bao gồm từ Nghệ An, Hà Tỉnh cho tới Quảng Trị. Ưu điểm chính là sông núi nơi đây có khí thế mănh liệt, biểu tượng giống như “trái tim và hơi thở” cuả tổ quốc, nên dân cư vùng này thường có tinh thần quốc gia và ḷng ái quốc cao độ. Trong gần cả ngàn năm với bao nhiêu cuộc chiến tranh chống xâm lăng, con dân sinh ra từ các vùng này đă đóng góp và hy sinh xương máu nhiều nhất cho đất nước. Ngược lại, khuyết điểm chính là vùng lănh thổ nơi đây có bề ngang rất hẹp, nên cũng có h́nh dạng của “Bộ ngực lép, hơi thở yếu, không được khoẻ mạnh và không có nhiều sữa nên khó nuôi con!”. Tuy những nhà lănh đạo cai trị đất nước xuất thân từ các miền đất này th́ rất là tài giỏi đảm lược trong thời chiến tranh chống xâm lăng, nhưng lại quá bảo thủ và thường gặp khó khăn về quản lư kinh tế đất nước trong thời b́nh.    

Miền Nam Trung Phần từ Quảng Nam cho đến Khánh Hoà coi như thuộc phần bụng, hơi ph́nh to ra ở B́nh Định, Phú yên và Khánh Hoà giống như cái bụng cuả người đàn bà có thai nghén sắp sinh. Theo khoa phong thủy nếu nằm ngay bụng Rồng th́ số rất nhàn và sung sướng, hưởng được lộc trời cho. Nhưng cũng chính v́ vậy nên người dân có khuynh hướng sống cầu an và thích hưởng nhàn. Đại đa số không muốn tranh đấu để đạt tới đỉnh cao cuả quyền lực, danh vọng hay tột đỉnh cuả sự giàu sang. Có thể nói đây là vùng đất “rừng vàng biển bạc”, tài nguyên thiên nhiên dồi dào nhất nước.

Những nhận xét nói trên, nếu nghiệm lại th́ thấy khá đúng. Không kể đến nguồn tài nguyên thiên nhiên trên rừng dưới biển có khá nhiều và những mỏ dầu nằm dưới ḷng đất ở ngoài biển khơi, số dân sinh sống trong những vùng này đă di cư (hay vượt biên sau 1975) ra hải ngoại nhiều nhất so với cả nước, v́ nhờ có điạ h́nh rất thuận lợi. Chính nhờ số cư dân sống ở nước ngoài đông nên số ngoại tệ gởi về VN khá nhiều, giúp cho đời sống ở những vùng này thêm phần thoải mái. Hiện tại cho thấy tiềm năng phát triển du lịch quốc tế tại các vùng ven biển này rất lớn, hứa hẹn chắc chắn sẽ tạo ra nguồn lợi tức dồi dào không khác ǵ được hưởng lộc trời cho. Tất cả cũng v́ nhờ nằm trên cái bụng Rồng!

Dĩ nhiên là trong cái may bao giờ cũng có rủi v́ một số những chuyện không hay. Vịnh Cam Ranh nổi tiếng là tốt nhất trong vùng Đông Nam Á, vị trí nằm dưới bụng Rồng lại có h́nh dáng giống như bộ phận sinh lư phái nữ, đắc địa hoàn toàn nên hổ trợ thêm cho cách “Hồng Nhan Bạc Phận” cuả Rồng Việt Nam. Có thể kiểm chứng lại bằng các dữ kiện lịch sử. Khu vực vịnh Cam Ranh trong thời chiến tranh đă trở thành một nơi chốn có kỹ nghệ ăn chơi công khai và nỗi tiếng cả nước, chỉ dành riêng cho quân đội đồng minh giải trí. Nhưng trên hết vẫn là một câu chuyện thuộc vào loại "huyền bí sử“ cuả đất nước Việt nam.

Vịnh Cam Ranh đă đóng vai tṛ như một “Mỹ Nữ Giai Nhân” làm cho điêu đứng biết bao nhiêu là đấng anh hùng trong thiên hạ, nếu đụng vào! Sử thế giới ghi chép là hạm đội Nga Hoàng chỉ ghé tạm vài ngày để nghĩ ngơi, th́ liền sau đó đă bị hạm đội Nhật chận đánh cho tan hàng ở eo bể Đối Mă (?)! Các hạm đội Pháp, Nhật, Mỹ, và sau cùng là Liên Sô cũng đều phải chịu rút lui, trong khi các tai họa lớn nhỏ theo sau xảy đến cho cả nước! Nghe nói xa hơn nữa là Thuỷ Sư Đô đốc Trịnh Ḥa cuả nhà Minh cũng có ghé qua Cam Ranh để tiếp tế hay tránh băo ǵ đó, rồi cuối cùng cũng “thân bại danh liệt”! Bởi vậy nếu khách quan đem ra so sánh th́ Vịnh Cam Ranh c̣n “kinh khủng” hơn là cô Thuư Kiều cuả ông Nguyễn Du gấp bội phần.

Có lẽ cũng chính v́ thế mà dù có dư sức để thuê bao “giai nhân” hoàn toàn vĩnh viễn, nhưng “anh hùng” Bắc Kinh vẫn c̣n lo ngại trước viễn cảnh “khuynh thành đổ nước” cuả vịnh Cam Ranh, nên chưa dám nhào vô (!?) Dù sao, theo các nhà Phong Thủy th́ cũng có cách hoá giải để biến vịnh Cam Ranh thành một nơi thu hút tiền bạc vô cùng tận cuả cả thế giới. Bằng cách là trồng thật nhiều cây xanh để che phủ hết các vùng đồi cát, nhất là cần nên biến Cam Ranh thành vùng kinh tế với tự do mậu dịch, hay trở thành khu vực quốc tế hoá và cho tự do ra vào buôn bán như ở Hồng Kông hay Tân Gia Ba (Singapore) trước kia.

Sau cùng là từ B́nh Thuận vào tới mũi Cà Mau coi như cái đuôi hay tứ chi (Chân Tay) cuả Rồng. Đặc điểm cuả miền Nam là sông nước th́ nhiều nhưng thiếu núi non cao lớn và hùng vĩ. Đất sao th́ người vậy, các nhà Phong Thuỷ dựa vào đó để cho rằng cuộc đất miền Nam tuy cũng có nhiều nhân tài, nhưng đa số lại thiếu bản lănh, nên không có được những nhà lănh đạo xuất chúng hay nhân tài có tầm vóc quốc tế. Nh́n lại quá khứ từ thời miền Nam được khai sinh ra cho đến hiện tại th́ thấy cũng ăn khớp. Suốt hơn mấy trăm năm, miền Nam chỉ có thể cho ra những ông “Phó Vương” hay bà “Hoàng Hậu” mà thôi. Kể luôn trong các lănh vực khác cũng vậy, từ Văn Chương Nghệ Thuật cho đến Khoa Học Kỹ Thuật, không thấy có những nhân tài nổi trội vượt bực với tầm cở đứng đầu cả nước hay thế giới.

Ưu điểm nếu có là ăn vào cách “Tay Chân” của Rồng. Từ thời xa xưa mới tới, đồng bào miền Nam chuyên cần làm việc, khai khẩn đất hoang thành những cánh đồng ruộng lúa c̣ bay thẳng cánh, biến miền nam thành vựa lúa gạo khổng lồ, không chỉ nuôi ăn cho cả nước mà c̣n sản xuất bán ra khắp thế giới. Ngoài ra c̣n có thêm một điều trùng hợp kỳ lạ nhất đă xảy ra mà chỉ khoa học huyền bí may ra mới có thể giải thích được. Cư dân miền nam Việt Nam nhờ có nguồn gốc nằm ở phần chân tay cuả rồng, nên có năng khiếu sở trường về dịch vụ làm đẹp móng tay móng chân! Hiện nay ai cũng biết là Việt kiều, nhiều nhất là ở Mỹ, chiếm hầu hết đa số thị trường làm về nghề móng tay. Đáng ngạc nhiên hơn cả là tuy Việt kiều ở Mỹ sinh ra từ miền Trung hay Bắc Việt Nam cũng có khá đông, nhưng đa số lại chỉ chuyên về làm tóc (!?)
                  
Đến đây, dám chắc là đa số đọc giả sẽ thắc mắc: Liệu như vậy th́ tương lai sẽ ra làm sao, con Rồng Việt Nam có bị chèn ép và đè đầu măi măi không? Câu trả lời khách quan sẽ là: Không! Xin đừng thất vọng! Sông có khúc, th́ người cũng có lúc. Trong vũ trụ này không có ǵ là cố định măi măi cả. Tất cả đều thay đổi (Dịch) theo đúng quy luật tuần hoàn cuả vũ trụ. Vận may mắn của dân tộc Việt đă và đang tới trong thiên niên kỷ này v́ “đại địa cuộc “ đất đă chuyển ḿnh, thay đổi hẳn từ trục Bắc-Nam sang trục Đông-Tây. Có thể giải thích một cách ngắn gọn như sau:

Các nền văn minh nhân loại đầu tiên khởi động theo trục Bắc-Nam. Bắt đầu từ vùng xích đạo, văn minh Phi Châu mà đại diện cuối cùng là Ai Cập (Egypt) với những Kim Tự Tháp c̣n lưu dấu vết lại, đă từ phương Nam theo dần lên phương Bắc. Lần lượt sau đó, nền văn minh Ai Cập đă được chuyển giao qua hai nhóm chính về phương Bắc. Một nhóm các nền văn minh Trung Đông qua Hy Lạp (Greek), La Mă (Rome) thuộc Điạ Trung Hải v.v. Nhóm thứ hai qua Ấn Độ, đi dọc theo Vịnh Thái Lan vào Việt Nam lên phương Bắc, rồi cuối cùng đă dừng lại và phát triển ra tột đỉnh ở Trung Hoa.

Đỉnh cao cuả nền văn minh Trung Hoa được đánh dấu bằng những đoàn kỵ mă thần tốc cuả Thành Cát Tư Hăn, đă “dẫm nát khắp Âu Châu làm cho cỏ cũng không mọc nổi!”. Nhưng đồng thời theo sau vó ngựa cuả các đoàn quân Mông Cổ, cũng t́nh cờ là những chuyển giao về Khoa Học và Kỹ Thuật cho các nền văn minh khác. Các nền văn minh sau đó lần lượt qua hết Châu Âu rồi dừng lại ở Anh Quốc, trước khi tiếp tục cuộc hành tŕnh băng qua Đại Tây Dương và ghé vào Bắc Mỹ, theo phong trào t́m vàng về miền Viễn Tây và cuối cùng th́ dừng lại ở California. Chẳng có ǵ lạ khi biết nền kinh tế cuả riêng California không những đứng hạng thứ 5 trên thế giới, c̣n là nơi dẫn đầu cuộc cách mạng về công nghiệp thông tin cho cả nước Mỹ và thế giới! Nhưng hành tŕnh cuả trục văn minh Đông-Tây chắc sẽ không ngừng ở California mà c̣n tiếp tục hoàn tất nhiệm vụ sau cùng là vượt qua Thái B́nh Dương để đi đúng một chu kỳ ṿng tṛn. Điều đó đă được nói tới như một lời tiên tri cuả cố Tổng Thống Reagan trong diễn văn đọc trước quốc hội là: “Thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của Thái B́nh Dương”.

Trong quá khứ, đa số đều bị nhầm lẫn cho rằng chỉ có Thăng Long (Hà Nội) mới xứng đáng làm kinh đô cuả nước Việt Nam! Dĩ nhiên là không sai, nếu cuộc diện thề giới c̣n chịu ảnh hưởng theo trục văn minh Bắc-Nam và nếu chỉ tính có riêng một ḿnh nước Việt Nam thôi. Nhưng vật đổi sao dời, biển rộng mênh mông c̣n biến thành ruộng dâu, th́ có cái ǵ là bất diệt măi măi! Ngày nay nhân loại đang đi vào thế toàn cầu hóa, trục văn minh Đông-Tây đang thành h́nh rơ rệt trên thế giới khi xuất hiện các tổ chức liên hiệp Âu Châu (EU), Liên Minh Đông Nam Á (ASEAN), Tổ chức Châu Á –Thái B́nh Dương (APEC), v.v. Và gần đây nhất là sự kiện khai thông “Hành Lang Kinh Tế Đông-Tây” qua 4 nước Việt, Lào, Thái và Miến, tới tận Ấn Độ.

Do đó, nếu nh́n lại vào bản đồ theo hướng Đông-Tây th́ chắc chắn nhiều người sẽ rất ngạc nhiên v́ thấy Việt Nam không c̣n là con Rồng bị kềm kẹp nữa, mà đă xuất tướng nhập tướng, biến hoá tài t́nh thành ra”Phượng Hoàng” (Phoenix), với con mắt nằm ngay tại Sài G̣n, cái mỏ bén nhọn tại Mũi Cà Mau và cái đỉnh đầu cong ṿng rất đẹp (chính là cái bụng phệ cuả con rồng trước kia). Trong khi đó th́ Thăng Long (Hà Nội) và miền Trung Bắc lại trở thành cái cổ để bảo vệ yết hầu, Campuchia biến thành cái miệng (với biển Hồ như là tuyến dịch vị) và Thái Lan trở thành cái “Bọc Diều” khổng lồ để dự trử thức ăn mới nuốt vô, như bức địa đồ chụp từ không ảnh sau đây cuả Google:

(Hinh Chup JPEG)

Nh́n kỹ hơn vào tấm h́nh chụp không ảnh trên c̣n cho thấy, đây là một con Phượng Hoàng khổng lồ với cái lưng gồ lên là Trung Quốc, cái bụng và đuôi là Nga Sô, đang xoè cánh (bán đảo Thái Lan) như muốn bay ra xuống Nam Dương hay lục địa Châu Úc. Vấn nạn làm đa số vẫn c̣n thắc mắc là phong thủy miền Nam về cơ bản vẫn thiếu núi non cao lớn hùng vĩ (?). Thắc mắc này sẽ được giải quyết dễ dàng bằng số cao ốc chọc trời với nhiều h́nh dáng đẹp mắt sẽ mọc lên khắp nơi trong vùng Sài G̣n và phụ cận, thay thế cho núi cao.      

Điều kỳ lạ nhấn mạnh ở đây không phải chỉ là h́nh dạng điạ lư mà c̣n có những tín hiệu hay “ẩn ngữ” đă được báo trước từ lâu như là những lời tiên tri chứng nghiệm cho sự việc đă xảy ra. Theo sách sử có ghi lại, ngoài sự tích “Rồng Tiên”, c̣n có nói đến biểu tượng cuả dân Việt là các loài chim Hồng chim Lạc, hay nói vắn tắt là thuộc ḍng giống Lạc Hồng. Như vậy, sự việc đó không phải chỉ là một huyền thoại đă có trước từ ngàn xưa về biểu tượng của dân Việt là chim thần ưng Phượng Hoàng, đă được vẽ trên mặt trống đồng để lưu truyền lại cho hậu thế, mà c̣n là một sự kiện hiển nhiên nh́n thấy rất đúng thực tế, không phải là vô t́nh hay do một sự trùng hợp ngẫu nhiên nào.

Sự kiện bắt đầu từ Vua Quang Trung và tiếp theo sau đó là các vị Vua nhà Nguyễn. Tuy vẫn biết chọn kinh đô ở Huế không phải là chỗ vượng điạ hơn nếu so với đất Thăng Long, nhưng là một sự lựa chọn chiến lược khôn khéo, nhằm tránh khỏi áp lực trực tiếp quá mạnh từ phương Bắc, cho đến khi thực dân Pháp qua cai trị Việt Nam. Kế đến là trong cái rủi bao giờ cũng có cái may, xương máu của dân Việt đă phải trả trong hơn 80 năm thuộc địa đó, cũng chỉ để thay đổi thế đất rồng bị ṿng kim cô niền đầu, bằng thế đất Phượng Hoàng tung cánh gió ở phương Nam. Và cho đến khi người Pháp rời khỏi Việt Nam, th́ Sài G̣n đă là “ḥn ngọc Viễn Đông” (chính là con mắt cuả phượng hoàng!).

Điều đáng nói là trong lúc tháo lui ở VN, người Pháp đă vô t́nh hay cố ư làm hồi sức mạnh lại cho Rồng phương Bắc. Trong khi đó th́ Phượng Hoàng ở miền Nam c̣n non trẻ, lại bị làm suy yếu thêm do bởi liên minh Đông Dương (Việt Miên Lào) tan ră theo chân Pháp, nên đă xảy ra thảm cảnh “Sơn Tinh Thuỷ Tinh” kéo dài trong hơn 20 năm.

Sau cùng và trên hết tất cả, là một sự kiện trùng hợp rất hy hữu gần như rất siêu h́nh, gắn liền với định mệnh cuả đất nước Việt. Từ ngày lập quốc hơn 200 năm, nước Mỹ đă chọn chim ưng làm biểu tượng cho quốc gia, c̣n gọi là quốc huy hay quốc hồn. Nh́n lại lịch sử chiến tranh cho thấy, khi Mỹ thay chân Pháp ở VN sau 1954, thật sự đó là một cuộc gặp gỡ kỳ diệu đầy may mắn cho cả hai về sau này trong tương lai, tượng trưng cho một cặp thần ưng hoà nhập vào nhau để biến thành Phượng Hoàng.

Đúng là duyên nợ tiền định cho hậu duệ cuả hai nhóm tách ra từ một nền văn minh, sau mấy ngàn năm lưu lạc bây giờ mới gặp lại nhau. Một bên là tinh hoa của Châu Á (nhóm thứ hai), thuộc ḍng dơi của vua chúa Đại Hán từ Trung Hoa c̣n sót lại, bởi thất thế chạy giặc lánh nạn qua đất Việt nên được các Vua Lê Chúa Nguyễn cho khẩn hoang các vùng từ B́nh Định Quy Nhơn vào tới tận trong Nam, theo trục văn minh Bắc Nam. C̣n một bên là tinh hoa của Châu Âu (nhóm thứ nhất) đă vượt Đại Tây Dương qua Bắc Mỹ để lánh nạn, theo trục văn minh Đông-Tây. Nhóm dân tị nạn Âu Châu này có đủ mọi thành phần, bao gồm hậu duệ cuả các vương quyền bị thất sủng, các tín đồ tôn giáo bị khai trừ ra ngoài xă hội, và sau cùng là các nhóm sắc dân (như dân Do Thái) bị kỳ thị chủng tộc.    
   
Tuy nhiên, sự kết hợp tiền định giữa hai giống thần ưng đă gặp nhiều thữ thách ban đầu cuả định mệnh, do bởi ḷng ganh tức và giận dữ cuả những Rồng mẹ ở măi tận phương Bắc. Một cuộc chiến tranh khốc liệt đă xảy ra giữa Rồng phương Bắc và Phượng Hoàng phương Nam. Kết quả là cả hai đều bị trọng thương. Nhưng trong lúc Rồng phương Bắc đang cố hàn gắn vết thương để phục hồi sinh lực, th́ những ǵ đă xảy ra sau đây ở phương Nam mới chính thật là “huyền thoại” cuả Phượng Hoàng:

Theo huyền thoại sử của văn minh Ai Cập, th́ giống chim thần ưng Phượng Hoàng (Phoenix) khi bị trọng thương hay biết ḿnh già yếu sắp chết, bèn tự nổi lửa thiêu đốt thân xác cuả ḿnh cháy ra tro. Để rồi từ đó gom lại bụi tro trong đống lửa tàn, một Phượng Hoàng sơ sinh sẽ sống lại và bay lên với một năng lực sống động và mănh liệt hơn trước rất nhiều. Nghĩ a là Phượng Hoàng luôn luôn bất tử và sống hùng sống mạnh với thời gian!

Phượng Hoàng Việt Nam đă làm đúng theo huyền thoại của chính ḿnh. Sau cơn binh lửa oan nghiệt đă tự thiêu đốt ḿnh ra tro, để rồi từ trong đống tro tàn cuả cuộc chiến tranh đó, một Phượng Hoàng đổi mới tươi trẻ vùng lên, với sức sống sinh động mănh liệt hơn, đă chuẩn bị và sẽ vươn ḿnh bay vút lên cao mang theo ṿng nguyệt quế. Một phần đám tro tàn cuả thân xác Phượng Hoàng miền Nam sau cơn băo lửa cũng đă bay theo ra khắp năm châu để biến thành những Phượng Hoàng mới cuả các nền văn minh tột đỉnh trên thế giới. Và, cũng chính nhờ vậy mà trong vài thế hệ nữa, nơi chốn sinh ra những thiên tài cuả nền văn minh “Siêu Linh” sẽ nằm rải rác đâu đó trên đầu con Phượng Hoàng phương Nam này.

Thăng Long Đất Bắc, Phượng Hoàng Trời Nam.

Nguyễn Cường
Sacto, 12/2006


__________________
_/|\_ Nam Mô A Di Đà Phật _/|\_

http://phapam.good.to
Quay trở về đầu Xem nhoccon1412's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nhoccon1412
 
NhapMon
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 278 of 585: Đă gửi: 15 January 2007 lúc 6:52pm | Đă lưu IP Trích dẫn NhapMon

"...Nếu nh́n lại vào bản đồ theo hướng Đông-Tây th́ chắc chắn nhiều người sẽ rất ngạc nhiên v́ thấy Việt Nam không c̣n là con Rồng bị kềm kẹp nữa, mà đă xuất tướng nhập tướng, biến hoá tài t́nh thành ra "Phượng Hoàng".
...nơi chốn sinh ra những thiên tài cuả nền văn minh “Siêu Linh” sẽ nằm rải rác đâu đó trên đầu con Phượng Hoàng phương Nam này." (Nguyễn Cường, Phong Thủy Đại Việt)




"...Phượng Hoàng (Phoenix), với con mắt nằm ngay tại Sài G̣n, cái mỏ bén nhọn tại Mũi Cà Mau và cái đỉnh đầu cong ṿng rất đẹp (chính là cái bụng phệ cuả con rồng trước kia). Trong khi đó th́ Thăng Long (Hà Nội) và miền Trung Bắc lại trở thành cái cổ để bảo vệ yết hầu, Campuchia biến thành cái miệng (với biển Hồ như là tuyến dịch vị) và Thái Lan trở thành cái “Bọc Diều” khổng lồ để dự trử thức ăn mới nuốt vô." (Nguyễn Cường, Phong Thủy Đại Việt)


"...đây là một con Phượng Hoàng khổng lồ với cái lưng gồ lên là Trung Quốc, cái bụng và đuôi là Nga Sô, đang xoè cánh (bán đảo Thái Lan) như muốn bay ra xuống Nam Dương hay lục địa Châu Úc." (Nguyễn Cường, Phong Thủy Đại Việt)


Sửa lại bởi NhapMon : 15 January 2007 lúc 8:21pm


__________________
NhapMon
Quay trở về đầu Xem NhapMon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi NhapMon
 
NhapMon
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 279 of 585: Đă gửi: 20 January 2007 lúc 10:00am | Đă lưu IP Trích dẫn NhapMon


"Ngưu tinh tụ bảo giang
Đại nhân cư chính trung"


Măo Nhật Kê (Hỏa)
- Một trong Nhị Thập Bát Tú, cai quản Ngưu tinh, đứng đầu phương Bạch Hổ (phương Tây)
- Phương Bạch Hổ cai quản bởi 07 vị Tinh Tú. Măo Nhật Kê nằm chính giữa (xem h́nh "cḥm Bạch Hổ")
- Các Ngưu tinh (Taurus) nằm tụ hai bên (đường) Hoàng Đạo. Hoàng Đạo là đường đi của mặt trời (xem h́nh "cḥm Bạch Hổ").





Cḥm Bạch Hổ




Sửa lại bởi NhapMon : 20 January 2007 lúc 12:01pm


__________________
NhapMon
Quay trở về đầu Xem NhapMon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi NhapMon
 
thiennhan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 634
Msg 280 of 585: Đă gửi: 28 January 2007 lúc 9:07am | Đă lưu IP Trích dẫn thiennhan

T́m hiểu phần THIÊN của Sấm Trạng mà không nói về chữ THỜI là thiếu mất cả ư nghĩa quan trọng của Trời – THIÊN MỆNH.

Chữ Thời: thời cơ, thời cuộc, thời vận, thời hạn, thời gian, thời điểm ...

Thời hề chi nghĩa đại hỉ tai (ư nghĩa của chữ thời lớn vậy thay !)

Khổng Minh, Khổng Tử, ... là một trong những nhân tài đặc biệt trong đpờ thường mà v́ chữ thời mà cả đời chẳng thi thố được tài năng đành về quê làm một ông thầy đồ, một kẻ thất chí với niềm mong ước “tri thiên mệnh tận nhân lực”. Sau khi đă trải qua nhiều gian truân cay đắng Khổng Tử đă phải thốt lên lời than như vậy, và c̣n rất nhiều rất nhiều những nhân vật tài trí siêu quần nhưng cũng chỉ một chữ THỜI mà chôn vùi tài trí trong bóng tối, cũng một chữ thời mà những kẻ bần cố nông đầu đường cuối chợ dốt nát tài hèn lại nắm được quyền lực, bỗng nhiên giầu sang quyền quí ăn trên ngồi trốc những kẻ sĩ trí thức thất thời, cũng một chữ Thời mà bao danh gia thế vọng bỗng chỗc như ảo vọng lâ vào bước đường cùng ..., vậy mới thấy rằng Trời thật công bằng ban chữ Thời cho mọi sinh linh mà không phân biệt cho giới nào.

Bây giờ thử điểm qua chữ Thời trong Sấm Trạng và các Sấm kư Đông - Tây và những bài viết của một số tác giả đă luận bàn về những tiên tri để xem thời nay hiện đang ở giai đoạn nào ?, bỏ qua những câu có thể đă qua trong thời gian quá khứ những câu trong Sấm tiên tri, thử t́m phần c̣n lại chưa rơ để xem thời nay là thời nào trong sự tiên tri của các vị “bất b́nh thường”.
Quay trở về đầu Xem thiennhan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thiennhan
 

<< Trước Trang of 30 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 2.6563 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO