Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 203 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Thời nay đoạn kết của Sấm Trạng ? Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
NhapMon
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 281 of 585: Đă gửi: 29 January 2007 lúc 3:56pm | Đă lưu IP Trích dẫn NhapMon

Dạo này khá bận rộn nên không có dịp "luận" Sấm thường xuyên như trước đâỵ Bác Thiennhan có suy nghĩ ǵ về chữ THỜI, xin bác đưa lên để nghiền ngẫm!

__________________
NhapMon
Quay trở về đầu Xem NhapMon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi NhapMon
 
thiennhan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 634
Msg 282 of 585: Đă gửi: 30 January 2007 lúc 2:19am | Đă lưu IP Trích dẫn thiennhan

Chữ Thời (thời gian, thời cơ ...) trong Sấm rất là mập mờ bí hiểu, các nhà tiên tri biết trước mà đều muốn giấu kín không tiết lộ, chỉ v́ những thế lực đen tối nắm được chữ thời sẽ rất nguy hiểm cho nhân loại, biết được thời cơ để "tiên hạ thủ vi cường" sẽ nắm chắc phần thắng.

Tham khảo lại một số bài phân tích suy luận về chữ THỜI trong Sấm Trạng, Sấm kư của một số tác giả để t́m hiểu thêm

Code:
THÂN DẬU NIÊN LAI KIẾN THÁI B̀NH
Xuân Đấu     8/17/2006
"Thân Dậu niên lai kiến thái b́nh". Câu sấm nổi tiếng của cụ Trạng Tŕnh gây niềm hy vọng lớn lao trong ḷng người Việt mỗi độ xuân về. Con Khỉ đă chuyền cành đi mất, nhường chỗ cho Gà lại. Một năm Thân vừa qua với cuộc chiến tranh do Mỹ chủ động nhằm lật đổ bạo quyền Sadam Husseine, tuy chưa giúp mang lại ḥa b́nh cho Iraq, nhưng người dân xứ sa mạc đầy dầu hỏa này tương đối dễ thở hơn. Dù dưới áp lực nặng nề của phiến quân, Iraq vẫn kiên quyết tiến tới một cuộc bầu cử mang tính chất dân chủ hầu tạo dựng ḥa b́nh cho xứ sở của họ. Cuộc chiến diệt trừ phiến quân vẫn c̣n tiếp tục. Những cảnh giết người man rợ qua h́nh thức chặt đầu con tin và bom tự sát (suicide bombers) của bọn phiến quân khủng bố vẫn c̣n tiếp diễn, nhờ vậy ứng thêm với câu sấm của ngài Tŕnh Quốc công là Thân phải thêm Dậu nữa mới kiến thái b́nh, nếu câu sấm này có tính cách toàn cầu. Một năm Thân chưa đủ, phải thêm năm Dậu mới hoàn hảo, mới hy vọng hết đi nạn khủng bố. Cuối năm Thân mà Mỹ tiếp tục đổ thêm quân vào Iraq, cho thấy quyết tâm của họ trong việc dứt điểm phiến quân và xây đắp ḥa b́nh cho Iraq. Afghanistan (A-Phú Hản) có vẽ đở hơn, cũng đang trên đường tiến tới Ḥa B́nh sau khi chính quyền Taliban của xứ này bị lật đổ. Arafat của Palestine qua đời, tân tổng thống Mahmoud Abbas thay thế, được thủ tướng Do Thái gọi điện thoại chúc mừng và hứa sẽ hội kiến với điều kiện Palestine chấm dứt khủng bố. T́nh h́nh Trung Đông nhờ đó có thể lắng dịu phần nào. Việt Nam tuy vẫn c̣n bị đặt dưới sự cai trị độc tài của Cộng sản và vẫn bị Hoa Kỳ xem là một trong những quốc gia cần quan tâm đặc biệt v́ sự đàn áp tôn giáo và chà đạp nhân quyền của đảng qua guồng máy cai trị hiện nay; nhưng có vài triệu chứng cho thấy bạo quyền này đang nới lỏng tay dần. Mặc dù mục đích của sự nới lỏng là nhằm thu hút việc đầu tư của một số quốc gia trên thế giới hầu giới chức lănh đạo Cộng sản tiếp tục tham nhũng; nhưng nhờ vậy, người dân trong nước dể thở hơn. Hành động chen chân vào cho bằng được tổ chức ASEAN năm 1995 là một bằng chứng cụ thể. Nên biết khối ASEAN được thành lập là nhằm chống lại sự bành trướng của Cộng sản; thế mà Việt Cộng vẫn xin vào, đủ cho thấy sự biến thể của chế độ đă cận kề. Việc mua phản lực cơ của Hoa Kỳ và cho phép United Airline đáp xuống phi trường Tân sơn Nhất là những dấu hiệu cho thấy sự sụp đổ dần dần nền kinh tế hoạch định, khép kín của Cộng sản. Ngày tàn của chế độ có thể không phải là một cuộc lật đổ chính quyền mà là sự mất dần ảnh hưởng của chủ thuyết cộng sản lỗi thời, của xă hội chủ nghĩa cổ hủ để nhường bước cho nền kinh tế thị trường tự do mang đầy tinh thần dân chủ. Ngày xưa, trước 1975, tôi thường thăm viếng hội Hồng Môn và thường được quư tu sĩ ở đây nhắc câu sấm của Trạng Tŕnh: "Bất chiến tự nhiên thành" như là điều tiên đoán của họ về t́nh trạng đất nước sau này. Biết đâu câu sấm đó đang ứng nghiệm. Sự trở lại thân thiện với Hoa Kỳ của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam cho phép tôi chủ quan thêm. Sau khi bị Mỹ cấm vận hơn hai thập niên và sau khi Cộng sản Nga tan ră, Cộng sản Việt Nam ư thức rằng nếu tiếp tục kế hoạch kinh tế nghèo đói của họ, thế nào dân cũng loạn, cho nên họ phải van xin Hoa Kỳ. Biết đă đến lúc chín mùi, Hoa Kỳ cho bải bỏ cấm vận và tái thiết lập bang giao để đưa hai thứ vũ khí: thị trường kinh tế tự do cùng t́nh thần dân chủ của họ vào lại Việt Nam. Một khi dân hai miền, kể cả cán bộ nghèo đói của Cộng sản, nếm được mùi vị béo bở thơm ngon của các sản phẩm Hoa Kỳ và của các nước tự do khác trên thế giới th́ thế nào cũng dần dần quên lăng những lời hứa cuội của Mác Lê nin, hay nói đúng hơn, quên đi cái gọi là thiên đường cộng sản họ được hứa khả. "Chủ nghĩa cộng sản tiêu diệt tư bản như chuyện tất nhiên" theo giọng điệu Karl Marx ở đâu không thấy, chỉ thấy các quốc gia tư bản ngày càng giàu, c̣n quốc gia cộng sản gần nửa thế kỷ nay vẫn nghèo đói, không đủ ăn, đến độ phải ngửa tay nhận viện trợ nhân đạo từ các quốc gia kia. Nh́n vào sự tan ră của khối Cộng sản Nga, ít nhiều ǵ chúng ta cũng rút tỉa được một vài bài học. Sự đột biến không phải tự dưng mà có. Nó đă âm ỉ từ lâu, từ cuộc đấu tranh đ̣i quyền dân sinh của công nhân thợ thuyền Ba Lan (1955), từ cuộc khởi nghĩa của nhân dân Hung Gia Lợi (1956), từ phong trào dân chủ của hiến chương Praha (1977), và phong trào Công Đoàn Đoàn Kết tại Ba Lan vào đầu thập niên 80 (1981-1982). Dù các phong trào này bị đàn áp, nhưng ư thức dân chủ trong ḷng người dân càng ngày càng bùng lên và lớn mạnh, để đến năm 1992, th́ biến cố xảy ra với kết quả: liên bang Xô Viết hoàn toàn tan ră. Trung Hoa cũng vậy. Vụ Thiên An Môn với cuộc đàn áp dă man của chính quyền không làm nao núng tinh thần sinh viên và dân chúng. Ngược lại, ư thức tự do, dân chủ càng ngày càng lớn mạnh trong ḷng người dân mà một cuộc nổi dậy lật đổ bạo quyền, hoặc một cuộc cải cách thay đổi ư thức hệ cùng guồng máy cai trị chỉ là kết quả tất nhiên trong tương quan nhân quả: "nước chảy đá ṃn" mà thôi. Tây Tạng bị Trung Hoa thống trị trong mấy thập niên qua với mưu đồ tiêu diệt Phật giáo; nhưng chưa bao giờ người ta thấy Phật giáo Tây Tạng hưng thịnh trên thế giới như vậy. Đại Hàn, một nước bị hiểm họa Cộng sản và bị chia cắt như đất nước chúng ta trước 1975; nhưng với quyết tâm chống cộng và đấu tranh chống tập đoàn quân phiệt, Nam Hàn đă thành công trong việc dân chủ hóa đất nước. Nhà độc tài Suharto tháng 5 năm 1998 cũng đă bị dân chúng Indonesia lật đổ. Sadam Husseine, như đă nhắc đến ở trên, cũng bị Hoa Kỳ bắt tại Iraq và sắp ra ṭa đền tội. T́nh h́nh thế giới trong cái nh́n thoáng qua vừa rồi, đều mang một tính cách chung là: Cộng sản và độc tài, quân phiệt sớm muộn ǵ rồi cũng cáo chung. Ngược lại, tinh thần dân chủ, dù bị đàn áp, vẫn tiếp tục lớn mạnh. Tuy lớn chậm, nhưng chắc chắn. Đối với Việt Nam, sự thức tỉnh của một số cán bộ Cộng sản cùng sự tranh đấu của các nhà lănh đạo Tôn giáo và các nhà trí thức trong việc bảo vệ nhân quyền, chống độc tài, độc đảng đă làm nẩy sinh tinh thần dân chủ trong ḷng mọi người. Nền kinh tế của xă hội chủ nghĩa với các h́nh thức hợp tác xă lỗi thời, cùng sự kiện nhà nước quản lư doanh nghiệp đang dần dà chuyển ḿnh sang kinh tế thị trường, cho thấy dấu hiệu của một sự thay đổi đang từ từ xảy ra. Cộng sản với thiên đường mù của thế giới đại đồng v́ thế sẽ không c̣n tồn tại nữa. Làm sao tồn tại nỗi, khi mà nền kinh tế, cùng ư thức hệ của họ đang sáp lại gần với thế giới tự do và tư bản. Sự kêu gọi ḥa hợp ḥa giải dân tộc mới đây của nhà cầm quyền Cộng sản, tuy nghịch lư và thiếu thành thật, nhưng cũng hé lộ dấu hiệu của ba chữ "kiến thái b́nh". Nghịch lư ở điểm thay v́ họ là người phải ḥa giải với chúng ta mới đúng; nhưng họ lại kêu gọi ngược lại, chúng ta phải ḥa giải với họ, kèm theo mấy lời hăm he trừng phạt những Việt kiều phản động qua nghị quyết 36 vừa mới ban hành. Sự kêu gọi ḥa hợp ḥa giải này chỉ mang một chủ đích duy nhất là muốn chúng ta đừng chống họ nữa, để yên cho họ tiếp tục bóc lột và đày đọa dân lành c̣n kẹt lại trong nước. Rất tiếc, việc làm này, họ tưởng là khôn khéo, lại tạo nên dấu hiệu: "kiến thái b́nh". Tại sao như vậy? Cũng dể hiểu thôi! Mưu sâu th́ họa thâm. Chính sự kêu gọi của họ, tuy không thực tâm, và chỉ muốn bày tỏ với thế giới thái độ yêu chuộng ḥa b́nh giả tạo hầu thu hút đầu tư, vô t́nh tạo nên trong đầu óc dân chúng cùng cán bộ cộng sản một ước vọng sống chung ḥa b́nh. Chính cái đ̣n hiểm độc này của họ trở lại hại họ một ngày không xa.

     Một năm Thân vừa qua mới manh nha lập thuyết: "bất chiến tự nhiên thành", phải chờ thêm năm Dậu nữa, để gà cất tiếng gáy ó o đánh thức toàn dân Việt Nam ở trong nước cũng như hải ngoại, th́ ánh nắng ḥa b́nh mới ló dạng. Kiến là thấy, nên thấy được những tia nắng ḥa b́nh cũng đủ đảm bảo cho một ngày mai tươi sáng đích thực. Có lẽ phải thêm hai năm kế tiếp nữa là năm Tuất và Hợi đất nước mới hoàn toàn âu ca, thịnh vượng như hai câu sấm khác của Trạng Tŕnh:

"Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa
Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày"

     Cái khó khăn của sấm Trạng Tŕnh hay các sấm kư, giáng bút khác mà tôi sắp tŕnh bày là sự xác định thời gian. Ngài chỉ nói: "Thân, Dậu niên lai kiến thái b́nh", nhưng không nói rơ Thân Dậu nào. Nếu Ngài cộng thêm thiên Can vào, chẳng hạn như Thân, Dậu phải là Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Thân, Quư Dậu, hay Mậu Thân, Kỷ Dậu, v.v... th́ dễ cho chúng ta xác định thời gian biết bao. Song làm như vậy ngoài việc lậu thiên cơ, c̣n dễ đánh tan niềm hy vọng của mọi người, v́ nếu không ứng hợp cho cặp Thân, Dậu lần này, người ta làm sao c̣n tuổi sống để chờ tới 60 năm sau (Lục thập hoa giáp) chứ! Như năm nay là năm Ất Dậu, muốn có một năm Ất Dậu kế tiếp, chúng ta phải đợi tới 60 năm nữa, chứ 12 năm sau, Ất Dậu chỉ thành Đinh Dậu. Thiên Can th́ có mười: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quư; c̣n Địa chi có tới 12: Tư, Sửu, Dần, Măo, Th́n, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Cho nên thà không thêm thiên Can vào với địa chi vẫn hay hơn, v́ nếu không ứng hợp với cặp Thân, Dậu kỳ này, chúng ta chỉ cần chờ 12 năm sau để suy nghiệm lại. Có lẽ v́ biết cuộc sống ngắn ngủi rất hạn định của con người, cụ Trạng thường làm một lèo tới bảy năm như mấy câu sấm:

     "Long Hổ Xà đầu khởi chiến tranh
     Can qua tứ xứ khởi đao binh
     "Mă đề Dương cước anh hùng tận
     Thân Dậu niên lai kiến thái b́nh"

     hoặc 8 năm như bài sấm "Rồng nằm bể cạn" cũng của cụ:

     "Rồng nằm bể cạn dễ ai hay
     Rắn mới hai đầu khó chịu thay
     Ngựa đă gác yên không người cuỡi
     Dê không ăn lộc ngảnh về tây
     Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu
     Gà kia vỗ cánh chập chùng bay
     Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa
     Ăn no ủn ỉn, lợn kêu ngày"

     Cụ làm vậy đặng chúng ta có hụt một chu kỳ th́ chỉ bốn, năm năm sau là bắt đầu suy nghiệm trở lại, đặng hy vọng trở lại. V́ lư do khó xác định thời gian nên thường thường sự kiện xảy ra rồi, người ta mới nhận rơ. Cũng có khi câu sấm lại trùng với hai biến cố cách nhau 60 năm v́ tính chất thường lập lại của chúng. Chẳng hạn như biến cố dùng máy bay giật sập hai ṭa nhà chọc trời tại Nữu Ước ngày 11 tháng 9 năm 2001 xảy ra mới đây làm chấn động thế giới th́ năm 1941, cách đây 60 năm, Mỹ cũng bị một trận tấn công khác bằng máy bay vào Trân Châu cảng do phi đội Thần Phong của Nhật thực hiện. Điểm giống nhau của hai biến cố này là:

     - Cuộc tấn công bằng máy bay
     - Các phi công đều quyết tử

     Một điều lạ lùng nữa là trận tấn công Trân châu cảng năm 1941 này có tên là Tora Tora và trận đánh cuối cùng coi như dữ dội nhất của Mỹ tại Afghanistan năm 2001 cũng có tên gần giống như vậy: Tora Bora, khác nhau chỉ có một chữ "B". Thiên tai, kinh tế cũng có khuynh hướng lập lại sau 60 năm. Chẳng hạn như nền kinh tế của Hoa Kỳ và các quốc gia trên thế giới trong tăm 1930 và 1990 có chung một đặc tính là suy thoái. Hoặc động đất lớn xảy ra tại Tân Cương năm 1906 th́ năm 1966 lại xảy ra tại Hà Bắc. Tuy vậy, có khi biến cố lập lại, nhưng ư nghĩa hoặc đặc tính của biến cố lại khác nhau, chẳng hạn như Nga Sô, 60 năm trước, khi Cộng sản nắm chính quyền, sức mạnh của họ thật to lớn, đe dọa cả thế giới; nhưng 60 năm sau, Cộng sản Nga sô lại suy tàn. Hai biến cố này, nh́n vào đặc tính th́ trái ngược nhau, nhưng nh́n vào tính chất biến đổi như sự biến đổi của Âm Dương trong kinh Dịch, th́ giống nhau. Xem như vậy, lục thập hoa giáp (60 năm) mang một ư nghĩa thật đặc biệt trong sự lập lại của các biến cố. Từ đó suy ra mỗi 12 năm, hay một phần năm của lục thập hoa giáp cũng có nhiều biến đổi và trùng hợp hết sức quan trọng. Sự biến đổi và trùng hợp này thường ứng hợp với các câu sấm lưu truyền.

     Sấm kư thật linh thiêng, nhưng sở dĩ người ta chưa suy đoán kịp những diễn biến sắp xảy ra một cách chính xác, phần là v́ chúng ta chưa có một cơ sở suy luận vững chắc nào được thiết lập, phần là v́ ư nghĩa khá ẩn tàng, bí mật, đôi khi c̣n mang nhiều cách lư giải đối nghịch nhau. Chẳng hạn như câu: "Bát Kê thử ư tử địa" với h́nh cây kiếm chém đứt đầu tám con gà do cụ Trạng Tŕnh ghi trên mộ bia dựng tại vùng Cổ Am gần từ đường họ Trần ở trang ấp vua phong cho Hưng Nhược Vương Trần Quốc Tảng. Nhân đi ngang vùng này và sau khi làm lễ trong nhà từ đường họ Trần, Tŕnh quốc công đă dựng mộ bia và lưu lại câu sấm khó hiểu kia. "Bát Kê thử ư tử địa" có nghĩa là tám con gà chết tại chỗ này, cùng h́nh ảnh thanh kiếm chém đứt đầu tám con gà là một bí ẩn lớn cho mọi người trong làng. Không ai hiểu nỗi ư Ngài muốn nói ǵ. Mấy trăm năm sau, có một chuyện xảy ra, người ta mới suy nghiệm được ư của Ngài. Số là quan toàn quyền Pasquier, người Pháp, sang cai trị Đông dương, lúc ra về, máy bay chở ông bay ngang làng Cổ Am th́ bị nạn. Dân làng chạy đến chỗ xảy ra tai nạn, lôi được quan toàn quyền Pasquier ra, đặt nằm trên ngôi mộ do ngài Tŕnh Quốc Công dựng nên v́ ngôi mộ ở sát ngay chỗ phi cơ rớt. Dân làng sở dĩ đặt quan toàn quyền trên ngôi mộ là v́ chỉ nơi đó, đất khô ráo và bằng phẳng. Thoạt tiên, không ai biết người rớt máy bay là quan toàn quyền. Đến khi chính quyền địa phương tới nơi, cho biết, dân chúng mới vỡ lẽ, hiểu được cách chơi chữ của Tŕnh Quốc công trong câu sấm của Ngài. Chữ Pasquier đọc âm theo tiếng Việt là Bát Kê. Dân Việt Nam thường gọi Pasquier là Bát Kê, nên câu sấm: "Bát Kê thử ư địa" không c̣n nghĩa: "tám con gà chết tại chỗ này" nữa, mà trở thành: "Bát Kê chết tại chỗ này", hay "Pasquier chết tại chỗ này". Thật là ảo diệu! C̣n có hai câu sấm khác cũng của cụ Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm, xác định thêm biến cố này. Đó là:

     "Giữa năm hai bảy mười ba
     Lửa đâu mà đốt Tám Gà trên mây"

     Năm hai bảy mười ba là năm âm lịch nhuần hai tháng Bảy thành 13 tháng. Năm đó đúng là năm Pasquier bị chết. C̣n câu thứ hai mô tả chính xác chuyện máy bay chở Pasquier, tức Bát-Kê, tức tám gà, bị bốc lửa lúc c̣n bay trên mây.

     Cái chết của Pasquier được Tŕnh Quốc công tiên tri mấy trăm năm về trước đă là điều lạ lùng, mà nguyên nhân đưa đến cái chết của ông lại là điều khiến người ta vô cùng kinh dị. Trước khi bay về Pháp và bị tử nạn, toàn quyền Pasquier có ghé lại đền thờ Trấn Bắc đại tướng quân Hoài văn hầu Trần Quốc-Toản ở Cửa-ông, lấy trộm thanh gươm ở đó mang về. Thanh gươm này có tên là Dương-kiếm, cùng với Âm-kiếm thành một cặp tên là Âm-Dương song kiếm, do đức thánh Trần Hưng Đạo dùng quư kim đúc lúc chống giặc Mông-cổ. Tương truyền Âm-kiếm bị thượng tướng Trần Nguyên-Hăn đem trấn yểm long mạch của tổ tiên vua Lê, nên kiếm mất tích từ đó. C̣n lại Dương-kiếm, Hưng Đạo Vương trao cho Hoài-văn hầu Trần Quốc-Toản và Hoài-văn hầu đă dùng kiếm đó giết chết thế tử Toa Đô trong trận Hàm-tử. Sau khi Hoài-văn hầu qui tiên, Dương-kiếm được đặt trên bàn thờ ngài tại Cửa-ông. Tương truyền Dương-kiếm rất linh thiêng, các danh tướng làm lễ mượn kiếm chống giặc đều thành công. Chẳng hạn như thượng tướng Trần Nguyên-Hăn đă mượn Dương-kiếm cắt đầu Liễu-Thăng trong trận Chi Lăng. Vua Quang Trung cũng dùng Dương-kiếm giết chết Sầm Nghi Đống và Hứa Thế-Hanh. Tướng Cờ đen Lưu-vĩnh-Phúc cũng mượn kiếm và nhờ đó lấy đầu đại úy Francis Garnier cùng đại tá Henri Rivière tại Cầu-giấy. Sau khi thành công, các danh tướng đều làm lễ trả kiếm lại đền thờ đàng hoàng nên không hề hấn ǵ. Quan toàn quyền, ỷ ḿnh quyền thế nhất nước, đă ngang nhiên vào đền thờ chiếm đoạt thanh kiếm làm của riêng, khiến Hoài-văn Hầu hoặc quỷ thần bảo hộ kiếm giết chết. Dân Việt chúng ta, ở thời đó, ai cũng nghĩ vậy, nên càng kính sợ sự linh thiêng của Hoài văn-Hầu hơn. Từ đó người ta kéo về chiêm bái lễ lạy ngài rất đông. Theo Yên Tử cư sĩ Trần Đại Sỹ cho biết, sau khi toàn quyền Pasquier chết, kiếm báu vẫn được đưa về Pháp và lần lượt qua tay hơn chục người; nhưng người nào giữ kiếm cũng bị chết rất thảm khốc. Trần Đại Sỹ nghĩ rằng những người giử kiếm bị thảm tử như vậy có lẽ v́ lời nguyền của Hoài văn-hầu Trần Quốc-Tuấn: "Kiếm này của gịng họ Đông-A, dùng để trấn quốc. Chỉ con cháu ta mới được giữ. Kẻ nào không phải con cháu ta, không dùng để tru diệt quốc tặc mà lưu giữ, th́ sẽ tản hồn, hủy phách mà chết". Trần Đại Sỹ c̣n kể thêm một chuyện xảy ra dưới thời Đệ nhị Cộng ḥa (1964-1973). Viên phi công Hoa-Kỳ bị bắn hạ sau khi oanh tạc Cửa-ông, gây hư hại đến 70%. Viên phi công này bị bắt vào tù và ở trong tù ông hóa điên, rồi chết. Sau 75, Cộng sản có đến phá khuấy đền, nhưng bị quỷ thần trừng phạt, đâm ra sợ, không dám đụng tới nữa. Sự linh thiêng của Dương-kiếm và đền thờ Cửa-ông cùng sự mầu nhiệm của câu sấm Tŕnh Quốc-công để lại đă ghi chặt trong tâm tưởng những người con dân Việt yêu nước một niềm hănh diện về tiền nhân, và một niềm tin vững chắc vào sự pḥ trợ của các ngài. Đất nước chúng ta tuy bị nhiểu nhương, khổ ách bởi thực dân Pháp và Cộng sản hơn hai thế kỷ nay v́ ảnh hưởng của luật nhân quả trong việc cha ông chúng ta tiêu diệt Chiêm thành cùng Thủy Chân Lạp; song chúng ta vẫn tin chắc rằng một ngày rất gần đây, khi nhân quả đă trọn, đất nước sẽ ḥa b́nh âu ca thực sự. Các sấm kư của Tŕnh quốc công, của Nostradamus, và các bài giáng bút của Ngài Tuệ Trung Thượng sĩ cùng công chúa Liễu Hạnh đều xác nhận điều này. Chỉ c̣n thời điểm là tùy thuộc vào sự suy luận thật sáng suốt của chúng ta v́ dẫu sao thiên cơ cũng bất khả lậu và sấm kư chỉ nhằm trao cho người hữu duyên.

     Sấm kư có rất nhiều, không phải chỉ có từ thời Tŕnh Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) mà trước đó đă thấy xuất hiện. Chẳng hạn như trong tác phẩm Anh-hùng Tiêu Sơn, Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ có nhắc tới bài sấm-kư Cổ-pháp, dài mười câu, mỗi câu bốn chữ, được truyền tụng từ thời vua Lê Ngọa Triều (Lê Long Đỉnh) như sau:

     "Mộc căn diểu diểu,
     Mộc biểu thanh thanh.
     Ḥa đao mộc lạc,
     Thập bát tử thành.
     Đông -a nhập địa,
     Dị mộc tái sinh.
     Chấn cung xuất nhật,
     Đoài cung ẩn tinh.
     Lục thất niên gian,
     Thiên hạ thái b́nh."

     Dịch nghĩa là:

     "Gốc cây kia đă cỗi
     Cành cây xanh xanh
     Cái đao bằng gỗ ḥa rơi xuống
     Mười tám người thành công
     Đông-A vào đất
     Cây kỳ lạ sống lại
     Mặt Trời xuất từ phương Đông
     Phương Tây có ngôi sao ẩn
     Thời gian sáu bảy
     Toàn dân thái b́nh"

     Bài sấm-kư chỉ vỏn vẹn có bốn mươi chữ mà tiên đoán vận mệnh nước Việt Nam trong khoảng gần một ngàn năm. Tương truyền bài sấm-kư này được phát hiện trên một mảnh cây gạo ở châu Cổ-pháp khi cây này bị sét đánh nứt làm đôi. Bài sấm đă được các thiền sư Vạn Hạnh, Bố Đại, Sùng Phạm, và một thầy địa lư giải đoán rất chính xác về t́nh h́nh các triều đại Lê, Lư Trần. Các ngài chỉ kiến giải tới đó thôi, rồi dừng, cư sĩ Trần Đại Sỹ đă luận tiếp cho đến triều đại nhà Nguyễn mới hết bài sấm. Như vậy thời gian cả bài sấm là từ năm vua Lư Thái Tổ lên ngôi (1010)cho đến năm 1802, năm chúa Nguyễn Ánh tiêu diệt nhà Tây Sơn, lập quốc, lấy vương hiệu là Gia Long. Bài sấm được các thiền sư, thày địa lư và Trần Đại Sỹ luận đoán như vầy:

     - Câu 1: " Mộc căn diểu diểu" (Gốc cây kia đă cỗi)

     Lê là họ Lê mà cũng là cây Lê; nên cây ở đây ám chỉ cây Lê, tức họ Lê. Đă cỗi tức là đă già, sắp chết; nên câu này có nghĩa là nhà Lê sắp hết vận.

     - Câu 2: "Mộc biểu thanh thanh" (Cành cây xanh xanh)

     Gốc cây chỉ vua, nên cành cây chỉ bầy tôi. Cành cây xanh xanh có nghĩa là bầy tôi được vượng; nên khi nhà Lê hết vận, chiếc ngai vàng sẽ lọt vào bầy tôi.

     - Câu 3: "Ḥa đao mộc lạc" (Cái đao bằng gỗ ḥa rơi xuống)

     Câu này được giải nghĩa bằng cách chiết tự. Chữ "ḥa", chữ "đao" và chữ "mộc" kết thành chữ "Lê"; nên nguyên câu ư nói nhà Lê đă đến hồi hết số.

     - Câu 4: "Thập bát tử thành" (Mười tám người thành công)

     Câu này cũng dùng chiết tự để hiểu. Chữ: "thập", chữ: "bát" và chữ: "tử" hợp lại thành chữ: "Lư ". Lư thành công có nghĩa là nhà Lê sụp th́ nhà Lư lên thay. Rơ ràng theo lịch sử th́ khi Lê Long Đỉnh băng hà, Lư Công-Uẩn, lúc đó đang giữ chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ (một bầy tôi của nhà Lê) lên thay.

     - Câu 5: " Đông -a nhập địa" (Đông-A vào đất, Đông-A đạt được nguyên vị)

     Vẫn theo cách chiết tự, chữ Đông và chữ A hợp lại thành chữ "Trần". Câu này có nghĩa là khi hết nhà Lư, nhà Trần sẽ lên thay.

     - Câu 6: "Dị mộc tái sinh" (Cây kỳ lạ sống lại)

     Như b́nh giải ở câu đầu, "cây" ám chỉ nhà Lê, nên cây kỳ lạ sống lại có nghĩa là nhà hậu Lê sẽ thay nhà Trần

     - Câu 7: "Chấn cung xuất nhật" (Mặt Trời xuất từ phương Đông)

     Theo Tiên thiên Bát quái do Phục Hy đề ra th́ "Ly" ở phương Đông, nhưng ở Hậu thiên Bát quái do Văn Vương sắp lại th́ "Chấn" nằm vào chính Đông. Do đó câu này có nghĩa là nhà Mạc sẽ lên thay nhà hậu Lê.

     - Câu 8: "Đoài cung ẩn tinh" (Phương Tây có ngôi sao ẩn)

     Cũng Theo Tiên thiên Bát quái th́ "Khảm" ở phương Tây, nhưng ở Hậu thiên Bát quái th́ "Đoài" nằm vào chính Tây. Ư nói nhà Tây-sơn lại lên.

     - Câu 9: "Lục thất niên gian" (Thời gian sáu bảy)

     Sáu cọng với Bảy thành mười ba. Tính theo thời gian Nguyễn Ánh xuất quân vào năm 1789 cho tới năm Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây-sơn, lên ngôi vua (1802) là đúng 13 năm. Câu này ư nói sau 13 năm chiến đấu gian khổ, Nguyễn Ánh đă giành được giang sơn.

     - Câu 10: "Thiên hạ thái b́nh" (Toàn dân thái b́nh)

     Nguyễn Ánh lên ngôi vua rồi th́ thiên hạ thái b́nh.

     Như đă nói ở trên, ba vị thiền sư: Vạn Hạnh, Bố Đại, Sùng Phạm chỉ đoán tới lúc nhà Lê tàn, nhà Lư lên thay, và thay bởi bầy tôi, tức bốn câu đầu. Sau đó cuối đời nhà Lư có thêm một thầy địa lư đoán được nhà Lư suy vong và nhà Trần lấy thiên hạ, tức câu sấm thứ 5. Năm câu c̣n lại, có lẽ do chính Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ lư giải. Mặc dầu sự lư giải của cư sĩ Trần Đại Sỹ, người học rộng hiểu nhiều, rất nổi tiếng về phương diện này, rất hợp với các thời đại xảy ra trong lịch sử, song tôi cũng có một vài chỗ chưa rơ, muốn góp ư thêm hầu được sự chỉ dạy của các bậc cao nhân. Câu 6: "Dị mộc tái sinh" (Cây kỳ lạ sống lại) được cư sĩ dựa theo chữ: " Cây" ám chỉ nhà Lê và nghĩa của sự tái sinh mà đoán là nhà Trần suy vi, được thay thế bởi nhà hậu Lê. Theo lịch sử th́ Hồ Quư Ly giết vua Thuận Tông rồi xưng vương năm 1400. Cuối năm, Hồ Quư Ly truyền ngôi lại cho con là Hồ Hán Thương rồi cả hai cha con chống giặc Minh cho đến năm 1407 th́ bị bắt đưa về Tàu sống cuộc đời lưu đày khổ nhục bên đó. Nhà Minh đặt ách thống trị lên nước ta chưa được bao lâu th́ bị hậu duệ nhà Trần khởi binh đánh lại. V́ thế yếu và thiếu tinh thần đoàn kết, công cuộc khởi nghĩa sau đó bị dẹp tan vào năm 1413. Nước ta bị Tàu tiếp tục đô hộ cho đến năm 1418, Lê Lợi, một thường dân, với sự trợ giúp của Nguyễn Trăi phất cờ khởi nghĩa và măi đến 10 năm sau Lê Lợi mới đuổi được giặc Minh về Tàu, lên ngôi vua năm 1428, lấy vương hiệu là Bắc B́nh Vương và đặt quốc hiệu là Đại Việt. Như vậy, theo sự giải đoán của Trần Đại Sỹ th́ sấm kư bỏ qua giai đoạn nhà Trần bị Hồ Quư Ly tiếm ngôi và sự tan rả của nhà hậu Trần trong công cuộc khởi nghĩa chống quân Minh sau đó, để chỉ thẳng nhà hậu Lê. Điều này nghe cũng tương đối hợp lư v́ sấm kư chỉ có bốn chữ, không thể mô tả hết được. Tuy nhiên với câu 7: "Chấn cung xuất nhật" (Mặt Trời xuất từ phương Đông) mà suy giải là nhà Mạc lên thay nhà Lê, th́ tôi không dám nghi vấn, nhưng c̣n chưa rơ. "Chấn" là một quẻ trong tám quẻ (bát quái) mà theo Hậu thiên bát quái, trấn hưóng Đông. Chấn chủ động, có nghĩa là sấm sét, c̣n "nhật" là mặt trời, có thể tạm hiểu như Trời, như quẻ "Càn", mà sự kết hợp của "Càn" và "Chấn" theo kinh Dịch, tạo nên quẻ "Thiên Lôi Vô Vọng". Theo quẻ này, th́ nội quái là Chấn, nghĩa là hành động, c̣n ngoại quái là Càn (trời), nghĩa là hành động mà hợp với lẽ Trời th́ không càn bậy, và không càn bậy th́ hanh thông, có lợi. C̣n hành động mà không hợp với chính đạo th́ có hại. Nếu xem Mạc Đăng Dung là người cướp ngôi nhà Lê, dâng đất cho địch, và cởi trần tự trói đầu hàng địch theo cách nh́n của sử gia Trần Trọng Kim, th́ có thể coi như nghịch với chính đạo. Nếu nhân cách của Mạc Đăng Dung đúng như vậy th́ rất hợp với quẻ "Thiên Lôi Vô Vọng"; song các nhà khảo cứu như Lê Văn Ḥe, và sử gia hiện đại như Phạm Văn Sơn, tác giả Việt sử Toàn thư, đă chứng minh ngược lại, xem Mạc Đăng Dung như một vị anh hùng, không có hành động đê hèn như cụ Trần Trọng Kim mô tả trong bộ sử: "Việt Nam Sử lược" của cụ. Nếu thế th́ nhà Mạc phải lẫy lừng chứ có lư đâu lại đầu hàng nhà Minh như vậy. Tóm lại, theo tôi, câu 7 với ư nghĩa: "Mặt trời xuất từ phương Đông" cũng vẫn chưa đủ yếu tố kết luận đó là nhà Mạc, dù sự kết luận này không sai với biến cố lịch sử đă qua. Câu 8: "Đoài cung ẩn tinh" (Phương Tây có ngôi sao ẩn) cũng vậy. Chỉ với ư nghĩa của quẻ "Đoài" trấn phương Tây, chủ tịnh, mà lư giải là nhà Tây sơn dấy lên, quả thật cũng chưa thuyết phục được tôi về ư nghĩa của câu sấm đó. Lư do tôi chưa hoàn toàn hiểu thấu cách lư giải của Trần Đại Sỹ trong hai câu 7 và 8 nêu trên là v́ sự kiện này. Có một số nhà sưu tầm sấm kư liệt hai câu:

     "Chấn cung xuất Nhật
     Đoài cung vẫn tinh"

     Chứ không phải: "Đoài cung ẩn tinh" là của cụ Trạng Tŕnh. "Vẫn" có nghĩa là sa xuống, c̣n "Ẩn" có nghĩa là dấu kín, không xuất hiện. Người ta luận giải hai câu này dựa theo ư nghĩa của cung Chấn trong kinh Dịch chỉ về người trên, để nói Nguyễn Nhạc, anh Nguyễn Huệ dấy nghiệp. C̣n câu kế: "Đoài cung vẫn tinh" ám chỉ nhà Tây sơn xuất hiện như cách lư giải của Trần Đại Sỹ. Cách giải này nghe hợp lư hơn. Cả hai câu chỉ nhằm nói về nhà Tây Sơn, chứ không chen nhà Mạc trong đó. Ngoài ra, sấm Trạng Tŕnh ở đoạn khác cũng có mấy câu như sau:

     "Bao giờ Trúc mọc qua sông
     Mặt Trời sẽ lại đỏ hồng non Tây
     Đoài cung một sớm đổi thay
     Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng c̣n
     Đầu cha lộn xuống thân con
     Mười bốn năm tṛn hết số th́ thôi"

      Mấy câu này có nhắc tới Đoài cung, Chấn cung và Mặt Trời đỏ hồng non Tây, dược lư giải đại khái như vầy: Câu đầu ứng với việc Tôn sĩ Nghị khi đến Thăng Long đă cho quân sĩ lập một chiếc cầu nối bằng tre ngang sông Hồng. Câu 2 ứng với việc Tây Sơn Nguyễn Huệ lên làm vua sau khi dẹp được quân Thanh. Câu 3 ứng với việc vua Quang Trung mất sớm, sau hai năm làm vua. Câu 4 ứng với việc Nguyễn Nhạc thổ huyết mà thác\ Cung Đoài theo kinh Dịch chỉ kẻ dưới, nên ứng cho Nguyễn Huệ, vai em; c̣n cung Chấn chỉ kẻ trên, ứng cho Nguyễn nhạc, vai anh, thật hợp với Chấn cung và Đoài cung của hai câu sấm Cổ Pháp. Câu thứ 5 chỉ tên vua Quang Trung và Cảnh Thịnh. Chiết tự chữ "Quang" có chữ "Tiều" ở trên và chữ "Cảnh" có chữ Tiều" ở dưới, nên sấm mới nói: đầu cha lộn xuống chân con. C̣n câu 6 ứng với cơ đồ nhà Tây Sơn chỉ kéo dài được 14 năm. Tóm lại, hai câu 7 và 8 của bài sấm Cổ Pháp, hoặc bài sấm của cụ Trạng Tŕnh với chữ "vẫn" thay cho chữ "ẩn", ám chỉ Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ, nghe hợp lư với tôi hơn là nhà Mạc và nhà Tây Sơn theo như cách lư giải của Trần Đại Sỹ.

     C̣n câu 9: "Lục thất niên gian" (Thời gian sáu bảy), dùng cách cọng 6 với 7 lại thành 13 mà suy luận rằng Nguyễn Ánh sau 13 năm khởi binh đánh Tây sơn thành công và mang lại thái b́nh cho Việt Nam như ư nghĩa của câu 10: "Thiên hạ thái b́nh" (Toàn dân thái b́nh) cũng chưa rơ ràng lắm. Tuy Nguyễn Ánh cất quân đánh nhà Tây Sơn từ năm 1789 cho măi đến năm 1802 mới hoàn toàn chiến thắng, vị chi là 13 năm; song nếu tính lúc Nguyễn Ánh từ Xiêm La về nước để khởi sự đánh Tây Sơn, th́ thời gian lui lại một năm, tức năm 1788, nên con số 13 trở thành 14, không c̣n ứng với: "Lục thất niên gian" nữa. Theo lịch sử, quả đúng là sau nhà Lê, Mạc Đăng Dung tiếm ngôi, đưa đến tŕnh trạng Trịnh Nguyễn phân tranh, kéo theo sự xuất hiện của nhà Tây sơn và cuối cùng là Nguyễn Ánh sau 13, 14 năm chiến đấu diệt được Tây sơn để lấy lại thiên hạ. Cách lư giải của Trần Đại Sỹ về câu 9 dựa theo lịch sử có thể chấp nhận được, song c̣n việc "Thiên hạ thái b́nh" sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi và suốt thời kỳ trị v́ của ông, e rằng không xác đáng. Nguyễn Ánh nhờ Pháp giúp, nhưng dân chúng lại bị khổ v́ bọn thực dân này tới mấy trăm năm, tiếp theo là ma Cộng sản, chứ có thấy thái b́nh chi đâu. Cho nên, theo cách nghĩ thô thiễn của tôi, hai câu sấm này phải ứng vào một sự việc nào khác, hay nói chung 2 câu sấm, từ câu 9 tới câu 10 ám chỉ những biến cố nào đó mà chúng ta chưa lư giải được, nên chi ba vị thiền sư cùng nhà địa lư chỉ giải tới câu 5 mà thôi. C̣n câu 7 và 8 đă có cụ Trạng Tŕnh nhuận bút lại trong sấm truyền của cụ.

     Trở lại hai câu sấm Trạng Tŕnh:

     "Mă đề Dương cước anh hùng tận
     Thân Dận niên lai kiến thái b́nh"

     Chúng ta thử diễn giải xem năm Dậu này có đúng là năm Ất Dậu (2005 Dương lịch) hay không? Chữ "niên lai", theo cách suy luận của tác giả Xuân Phượng trong bài viết dự thi: "Nước Mỹ và sấm Trạng Tŕnh", c̣n có nghĩa là "thiên niên kỷ", cho nên năm Thân và năm Dậu trong câu sấm này được xác định là năm Giáp Thân (đă qua) và Ất Dậu (2005 Dương lịch) là hai năm của đầu niên kỷ. Để củng cố thêm cho sự suy đoán của ḿnh, Xuân Phượng c̣n áp dụng lối chơi chử của cụ Trạng Tŕnh trong chuyện quan toàn quyền Pasquier tử nạn máy bay vào câu "Mă đề Dương cước anh hùng tận" nữa. Theo tác giả, ngoài ư nghĩa bắt đầu năm Ngọ cho tới cuối năm Mùi, chữ "Anh hùng tận" c̣n đọc âm nghe như "Afghanistan". C̣n chữ "niên lai" và "Mă đề" đọc nghe như "Millenium". Điều này cho phép tác giả kết luận các biến cố xảy ra ở hai câu sấm nói trên rơi vào thời điểm bắt đầu thiên niên kỷ, nên Thân Dậu nhất định là hai năm Giáp Thân (2004 Dương lịch) và Ất Dậu (2005 Dương lịch). Theo cái nh́n của cá nhân tôi qua sự nhận định về t́nh h́nh thế giới và Việt Nam như đă tŕnh bày, hai năm Thân Dậu có thể đúng như sự xác nhận của tác giả. Thái b́nh ở đây vừa có thể là thái b́nh thế giới, mà cũng vừa ám chỉ ḥa b́nh tại Việt Nam. Thái b́nh ở thế giới chỉ có thể ló dạng, khi nạn khủng bố và hiểm họa chiến tranh với khối Hồi giáo không c̣n nữa. Ḥa b́nh Việt Nam chỉ có thể manh nha khi Cộng sản Việt Nam biến thể hoàn toàn. Muốn hoàn toàn thái b́nh có lẽ hết năm Dậu, chúng ta c̣n phải đợi thêm hai năm nữa là năm Bính Tuất (2006 Dương lịch) và Đinh Hợi (2007 Dương lịch) như hai câu sấm cũ cụ Trạng Tŕnh đă dẫn ở trên:

     "Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa
     Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày"

     Hai câu này đi sau hai câu:

     "Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu
     Gà kia vỗ cánh chập chùng bay"

mà một số các nhà giải đoán sấm cho là năm Mậu Thân (1968) và Kỷ Dậu (1969). Nếu đúng như vậy th́ năm Canh Tuất (1970) phải có thánh chúa xuất hiện; nhưng nh́n lại lịch sử Việt Nam đă qua, nước ta chưa có thánh chúa nào trong năm này, hoặc có, nhưng chỉ mới chào đời. V́ sấm là thiên cơ (hay nói đúng hơn là nói về thiên cơ), không có một qui lệ nhất định, thành ư và từ cho một biến cố nào đó có thể lập lại như những bài học lịch sử.   Thành thử bốn câu:

     "Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu
     Gà kia vỗ cánh chập chùng bay
     Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa
     Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày"

     của bài sấm "Rồng nằm bể cạn" biết đâu lại ám chỉ cho bốn năm Thân, Dậu, Tuất, Hợi của thiên niên kỷ này không chừng. Nếu đúng thế th́ "Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu" có thể ứng hợp với chiến tranh Iraq và tai nạn sóng thần (Tsunami) vừa mới xảy ra vào ngày 26 tháng 12 năm 2004.

     Trước khi chấm dứt bài khảo luận này, tôi muốn nhắc tới bài "Giáng bút Kim Ô" của Bồ Tác Tuệ Trung vào năm 1944 v́ có một số tiên tri liên quan đến thời điểm bây giờ. Bài giáng bút này như vầy:

     "Như thị ngă văn:
     Kim ô lạc địa
     Tinh đáo thanh thanh
     Xích xích kim tinh
     Đế hệ ngũ thế
     Nhị quỉ tranh phong
     Mộc mă thung dung
     Hoàng long dĩ trảm
     Hầu ngộ thanh dương
     Hắc hắc thiết vi
     Bách tính nam qui
     La sát nhập địa
     Lục trúc cao phi
     Thạc thử kư tận
     Chúng sinh đa nạn
     Nhị thập nhật minh
     Thố ngộ thanh long
     Kê Khuyển ngộ xà
     Địa Tạng tru ma
     Bách tính tôn phục
     Tứ phương qui gia

     Dịch:

     (Như ta nghe rằng
     Quạ vàng rơi xuống
     Sao đến xanh xanh
     Đỏ đỏ sao vàng
     Đế hệ năm đời
     Hai quỉ giành thắng
     Ngựa gỗ thong dong
     Rồng vàng bị chém
     Khỉ gặp dê xanh
     Đen đen sắt vây
     Trăm họ về nam
     La sát vô nước
     Trúc xanh bay cao
     Chuột lớn tạm hết
     Vạn vật nhiều nạn
     Ngày thứ hai mươi
     Thỏ gặp rồng xanh
     Gà chó gặp Rắn
     Địa Tạng diệt ma
     Trăm họ quí phục
     Bốn phương về nhà

      Theo sự diễn đoán của một số đông nhân sĩ, ư nghĩa và sự ứng hợp được ghi nhận như sau:

     - Quạ vàng rơi xuống: Ư nói quân Nhật bại trận và rút khỏi Việt Nam
     - Sao đến xanh xanh: Ư nói Mỹ đến với cờ sao màu xanh.
     - Đỏ đỏ sao vàng: Ư nói sự thắng thế của cờ đỏ sao vàng, tức Cộng sản
     - Đế hệ năm đời: Ư nói triều Nguyễn chấm dứt ở đời thứ năm là Bảo Đại, tức Vĩnh Thụy.
     - Hai quỉ giành thắng: Ư nói Cộng sản và Pháp tranh giành Việt Nam
     - Ngựa gỗ thong dong: Ư nói chỉ năm Giáp Ngọ: 1954
     - Rồng vàng bị chém: Ư nói nước Việt Nam bị chia đôi bởi hiệp định Geneva
     - Khỉ gặp dê xanh: Ư nói ngày 20 tháng 7 năm 1954: Hiệp định Geneva được kư.
     - Đen đen sắt vây: Ư nói Cộng sản cai trị bạo tàn
     - Trăm họ về nam: Ư nói Di cư vào Nam
     - La sát vô nước: Ư nói Liên sô vào miền Bắc
     - Trúc xanh bay cao: Ư nói ông Ngô Đ́nh Diệm chấp chánh, v́ Trúc là dấu hiệu của ông.
     - Chuột lớn tạm hết: Ư nói tham nhủng chấm dứt
     - Vạn vật nhiều nạn: Ư nói vạn vật lầm than
     - Ngày thứ hai mươi: Ư nói ngày 30 tháng 4 năm 1975, chúng ta mất nưóc
     - Thỏ gặp rồng xanh: Ư nói ngày 30 tháng 4 tức 20 tháng 3 Âm lịch năm Ất măo. Tháng 3 là rồng, c̣n năm Măo là Thỏ.
     - Gà chó gặp Rắn: Ư nói năm 2001, 2005, 2006
     - Địa Tạng diệt ma: Ư nói Địa Tạng Bồ Tát diệt ma cộng sản
     - Trăm họ quí phục: Ư nói bá tánh tuân phục
     - Bốn phương về nhà: Ư nói người Việt hồi hương

     Qua bài Giáng Bút này, tôi đặc biệt để ư đến bốn câu cuối cùng. Trong bốn câu này, th́ câu thứ nhất xác định thời điểm của biến cố, câu thứ hai chỉ nhân vật chánh của biến cố, và hai câu cuối cùng nói lên kết quả của biến cố. Cũng như cụ Trạng Tŕnh Nguyễn Bĩnh Khiêm, thời điểm Bồ Tát Tuệ Trung nhắc tới cũng không có thiên can đi cùng. Thời điểm này theo tác giả Nam Thiên trong tác phẩm: "Sấm kư và Giáng Bút với Việt Nam 1925-2025", là năm 2001 (Tân Tỵ), 2005 (Ất Dậu), 2006 (Bính Tuất). Rồi ông dựa thêm vào ba câu cuối của bài sấm Non Đoài:

     "Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu
     Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
     T́m về quê cũ bắt ngựa tàu"

     trong đó năm Nhâm Ngọ (2002), đoán là năm việt kiều thong thả thoải mái trở về lại Việt Nam, để xác định năm 2001 (Tân Tỵ) là năm Địa Tạng tru ma. Khi đă xác định Rắn là năm Tân Tỵ, tác giả Nam Thiên liền dùng "Gà" và "Chó" trong câu sấm để suy diễn ra ngày tháng của năm Tân Tỵ. Nếu Kê chỉ tháng th́ là tháng 8 âm lịch, c̣n Khuyển chỉ tháng th́ là tháng 9 âm lịch. Trong tháng Kê ta có hai ngày Khuyển là ngày 11 và 23; c̣n trong tháng Khuyển, ta có hai ngày Kê là ngày 10 và 22. Nh́n lại biến cố đă qua trong năm 2001 và 2002, chúng ta thấy sau vụ hai ṭa nhà chọc trời ở Nữu ước bị máy bay khủng bố làm sập ngày 11 tháng 9 năm 2001, Hoa Kỳ đă mở rộng chiến tranh chống khủng bố trên khắp thế giới mà quốc gia đầu tiên là Afghanistan. Việt Nam vào thời điểm đó chỉ có sự kiện nhà cầm quyền tiếp tục chính sách đàn áp tôn giáo và chà đạp nhân quyền, chứ chẳng có biến cố quan trọng nào khác, khả dĩ ứng nghiệm với câu sấm: "Địa Tạng tru ma". Nếu ma đây là bọn khủng bố, th́ người tru diệt họ là Hoa Kỳ, là Tổng thống Bush, không phải là ngài Địa Tạng. Cho nên, câu: "Gà chó gặp Rắn", theo tôi, có thể có nghĩa là sau hai năm Gà (Dậu, 2005 Dương lịch), Chó (Tuất 2006 Dương lịch), Việt Nam sẽ hết nạn Cộng sản.    Công cuộc kiến thiết đất nước từ đó bắt đầu và kéo dài cho đến năm Rắn (Tỵ 2013 Dương lịch) th́ hoàn măn. Lúc đó Việt Nam vang danh bốn bể và nhân tài khắp nơi lủ lượt kéo về, ứng với hai câu:

     "Trăm họ quí phục
     Bốn phương về nhà"

     Cách suy diễn này của tôi có lẽ hợp với lối suy diễn khác của tác giả Nam Thiên trong bài Sấm Non Đoài của cụ Trạng Tŕnh:

     "Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
     Có một đoàn xà đánh lộn nhau.
     Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng,
     Lợn kia làm quái phải sai đầu.
     Chuột nọ lăm le mong cắn tổ,
     Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu.
     Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
     T́m về quê cũ bắt ngựa tàu"

     Theo lối giải đoán bài sấm này th́ tác giả Nam Thiên cho rằng câu: "Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu" ứng hợp với năm 2002, và vào thời điểm này dân Việt tị nạn cộng sản sẽ thong thả thoải mái trở lại quê hương. C̣n "Hùm" trong câu: "Hùm ở trên rừng gầm mới dậy", tác giả Nam Thiên suy đoán là năm Canh Dần 2010, c̣n "ngựa" trong câu: "T́m về quê cũ bắt ngựa tàu" là năm Giáp Ngọ 2014. Chữ "tàu" ở trong câu: "Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu" là tàu ngựa, chuồng ngựa; c̣n "tàu" trong câu: " T́m về quê cũ bắt ngựa tàu" là Trung cộng. Vào thời điểm đó, tức khoảng năm 2014, chẳng những Việt Nam vang danh bốn biển mà người Việt khắp nơi c̣n trở về định cư, và bắt Trung cộng phải trả lại những phần đất và lănh hải Cộng sản Bắc việt đă khiếp nhược dâng cho chúng. Đó là ư nghĩa của câu "bắt ngựa tàu". Bọn Trung cộng tuy đă được nhà nước Cộng sản Việt Nam kư hiệp định: Vịnh Bắc Bộ dâng lănh hải cho họ với chiêu bài hợp tác đánh cá để che mắt nhân dân, vẫn chưa vừa ḷng tham và ác tâm. Ngày 8 tháng 1 năm 2005 vừa qua, tàu Trung cộng đă xả súng bắn chết 9 ngư dân, làm bị thương 7, và bắt giữ 8 người, khi các ngư dân đang đánh cá trong lănh hải của ḿnh. Đă thế Trung cộng c̣n coi thường quốc tế công pháp, lật lọng vu cáo các ngư dân Việt Nam là cướp biển nữa. Sự kiện nói trên đă hun đúc trong ḷng người dân Việt Nam một mối hận to lớn, và khi có cơ hội, họ sẽ đoàn kết bắt ngựa Tàu. Biến cố này chắc chắn sẽ xảy ra trong năm 2014, nếu Ngựa đây ám chỉ đúng năm Giáp Ngọ, 2014 Dương lịch.

     Như vậy, theo cách suy diễn của tôi dựa theo bài Giáng bút Kim Ô của Tuệ Trung Thượng Sỹ th́ năm Quư Tỵ 2013 Việt Nam sẽ vang danh bốn bể, c̣n theo lối suy diễn của tác giả Nam Thiên trong bài sấm Non Đoài của cụ Trạng Tŕnh th́ năm đó là năm Giáp Ngọ 2014, khác nhau một năm. Tuy nhiên, như chúng ta biết, ở các câu sấm và giáng bút, các Ngài thường cho hai năm đi chung với nhau, chẳng hạn như: "Mă đề, Dương cước anh hùng tận", "Thân Dậu niên lai kiến Thái b́nh", "Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa, ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày", v.v.. Như vậy, thời gian anh hùng tận phải kéo dài hai năm (Ngọ Mùi), thời gian kiến thái b́nh cũng kéo dài hai năm (Thân. Dậu), và thời gian ḥa b́nh thịnh vượng cũng xảy ra trong hai năm (Tuất, Hợi). Cho nên thời gian Việt Nam hoàn tất công cuộc kiến tạo đất nước và vang danh bốn bể cũng sẽ xảy ra trong hai năm (Tỵ, Ngọ). Tuy nói kéo dài trong hai năm, nhưng biết đâu nó cũng mang ư nghĩa là biến cố sẽ xảy ra trong một hoặc hai năm. Thành thử 2013 hay 2014 đều đúng cả. Tùy duyên, thời điểm có thể thay đổi đôi chút, và điều này không sai với thuyết: Nghiệp quả (Karma) của đạo Phật. Mỗi chúng sinh đều mang nghiệp, nên một quốc gia, hay một thế giới đều có nghiệp riêng. Sấm là cái nh́n thấu đáo được nghiệp, và v́ nghiệp thường chịu ảnh hưởng bởi duyên, nên thời gian hoặc chi tiết của sự việc có thể sai lệch đi một chút, là chuyện b́nh thường. Chỉ có điều tôi c̣n phâ n vân chưa đoán đích xác được tại sao Bồ Tát Tuệ Trung lại gọi đích danh Bồ Tát Địa Tạng làm cái công việc diệt trừ ma Cộng sản qua câu: "Địa Tạng tru ma". Hạnh nguyện của Bồ Tát Địa Tạng là vào tận địa ngục để cứu hết tất cả chúng sanh. Nếu c̣n một chúng sanh nào bị đau khổ trong địa ngục, Ngài nhất định sẽ không thành Phật. Như vậy bảo Ngài diệt ma th́ thật không phù hợp với ḷng từ bi rộng lớn của Ngài, ngoại trừ ma đây là ma chướng, là vô minh. Muốn hết khổ đau người ta phải chấm dứt vô minh, nên ư nghĩa "diệt ma" ở đây là chuyển hóa người Cộng sản, đưa họ ra khỏi địa ngục trần gian mà họ đang bơi trong đó, hơn là tiêu diệt ho. Tiêu diệt chủ thuyết họ đang tôn thờ th́ đúng hơn. Các vị tu sĩ Phật giáo đang c̣n ở lại trong nước tranh đấu cho nhân quyền, cho tự do tôn giáo cũng giống như Địa Tạng vương Bồ Tát vào địa ngục cứu vớt chúng sanh. Việt Nam dưới ách thống trị của Cộng sản là một thứ địa ngục, nên việc ở lại Việt Nam để đấu tranh tức là vào địa ngục. Theo tôi nghĩ, đó là lư do tại sao Bồ Tát Tuệ Trung ví các ngài tu sĩ Phật giáo như Địa Tạng vương Bồ Tát. Nh́n vào công cuộc tranh đấu chống bạo quyền Cộng sản hiên nay của quư Tăng ni thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tiêu biểu là Đức Tăng Thống Thích Huyền Quang, Viện trưởng Viện Hóa Đạo Thích Quảng Độ, Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo Thích Tuệ Sĩ, v.v..., chúng ta không thể nào phủ nhận câu: "Địa Tạng tru ma" ám chỉ các Ngài. Nếu đúng như thế, chủ nghĩa Cộng sản sẽ tàn rụi không lâu và năm Ất Dậu này sẽ chớm thêm dấu hiệu: "Thân Dậu niên lai kiến thái b́nh".

     Một bài giáng bút khác vào năm 1938, có tên là "Thiên Cơ" từ Thánh Mẫu Vân Hương, tức công chúa Liểu Hạnh, cũng có sáu câu cuối như vầy:

     "Quỷ ma biến hết đi đời
     Phụ nguyên trời đă định ngôi sẵn sàng
     Chó mừng tân chủ rỡ ràng
     Gần xa tấp nập lên đường hồi hương
     Long Hoa vẫn thuở biên cương
     Rồng tiên con cháu Việt thường vẻ vang"

     Các câu khác trong bài sấm đều được chiêm nghiệm đúng với các biến cố xảy ra tại Việt Nam. Quỷ Tây ma Cộng sẽ bị tru diệt hoàn toàn như bài giáng bút của Tuệ Trung Thượng sĩ xác định, và một vị khai sáng kỷ nguyên mới xuất hiện mang lại ḥa b́nh cho đất nước. Nếu ghép chữ "Phụ" và chữ "Nguyên" lại th́ thành "Nguyễn", cho nên theo cách người ta suy đoán, vị thánh nhân đó có thể là người mang họ Nguyễn. Năm Tuất (2006 Dương lịch) là năm "mừng tân chủ" để sau đó "gần xa tấp nập lên đường hồi hương. Hai chữ Long Hoa có thể chỉ hội Long Hoa xét tội định công để chỉ c̣n có một số nhỏ hiền nhân dưới cơi trần này trước khi tiến tới thời Thượng Ngươn Thánh Đức, mà cũng có nghĩa là thời kỳ thanh b́nh, âu ca. Con cháu Việt sẽ vang danh bốn bể. Sấm của Nostradamus cũng tiên đoán điều này đồng thời xác quyết một vị khai sáng kỷ nguyên sẽ ra đời, và vị này có thể là ngươi Việt Nam qua mấy câu:

     "Trong số những người bị lưu đầy ra các đảo,
     Có một người sinh ra tại Hai Cái Răng ở vùng Vịnh:
     Họ sẽ chết đói, cây cối bị tuốt trụi lá.
     Đối với họ, đây là vị vua mơí, đạo luật mới rèn luyện họ."

     Tóm lại, qua các câu sấm và các bài giáng bút, một kỷ nguyên mới sẽ được tạo dựng trên hoàn cầu, hoặc chỉ trên đất nước Việt Nam của chúng ta trong một tương lai gần đây. V́ lời Sấm và cơ bút bí hiểm, không có thiên can đi kèm với địa chi để xác định thời gian rơ ràng, nên sự chuẩn xác của các biến cố ở những thời điểm tŕnh bày trong bài viết hoàn toàn dựa theo sự suy đoán và chiêm nghiệm của các bật thức giả Đông Tây. Cho dù kết quả như thế nào, chúng ta cũng thấy được điều này: Mọi sự việc đều vô thường (Chư hành vô thường) và mọi kết quả đều cấu thành trong tương quan nhân quả. Không có một sự vinh quang nào mà không có lúc cáo chung, cũng như không có địa ngục nào mở cửa măi măi. Với hạnh nguyện cao cả cứu độ tất cả chúng sinh, bồ Tát Địa Tạng nhất định sẽ là người khép lại cánh cửa địa ngục trước khi Ngài nhập Niết Bàn, thành Phật. Sấm kư, cơ bút không phải là những giáo điều cứng ngắt với những biến cố hoặc thời gian cố định v́ bên cạnh Nhân quả, chúng ta c̣n có Nhân Duyên. Một cái nhân (như hạt giống) sẽ chóng sinh ra quả (như cây trái) nếu đầy đủ duyên (như đất, nước, phân bón), hoặc có thể chậm sinh hay tàn rụi, nếu thiếu duyên. Định luật này là định luật chung của vũ trụ (universal law), chứ không phải riêng ǵ của Phật giáo. Hiểu được luật đó, chúng ta mới không thất vọng khi thấy kết quả của sấm kư và cơ bút, khi chiêm nghiệm, có vài thay đổi. Chúng ta là những người đứng dưới đất phóng tầm nh́n về phía xa, không thể thấy biết hết được tất cả sự vật phần v́ giới hạn của thị giác, phần v́ sự che khuất của các vật chướng ngại. Các cao nhân lưu lại sấm kư hoặc giáng bút là những thánh nhân, ví như người đứng trên đỉnh núi cao, lại có thêm thị lực siêu việt nên các Ngài có thể thấy xa và cái thấy của các Ngài không bị giới hạn. Những cái thấy của các Ngài lưu lại cho chúng ta không ngoài ư nghĩa khuyến tu và tạo dựng niềm tin cùng hy vọng cho những ai muốn học hỏi. Nó không phải là dị đoan mà là nghệ thuật. Mong tất cả chúng ta nh́n nó và hiểu nó bằng cái nh́n và tâm trí mang đầy nghệ thuật. "Thân Dậu niên lai" có "kiến thái b́nh" hay không, cũng là câu hỏi đầy nghệ thuật mà người đóng tuồng cũng như khán giả đều góp phần và trách nhiệm.

Xuân Đấu
Quay trở về đầu Xem thiennhan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thiennhan
 
NhapMon
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 283 of 585: Đă gửi: 31 January 2007 lúc 12:04pm | Đă lưu IP Trích dẫn NhapMon

Trích: THÂN DẬU NIÊN LAI KIẾN THÁI B̀NH
Xuân Đấu     8/17/2006

"Chẳng hạn như câu: "Bát Kê thử ư tử địa" với h́nh cây kiếm chém đứt đầu tám con gà do cụ Trạng Tŕnh ghi trên mộ bia dựng tại vùng Cổ Am gần từ đường họ Trần ở trang ấp vua phong cho Hưng Nhược Vương Trần Quốc Tảng."

Chuyện mộ bia trên đây không biết thực hư thế nào, các bác có ai may mắn đă trông thấy nó chưa ?

__________________
NhapMon
Quay trở về đầu Xem NhapMon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi NhapMon
 
linhlinhlinh
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 25 November 2006
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 140
Msg 284 of 585: Đă gửi: 31 January 2007 lúc 1:19pm | Đă lưu IP Trích dẫn linhlinhlinh

Cám ơn bác T.N về bài viết..về Thời như vậy là hợp lư đấy.2013 một trận chiến lớn sẽ giải phóng Trường-Sa -> Xác lập chủ quyền tuyệt đối của VN trên 2 quần đảo Trường-Sa & Hoàng-Sa
Quay trở về đầu Xem linhlinhlinh's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi linhlinhlinh
 
thiennhan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 634
Msg 285 of 585: Đă gửi: 31 January 2007 lúc 10:09pm | Đă lưu IP Trích dẫn thiennhan

Trích bài phân tích Sấm Kư của tác giả VQT
[code]VQT     8/14/2006
Khi tôi lật lần trang "Sấm" của "Kinh-Việt" do Nam Thiên Nguyễn Đức Sách viết. Tôi chợt nhớ đến những người hành động luôn đi t́m cơ hội. Cơ hội hợp với trời, hợp với người và đúng lúc. Đôi khi chỉ là bước thang thứ nhất để con cháu kế tục. Nhưng nếu thuận tiện ta có thể đi nốt con đường trong chủ đích giúp nước cứu dân. “Cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối” như lời bà Triệu, bậc “Trinh nhất phu nhân” đă thề hứa. Tôi nghĩ đến quí vị và những lời nầy mạo muội gởi tới như là một gợi ư.

     Trong bài thứ 27, “Bàn về giải Sấm,” trang 391, có bài thơ của Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm, người theo đạo Giáo, tay lư số Thái Ất nổi tiếng đến nỗi ḍng Hoa-Hạ phải kính phục: “An Nam lư học hữu Tŕnh Tuyền.” (Tŕnh Tuyền tức Tŕnh Tuyền hầu tước của cụ). Riêng đối với dân tộc ta th́ lịch sử thời Trịnh Nguyễn đă minh chứng rơ rệt, không ai chẳng biết. Họ Trịnh cho sứ vào hỏi thái độ đối với vua Lê. Cụ trả lời: “Giữ Chúa được ăn oản.” Nguyễn Hoằng sai người đến vấn kế, cụ nói: “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân.” Chúng ta đă công nhận nhà Nguyễn lập công đầu trong việc mỡ mang bờ cơi về phương Nam.

     Tôi vội vàng chép ngay: “Bài sấm cho hiện tại.”

     Rồng nằm bề cạn dễ ai hay,
     Rắn mới hai đầu khó chịu thay,
     Ngựa đă gác yên không người cưỡi,
     Dê không ăn lộc, ngảnh về tây.
     Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu,
     Gà kia vỗ cánh chậy chùng bay.
     Chó nọ vẫy đuôi mừng Thánh Chúa.
     Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày.

     Ông Nam Thiên đă bàn nhưng chưa xảy ra. V́ sấm là lời của một người. Ai hiểu sao th́ hiểu, nhưng nếu tâm tư linh mẫn; hai tư tưởng chủ khách thông đạt th́ cái lư cũng chỉ đơn giản thôi. Người theo đạo Giáo cho rằng, việc trời ai ngộ được là do trời cho.

     Đối với người lănh đạo th́ không quan trọng. V́ là người hành động, khi có duyên may thấy được hiện tượng ǵ th́ họ sắp xếp để hành động và gơ cửa nhà trời. Theo thuyết “thiên nhân tương dữ” th́ ư trời cũng là ư người vậy.

     Đọc bài thơ trên, chúng ta nhận ra một điều là trong 12 con giáp: khởi từ một là Tí, Sửu, Dần, Măo, Th́n, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất và Hợi th́ đă có tám con liên tục tŕnh làng là: Th́n, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất và Hợi. Để xác nhận một đơn vị Giáp tí là 60-năm hay gọi là một nguyên, ta lấy thập can (10-gốc): Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm và Quí ghép tuần tự với thập nhị chi (12-cành) tức là 12 con giáp ở trên. Bắt đầu là Giáp Tí, đến 60 là Quí Hợi ta được một nguyên.

     Đây là đơn vị của một đời người. Chu kỳ vận hành của ba ngôi sao cùng bắt đầu. Theo sự nghiên cứu của các nhà khí tượng th́ sao Mộc quay quanh mặt trời 1-ṿng 12-năm, sao Thổ 30-năm và sao Thủy 59-năm. Cả 3-sao cùng trong khoảng 60-năm là bắt đầu. Trong 3-nguyên của Giáp Tí là 180-năm th́ 9 hành-tinh lớn cùng ở về một phía của mặt trời, hội họp trên một giải hẹp h́nh quạt. Con người chịu ảnh hưởng của tinh tú là xạ tuyến của vũ trụ. Nên trong phong-thủy có cung Phi coi về bát-trạch.

     Tôi ghi lại 3-nguyên hiện đại và mỗi nguyên chia làm 3 là 20 năm mà các nhà phong-thủy quan niệm rằng: Nếu ở trong nhà nên mở cửa hoặc cửa sổ để đến khí hạo nhiên, nơi phương vị ảnh hưởng, giúp con người bền bỉ và thông minh hơn.

Thượng Nguyên:

1. Từ năm 1864—1883-------Cung Khảm
2. Từ năm 1884—1903-------Cung Khôn
3. Từ năm 1904—1923-------Cung Chấn

Trung Nguyên:

4. Từ năm 1924—1943-------Cung Tốn
5. Từ năm 1944—1963-------Cung Giữa
6. Từ năm 1964—1983-------Cung Càn

Hạ Nguyên:

7. Từ năm 1984—2003-------Cung Đoài
8. Từ năm 2004—2023-------Cung Cấn
9. Từ năm 2024—2043-------Cung Ly

     Hiện chúng ta đang ở vào nguyên cuối của tam nguyên gọi là hạ nguyên. Hạ nguyên th́ phân tán nên gọi là hạ mạt. Nếu các gia đ́nh đồng ư với họ th́ của hoặc cửa sổ phía Tây, Đông Bắc và Nam của căn nhà hoặc sở làm nếu thuận tiện nên mở cửa ban ngày đón khí.

     Trong ngành Thái Ất học: “V́ thời gian Thái Ất t́m về gốc quá khứ, nếu tính đến năm Canh Th́n (2000) có con toán 10.555-917. Đó là con số, “Tích tuế” tính ở điểm “thất diệu tề nguyên” nghĩa là ở thời có hiện tượng 7 v́ sao cùng đứng hàng ngang với mặt trời và mặt trăng được biệt danh là “thượng cổ Giáp Tí.””

(Trích trong lời đề đáp của Nguyễn Đoàn Tuân trong Thái Ất Thần Kinh do Thái Quang Việt dịch)

     Khi dơi theo tương lai quốc gia, người có tài lư số Thái Ất gọi là quyền năng “thông thần, xuất quỉ nhập thần” thường muốn đồng bào an cư lạc nghiệp, quê hương thạnh trị ở giai đoạn thời điểm nào. Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) đă để lại rất nhiều bài “sấm,” sấm trạng Tŕnh, nói về đất nước ta. Cả trong những tập thơ cũng chen vào rất nhiều bài thơ sấm đoán định tương lai đất nước.

     Bức tranh tang thương trong thời ông là sự nhiễu nhương xă hội. Nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, nhà Lê trung hưng, vua Lê Chúa Trịnh, Trịnh Nguyễn đàng ngoài đàng trong phân tranh. Chắc chắn ông mang tâm trạng t́m thánh Chúa, để trăm họ an vui lâu dài. Qua trang sử kế tiếp, ngôi sao Quang Trung uy dũng đuổi quân Thanh, thống nhất đất nước quá ngắn ngủi. Nhà Nguyễn Gia Long chỉ được 50-năm là Pháp đến đô hộ. Vua Hàm Nghi bôn tẩu hạ chiếu cần vương được các sĩ phu hưởng ứng nổi lên khắp nơi. Giữa cơn phong ba băo táp đó, đất nước bị nước chủ thuyết vô thần Cộng Sản đến. Đau thương và tang tóc trải dài trong ḷng dân tộc.

     Nhà lư số Nguyễn Bỉnh Khiêm đă ngừng lại ở hiện tượng biệt danh là “thượng cổ Giáp Tí” là “thất diệu tề nguyên,” tức là năm canh th́n 2000. Ông soi rọi mọi cách để t́m xem thánh Chúa có không.

     “Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh Chúa.”

     Đọc qua bài thơ trên, ta thấy 4 câu thực và luận, không đối nhau chỉnh, hay nói cách khác là rất gượng ép trong đối ư, đối lời. Vậy cụ Trạng không mời các nhà nho. Đạo Nho nghịch với đạo Giáo trong lư tưởng sống. Một bên ép ḿnh thờ vua giúp nước, một bên thênh thang thơ túi rượu bầu. Vậy cụ gởi cho người b́nh dân Việt Nam. Người b́nh dân cần hiểu để chào đón. Khi Thánh Chúa về, Thánh Chúa xuất hiện th́ trăm họ phải biết, phải muôn ḷng như một, hoan hỉ chào đón. Khi Thánh Chúa xuất hiện mà dân ta không biết để bị mang tiếng là ngu sao! Tôi nói như vậy là có ư nói rằng hôm nay chưa là sự thực th́ hàng lănh đạo luôn thức tỉnh và sẵn sàng hô hào toàn dân chờ đợi đúng lúc lũ lượt tập trung hoan hỉ đón chào.

     Bài thơ rất quan trọng cho kẻ sĩ, người có tâm huyết dựng xây nước nhà, góp công sức trong công cuộc bảo vệ dân tộc. Nhưng cái khó của kẽ sỉ là trằn trọc thâu đêm, suy nghĩ suốt thời bôn ba v́ mất nước cũng t́m chưa ra giải đáp, t́m chưa ra minh chúa. T́m chưa ra không có nghĩa là dừng lại hay thối lui mà rèn kiếm mỗi ngày chờ đợi. Tôi đă đọc thấy sinh khí của những kẻ sĩ Việt Nam. Đang bừng lên sức sống, đang vươn ḿnh đứng dậy, đang xắn cao tay áo vùng lên. Đó là hiện tượng đa đầu hiện nay. Khi hiện tượng đa đầu đến tột cùng là lúc dốc tâm ủng hộ một người của một nhóm lănh đạo, bằng tâm phục khẩu phục. Chính là lúc đoán kết thành một khối sức mạnh, là chính lúc hành động.

     Chúng ta điểm lại nét lịch sử lập quốc:

     Lạc Long Quân (Rồng) cưới Âu Cơ (Tiên), sinh ra 100-trứng, (được trời đất bảo bọc) nở 100 con trai (Bách Việt). (V́ hạnh phúc đến đâu cũng có lúc chia tay) Kêu vợ tới bảo: “Ta là giống rồng (dũng mănh), nàng là giống tiên (thuần hậu) nên nàng đem 50 con lên núi (mở mang) c̣n ta đem 50 con xuống biển (tung hoành). (Khắng khít nhắc nhở) “khi cần th́ gọi, ta về ngay.”

     Đây là chủ đạo của tộc Việt. Đă trải qua 1,000 năm đô hộ giặc Tàu, 100 năm đô hộ giặc Tây, 30 năm nội chiến, 30 năm Cộng Sản nắm quyền, gia tài của mẹ chỉ là nước Việt buồn chứ chẳng bao giờ bị đồng hóa.

     Và hôm nay Cộng Sản quá sợ quan thầy Trung Cộng nên bị Trung Cộng giở đủ các chiêu thức của thủ thuật manh-xảo:

•    Cho người mỗi ngày qua VN cưới vợ và ở lại làm ăn.

•    Kư nhiều lần về hiệp ước ranh giới, xê dịch qua lại nhiều lần để Cộng Sản nao núng không c̣n chủ động.

•    Bắn giết và giam cầm người Việt đánh cá trong hải phận ḿnh và tri hô là cướp biển nhưng không bằng chứng.

•    Đặt một vài căn cứ quân sự ngầm trong hải địa Việt Nam.

•    Nhập hàng lậu, thao túng thị trường Việt Nam.

     Bởi vậy lịch sử của ta khi lập quốc là “Động đ́nh hồ mẹ ru con ngủ” mà ngày nay chỉ c̣n Thiên Ma Lănh (danh từ H.O. gọi khi ở tù) sắp bị làm ranh rồi đó.

     Đất nước mất dần như vậy, dân ta uất ức đă hô hào khẩu hiệu “Trả ta sông núi” nhưng toàn dân đang im hơi lặng tiếng chờ đợi Thánh Chúa. Khi chia tay Lạc Long Quân khắng khít dặn Âu Cơ: “Khi cần th́ gọi, ta về ngay.”      

     Nên hôm nay sứ điệp của mẹ tiên đă gọi mỗi ngày qua báo chí, phát thanh:

     Bán phụ nữ qua Campuchia làm điếm, kể cả 11 và 12 tuổi, mà cả thế giới đều hay.

     Mua chỉ một người nữ về làm vợ cho cả nhà ở Đài Loan.

     Cưới vợ về để làm nô t́ hành hạ ở Trung Quốc.

     Người Việt ở quốc nội và khắp nơi trên thế giới hôm nay đang ước nguyện Thánh Chúa về, để cứu nước yên dân. Kẻ sĩ đang sẵn sàng xông trận theo pḥ Thánh Chúa. Người lănh đạo nhân hậu và minh mẫn. Nhân hậu v́ “thánh nhân bất đắc dĩ dụng h́nh” chỉ sử phạt “đái tội lập công.” Minh mẫn để thưởng phạt phân minh, phân biệt phải quấy để yên ḷng trăm họ.

     Với cái mốc “thất diệu tề nguyên” tức là năm 2000, năm Canh Th́n, ta nh́n thẳng vào bài sấm cho hiện tại:

1) “Rồng nằm bể cạn dễ hay.”

     Th́n là Rồng, Canh là Kim, Kim loại—kim loại ở trong đất v́ do đất sinh ra. Vậy Rồng là Thủy, nằm bể cạn là đất, mà không ai hay là kim dấu trong đất tức là Canh Th́n.

2) “Rắn mới hai đầu khó chịu thay.”

     Người ta vẽ con rồng là cổ con rắn mà Tân ở đây là mới v́ Canh Tân. Nên rắn mới hai đầu là Tân Tị vậy.

3) “Ngựa đă gác yên không người cỡi.”

     Trong tử vi, quan điểm thiên mă ở hội tức là nhâm là ngựa cùng đồ. Về sau ông Thiên Lương cho rằng là ngựa 5-con 4-cửa th́ đều chạy được hết. Nên ngựa cùng đồ là ngựa cất yên không cỡi. Vậy là Nhâm Ngọ rồi.

4) “Dê không ăn lộc ngảnh về Tây.”

     Trong biến tự của thập can th́ nhâm là vương mà quí là trời. Xưa chỉ có vua và trời ban lộc mà thôi. Khi chăn dê nếu trời sang chiều mặt trời xế, dê sợ sói nên ngảnh mặt nh́n mặt trời đang xuống hướng tây là ư muốn về, không ăn lộc trời cho nữa. Tức là Quí Mùi vậy.

5) “Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu.”

     Ta biết rằng trong bát quái, phương Đông Giáp thuộc Mộc, chủ sinh sản, nói về gia đạo. Hơn nữa Giáp đứng đầu thập can là mẹ của thập can. Đúng là Giáp Thân. Tính của khỉ khi bị bẫy vào trong lồng chúng ôm nhau khóc thiểu năo tức là thân mang giáp.

6) “Gà kia vỗ cánh chập chùng bay.”

     Khi gà đang ăn ngoài vườn nghe sấm sét chúng vùng lên bay vào nhà ẩn nấp. Sấm là sấm sét, quả chấn phương đông. Thuộc Ất vị. Vậy là Ất Dậu rồi.

7) “Chó nọ vẫy đuôi mừng Thánh Chúa.”

     Chúng ta đồng ư rằng ban ngày chó thấy vẫy đuôi mừng. Ban đêm nghe động chó sủa bất chấp người hay ma (8). Thời điểm ngày chỉ có Bính Đinh thuộc Hỏa, có mặt trời nóng thôi. Vậy là Bính Tuất.

8) “Ăn no ủn ỉn, lợn kêu ngày.”

     Câu này làm sáng tỏ câu trên. V́ chữ ngày là Đinh Hợi vậy.

     Bài sấm hàm ư năm Bính Tuất 2006, Thánh Chúa về. Năm 2007, năm Đinh Hợi mở tiệc mừng.

Việt Nam muôn đời luôn nhắc nhở chúng ta lời minh định quyết liệt của lăo tướng họ Lư-Lư Thường Kiệt,

     “Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư …”

Trân Trọng,

VQT

(1)      Thời là vào đúc lúc
(2)      Tŕnh Tuyền tức Tŕnh Tuyền hầu tước của cụ
(3)      Thập can nghĩa là 10-gốc
(4)      Thập nhị chi tức là 12-cành
(5)      Phần lập luận này được trích trong lời đề đáp của Nguyễn Đoàn Tuân trong Thái Ất thần kinh do Thái Quang Việt dịch
(6)      Trích từ sách Bách Việt
(7)      Đây là danh từ H.O. đă gọi khi ở tù
(8)      Người hay ma là để diễn tả về bóng dáng

VQT


Sửa lại bởi thiennhan : 31 January 2007 lúc 10:14pm
Quay trở về đầu Xem thiennhan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thiennhan
 
NhapMon
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 286 of 585: Đă gửi: 04 February 2007 lúc 12:46pm | Đă lưu IP Trích dẫn NhapMon

"Thời sau này sẽ có một vị “Thánh nhân Thiên tử” ra đời trị v́ phục hưng đất Việt lẫy lừng, chứ không như những vị vua b́nh thường như những thời gian trước, v́ vậy Sấm Trạng vừa muốn cho biết vừa ngại ngùng không muốn tiết lộ hết, v́ e ngại Bắc phương có thể làm hại tới đại long mạch nơi Thánh nhân sẽ sinh ra, như là thời Cao Biền dùng đủ mọi thủ đoạn ác độc để tiêu diệt đại long mạch, nhưng thất bại rồi sau bị chết thảm, và phương Bắc vẫn tiếp tục bí mật cho đến sau này cũng c̣n có những mưu toan diệt những đại long mạch của đất Việt, để không c̣n có sinh ra những thiên tài, nhằm mưu đồ xâm chiếm đất Việt. Không nói th́ hậu thế mịt mù tăm tối thấy đường nào có hy vọng c̣n sinh tồn và giữ ǵn đất nước ?, nói ra th́ tiết lộ sự việc. Nhưng Sấm Trạng cũng biết thiên thời vận khí, cho nên cũng ám chỉ cho biết rằng nước Việt đă đến thời hưng thịnh rồi, có muốn làm hại, cũng chẳng được đâu, như câu:

305 – Nói ra th́ lậu sự đời
306 - Trái tai phải lụy tài trai khôn luần
307 - Nói ra ám chúa bội quân
308 – Đương thời đời trị xoay vần được đâu ?

Đi t́m giải mật mă mà không có ch́a khóa th́ cũng chỉ làm một việc “trà dư hậu tửu”, nhưng Sấm Trạng hàng trăm năm nay vẫn là đề tài thú vị cho mọi người, cho nên cũng thử phân tích xem sao, không quan niệm là giải đoán mà chỉ phân tích và dùng cách suy luận để đưa ra ư kiến, mỗi ư kiến đều nên có tánh khách quan, trung thực (không suy luận sửa đổi câu Sấm theo ư riêng), tôn trọng lắng nghe mọi ư kiến khác, nếu không cùng ư th́ nên dùng lời “nho nhă” để phản biện ư người khác … th́ chủ đề này mới trở thành thú vị và được nhiều người cùng nhau giải mă được phần nào “mật mă” của Sấm Trạng."

Thiennhan


H́nh 1: Đền thờ Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm - làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại (nay là xă Lư Học, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Pḥng)
Source: Dienbatn, thegioibuangai.com

...
SẤM TRẠNG TR̀NH, tái bản lần II ( Toàn Bộ Bạch Vân Thi Tập trích lục ở KHOA HỌC HUYỀN BÍ) được soạn tại Saigon mùa đông năm mậu tư 1948. Sách ghi giấy phép cấp tái bản năm 1964.


H́nh 2: Tượng Trạng Tŕnh
Source: Dienbatn, thegioibuangai.com

BẠCH VÂN THI TẬP CHUNG TRẠNG TR̀NH NGUYỄN BỈNH KHIÊM

Liên Mậu, Kỷ, Canh, Tân
Can qua sinh sác biến

Bốc đắc Càn thuần quái
Sơ cửu thoái tiềm long
Ngă bát thế chi hậu
Binh qua khởi trùng trùng
Ngưu tinh tụ Bảo giang (Tinh tụ Bảo giang thượng)
Đại nhân cư chính trung


Dịch nghĩa :

Bói được quẻ thuần Càn
Hào sơ cửu rồng lui ẩn
Tám đời sau ta
Binh biến khởi trùng trùng
Sao Ngưu tụ Sông Quí
Đại nhân ở chính giữa


THẾ SỰ

Non Đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
Có một đàn xà đánh lộn nhaụ
Vượn nọ leo cành cho sĩ bóng
Lợn kia làm quái phải sai đâụ
Chuột nọ lăm le mong cắn tổ
Ngựa kia đủng đỉnh buớc về Tàụ
Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
T́m về quê cũ khúc ngựa Tần.


SẤM TRẠNG TR̀NH

Chương 1

1 - Vận lành mừng gặp tiết lành
2 - Thấy trong quốc ngữ lập thành nên câu
3 - Một câu là một nhiệm mầu
4 - Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao

5 - Trải v́ sao, mây che Thái ất
6 - Thủa cung tay, xe nhật phù lên
7 - Việt Nam khởi tổ xây nền
8 - Lạc Long ra trị đương quyền một phương
9 - Thịnh suy bĩ thái lẽ thường
10 - Một thời lại một nhiễu nhương nên lề

11 - Đến Đinh Hoàng, nối ngôi cửu ngũ
12 - Mở bản đồ, rũ áo chấp tay
13 - Ngự đao phút chốc đổi thay
14 - Thập bát tử (李) rày quyền đă nổi lên
15 - Đông A (陳) âm vị nhi huyền
16 - Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh
17 - Chấn cung hiện nhật quang minh
18 - Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
19 - Đoài cung vẽ rạng trăng thu
20 - Ra tay mở lấy Đế đô vạn toàn

21 - Sáng cửu thiên, ám vầng hồng nhật
22 - Dưới lẫn trên, ăn (năng ) vẫn uống quen
23 - Sửa sang muôn việc cầm quyền
24 - Ngồi không ai dễ khẳng nh́n giúp cho

25 - Ḱa liệt vương, khí hư đồ ủng
26 - Mặc cường hầu, ong ỏng tranh khôn
27 - Trời sinh ra những kẻ gian
28 - Mặt khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài
29 - Áo vàng ấm áp đà hay
30 - Khi sui đấp núi khi say xây thành

31 - Lấy đạt điền, làm công thiên hạ
32 - Được mấy năm, đất lở giếng ṃn
33 - Con yết ạch ạch tranh khôn
34 - Vô già mở hội mộng tôn làm chùa
35 - Cơ trời xem đă mê đồ
36 - Đă đô lại muốn mở đô cho người

37 - Ấy ḷng trời, xuôi ḷng bất nhẫn
38 - Suốt vạn dân, cừu giận nhân than
39 - Dưới trên dốc chí lo toan
40 - Những đua bán tước bán quan làm giàu

41 - Thống rủ nhau, làm mồi phú quí
42 - Mấy trung thần, có chí an dân
43 - Đua nhau làm sự bất nhân
44 - Đă tuần bốn bể lại tuần đầu non
45 - Dư đồ chia rẻ càn khôn
46 - Mối giềng man mác khiếp ṃn ḷng nhau

47 - Vội sang giàu, giết người lấy của
48 - Sự có chăng, mặc nọ ai đôi
49 - Việc làm thất chính tơi bời
50 - Minh ra bổng lại thấy thôi bấy giờ

51 - Xem tượng trời, đă gia (giơ) ra trước
52 - C̣n hung hăng, bạo ngược quá xưa
53 - Cuồng phong cả sớm liền trưa
54 - Đă đờn cửu khúc c̣n thơ thi đề

55 - Ấy Tần Vương, ngu mê chẳng biết
56 - Để vạn dân, dê lại giết dê
57 - Luôn năm chật vật đi về
58 - Âm binh ở giữa nào hề biết đâu

59 - Thấy nội thành, tiếng kêu ong ỏng
60 - Cũng một ḷng, trời chống khác nào
61 - Xem người dường vững chiêm bao
62 - Nào đâu c̣n muốn ước ao thái b́nh

63 - Một góc thành, làm tâm chứng quỷ
64 - Đua một ḷng, ích kỷ hại nhân
65 - Bốn phương rời rở (ră) hồng trần
66 - Làng khua mơ cá làng phân điếm tuần

67 - Tiếc là những, xuất dân làm bạo
68 - Khua dục loài, thỏ cáo tranh nhau
69 - Nhân danh trọn hết đâu đâu
70 - Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê
71 - Hùm già lạc dấu khôn về
72 - Mèo non chi chí t́m về cố hương
73 - Chân dê móng khởi tiêu tường
74 - Nghi nhau ai dễ sửa sang một ḿnh
75 - Nội thành ong ỏng hư kinh
76 - Đầu khỉ tin sứ chèo (trèo) thành lại sang

77 - Bở mồ hôi, Bắc giang tái mă
78 - Giữa hai xuân, bỗng phá tổ long
79 - Quốc trung kinh dụng cáo không
80 - Giữa năm giả lại kiểm hung mùa màng
81 - Gà đâu sớm gáy bên tường
82 - Chẳng yêu th́ cũng bất tường chẳng không
83 - Thủy binh cờ phất vầng hồng
84 - Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng

85 - Đứng hiên ngang, đố ai biết trước
86 - Ấy Bắc binh, sang việc ǵ chăng ?
87 - Ai c̣n khoe trí khoe năng
88 - Cấm kia bắt nọ tưng bừng đôi nơi

89 - Chưa từng thấy, đời nào sự lạ
90 – Bỗng khiến người, giá họa cho dân
91 - Muốn b́nh sao chẳng lấy nhân
92 - Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày

93 - Đă nên si, Hoàn Linh đời Hán
94 - Đúc tiền ra, bán tước cho dân
95 - Xung (xum) xoe những rắp cậy quân
96 - Chẳng ngờ thiên đạo xây dần đă công

97 - Máy Hoá công, nắm tay dễ ngỏ
98 - Ḷng báo thù, ai dễ đă nguôi
99 - Thung thăng tưởng thấy đạo trời
100 - Phù Lê diệt Mạc nghĩ dời quân ra
101 - Cát lầm bốn bể can qua
102 - Nguyễn th́ chẳng được sẽ ra lại về
103 - Quân hùng binh nhuệ đầy khe
104 - Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời
105 - Bấy giờ càng khốn than ôi
106 - Quỉ ma trật vật biết trời là đâu ?

107 - Thương những kẻ, ăn rau ăn giới
108 - Gặp nước bung, con cái ẩn đâu
109 - Báo thù ấy chẳng sai đâu
110 - T́m non có rẫy chừng sau mới toàn

111 - Xin những kẻ, hai ḷng sự chúa
112 - Thấy đâu hơn, th́ phụ thửa ân
113 - Cho nên phải báo trầm luân
114 - Ai khôn mới được bảo thân đời này

115 - Nói cho hay, Khảm cung rồng dấy
116 - Chí anh hùng, xem lấy mới ngoan
117 - Chữ rằng lục thất nguyệt gian
118 - Ai mà nghĩ được mới gan anh tài

119 – Hễ nhân kiến, đă dời đất cũ
120 - Th́ Phụ Nguyên, mới chổ (trổ) binh ra
121 - Bốn phương chẳng động can qua
122 - Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi
123 - Bấy giờ mở rộng qui khôi
124 - Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn

125 - Lại nói sự, Hoàng giang sinh thánh
126 - Hoàng phúc xưa, đă định Tây phong
127 - Làu làu thế giới sáng trông
128 - Lồ lộ mặt rồng đầu có chữ vương
129 - Rơ sinh tài lạ khác thường
130 - Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài

131 - Xem ư trời, có ḷng đăi thánh
132 - Đốc sinh hiền, điều đỉnh hội mai
133 - Chọn Đẩu-Thai (đầu thai) những v́ sao cả
134 - Dùng ở tay phụ tá vương gia
135 – Bắc phương chính khí sinh ra
136 - Có ông Bạch sĩ (xỉ) điều ḥa hôm mai
137 - Song thiên nhật rạng sáng soi
138 - Thánh nhân chẳng biết th́ coi cho tường
139 - Đời này thánh kế vị vương
140 - Đủ no đạo đức văn chương trong ḿnh
141 - Uy nghi trạng mạo khác h́nh
142 – Thác cư một gốc Kim tinh phương Đoài
143 - Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi
144 - Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
145 - Binh thơ mấy quyển kinh luân
146 - Thiên văn địa lư nhân luân càng mầu

147 - ... ở đâu (đó), anh hùng hẳn biết
148 - Xem sắc mây, đă biết thành long
149 - Thánh nhân cư có thụy cung
150 - Quân thần đă định ǵn ḷng chớ tham

151 - Lại dặn đấng, tú nam chí cả
152 - Chớ vội vàng, tất tả chạy rong
153 - Học cho biết lư kiết hung
154 - Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi
155 - Hể trời sinh xuống phải th́ (thời)
156 - Bất kỳ nhi ngộ màng ǵ tưởng trông

157 - Ḱa những kẻ, vội ḷng phú quí
158 - Xem trong ḿnh, một thí đều không
159 - Ví dù có gặp ngư ông
160 - Lưới chài đâu sẵn nên công mà ḥng

161 - Xin khuyên đấng, thời trung quân tử
162 - Ḷng trung ngh́, ai nhớ cho tinh
163 - Âm dương cơ ngẩu ngô sinh
164 - Thái Nhâm Thái Ất trong ḿnh cho hay

165 - Văn th́ luyện, nguyên bài quyết thắng
166 - Khen Tử Pḥng, cùng đấng Khổng Minh
167 - Vơ thông Yên Thủy Thần Kinh
168 - Được vào trận chiến mới càng biến cơ

169 - Chớ vật vờ, quen loài ong kiến
170 - Biết ray (day) tay, miệng biếng nói không
171 - Ngỏ hay gặp hội mây rồng
172 - Công danh choi chói chép trong vân đài
173 - Bấy giờ phỉ sức chí trai
174 - Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc ḿnh
175 - Nặng ḷng thật có vĩ kinh
176 - Cao tay mới ngẫm biết t́nh năm nao
177 - Trên trời có mấy v́ sao
178 - Đủ no biền tướng anh hào đ̣i nơi
179 - Nước Nam thường có thánh tài
180 - Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường

181 - So mấy lời, để tàng kim quĩ
182 - Chờ hậu lai, có chí sẽ cho
183 - Trước là biết nẻo tôn pḥ
184 - Sau là cao chí biết lo mặc ḷng

185 - Xem Đoài cung, đến thời bất tạo
186 - Thấy vĩ tinh, liệu rạo cho mau
187 - Nguôi ḷng tham tước tham giàu
188 - T́m nơi tam hiểm mới hầu bảo thân
189 - Trẻ con mang mệnh tướng quân
190 – Ngỡ oai đă dấy ngỡ nhân đă nhường

191 - Ai lấy gương, vua U thủa trước
192 - Loạn ru v́, tham ngược bất nhân
193 - Đoài phương ong khởi lần lần
194 - Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn
195 - Man mác một đỉnh Hoành Sơn
196 - Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù

197 - Ấy là những, binh thù Thái Thái
198 - Ḷng trời xui, ai nấy biết ru ?
199 - Phá điền đầu khỉ cuối thu
200 - Tái binh mới động thập tḥ liền sang

201 - Lọ chẳng thường, trong năm khôn xiết
202 - Vẽ (vả) lại thêm, hung kiệt mất mùa
203 - Lưu tinh hiện trước đôi thu
204 - Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm

205 - Xem thấy những, sương săm tuyết lạnh
206 - Loài bất b́nh, tranh mạnh hung hăng
207 - Thành câu cá lửa tưng bừng
208 - Kẻ ngàn Đông Hải người rừng Bắc Lâm
209 - Chiến trường chốn chốn cát lầm
210 - Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông

211 - Sang thu chín, huyết hồng tứ giả
212 - Noi đàng dê, tranh phá đôi nơi
213 - Đua nhau đồ thán quần lê
214 - Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
215 - Kẻ th́ phải thửa hung hoang
216 - Kẻ th́ binh hỏa chiến trường chết oan
217 - Kẻ th́ mắc thửa hung tàn
218 - Kẻ th́ bận của bỗng toan khốn ḿnh

219 - Muông vương dựng ổ cắn tranh
220 - Điều th́ làm chước xuất binh thủ thành
221 - Bời bời đua mạnh tranh hành
222 - Ra đâu đánh đấy đem binh sớm ngày
223 - Bể thanh cá phải ẩn cây
224 - Đất bằng nổi sấm cát bay bụi mù
225 - Nào ai đă dễ nh́n U
226 - Thủy chiến bộ chiến mặc dù đ̣i cơn
227 - Cây bay lá lửa đ̣i ngàn
228 - Một làng c̣n mấy chim đàn bay ra
229 - Bốn phương cùng có can qua
230 - Làm sao cho biết nơi ḥa (nào) bảo thân
231 - Đoài phương thực có chân nhân
232 - Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
233 - T́m cho được chốn được nơi
234 - Thái nguyên một giải lần chơi trú đ́nh
235 - Bốn bề núi đá riểu quanh
236 - Một đường tiểu mạch nương ḿnh dấy an

237 - Hễ Đông Nam, nhiều phen tàn tặc (tạc – tạ)
238 - Tránh cho xa, kẻo mắc đao binh
239 – Bắc kinh mới thực đế kinh
240 - Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào
241 - Chim hồng vổ cánh bay cao
242 - T́m cho được chốn mới vào thần kinh

243 - Ai dễ cứu, con thơ sa giếng
244 - Đưa một ḷng, tranh tiếng dục nhau
245 - Vạn dân chịu thủa u sầu
246 - Kể dư đôi ngũ mới hầu khoan cho
247 - Cấy cày thu đăi thời mùa
248 - Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
249 - Nhân ra cận duyệt viễn lai
250 - Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm

251 - Xem tượng trời, biết đường đời trị
252 - Ngẩm về sau, họ Lư xưa nên
253 - Gịng nhà để lấy dấu truyền
254 - Ngẩm xem bốn báu c̣n in đời đời
255 - Thần qui cơ nổ (nỏ) ở trời
256 - Để làm thần khí thủa nơi trị trường

257 - Lại nói xứ, Hoàng giang sinh thánh
258 - Sông Bảo giang, thiên định ai hay ?
259 - Lục thất cho biết ngày dày (dài)
260 - Phụ nguyên ấy thực ở dày (đầy) Tào Khê
261 - Có thầy Nhân Thập đi về
262 - Tả phụ hữu tŕ cây cỏ làm binh

263 - Giốc hết sức, sửa sang vương nghiệp
264 - Giúp vạn dân, cho đẹp ḷng trời
265 - Ra tay điều chỉnh hộ may (mai)
266 - Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
267 - Lọ là phải nhọc kéo quân
268 - Thấy nhân ai chẳng mến nhân t́m về

269 - Năm Giáp Tư, vẽ khuê đă rạng
270 - Lộ ngũ tinh, trinh tượng thái hanh
271 - Ân trên vũ thí vân hành
272 - Kẻ thơ kư túy kẻ canh xuân đài
273 - Bản đồ chẳng sót cho ai
274 - Ngh́n năm lại lấy hội nơi vẹn toàn

275 - Vững nền vương, cha truyền con nối
276 - Dỏi muôn đời, một mối xa thư
277 - Bể ḱnh tâm lặng bằng tờ
278 - Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
279 - Au vàng khỏe đặt vững chân
280 - Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài



H́nh 3: Trạng Tŕnh và dân làng
Source: Dienbatn, thegioibuangai.com

Chương Hai

281 - Vừa năm Nhâm Tư xuân đầu
282 - Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
283 - Quyển vàng mở thấy sấm trời
284 - Từ Đinh đổi đời chí lục thất gian
285 - Một thời có một tôi ngoan
286 - Giúp trong việc nước gặp an thái b́nh
287 - Luận chung một tập kim thời
288 - Tướng quyền sĩ tử nam nhi học đ̣i
289 - Trượng phu có chí thời coi
290 - Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nghành vàng
291 - Tài nầy nên đấng vẻ vang
292 - Biết chừng đời trị biết đường đời suy

293 - Kể từ nhân đoản mà đi
294 - Số chưa gặp th́ biết ḥa chép ra
295 - Tiếc thay hiền sĩ bao già
296 - Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
297 - Thử cho tay giúp ra dùng
298 - Tài này so cùng tài trước xem sao ?
299 - Trên trời kể chín tầng cao
300 - Tay (tai) nghe bằng một ti hào biết hay
301 - Hiềm v́ sinh phải thời này
302 - Rấp phù mở nước tiếc thay chưng đời
303 - Hợp đà thay thánh ngh́n tài
304 - Giáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời

305 –Nói ra th́ lậu sự đời
306 - Trái tai phải lụy tài trai khôn luần
307 - Nói ra ám chúa bội quân
308 - Đương thời đời trị xoay vần được đâu
309 - Chờ cho nhân đoản hết sau
310 - Đến chừng đời ấy thấy âu nhiều nàn
311 - Trời xui những kẻ ác gian
312 - Kiếp độc dạo thiết làm loàn có hay
313 - Vua nào tôi ấy đă bày
314 - Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn
315 - Đua nhau bội bạn nghịch vi
316 - Ích gia phi kỷ dân th́ khốn thay

317 - Tiếc tài gẩm được th́ hay
318 - Đă sao như vậy ra tay sẽ dùng
319 - Tài trai có chí anh hùng
320 - Muốn làm tướng suư lập công xưng đời
321 - Khá xem nhiệm nhặt tộ trời
322 - Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng
323 - Đi t́m cho đến Đế cung
324 - Rấp phù xuất lực Đế cung được toàn
325 - Bảo nhau cương kỷ cho tường
326 - Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài
327 - Chờ cho động đất chuyển trời
328 - Bấy giờ Thánh sẽ nên tay anh hùng

329 - C̣n bên th́ náu chưa xong
330 - Nhân lực cướp lấy thiên công những là
331 - Đời ấy (này) những quỉ cùng ma
332 - Chẳng c̣n ở thật người ta đâu là
333 - Trời cao đất rộng bao xa
334 - Làm sao cho biết cửa nhà Đế vương
335 - Dù trai ai chửa biết tường
336 - Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này
337 - Ư ra lục thất gian nay
338 - Thời vận đă định tuần nầy hưng Vương
339 - Trí xem nhiệm nhặt cho tường
340 – Bảo giang Thánh xuất trung ương thuở nầy

341 - Vua ngự thạch bàn xa thay
342 - Đại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
343 - Gà kêu vượn hót vang lừng
344 - Đường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn ḍ
345 - Nhân dân vắng mặt bằng tờ
346 - Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay
347 - Vua c̣n cuốc nguyệt cày mây
348 - Phong điều vũ thuận thú rày an thân
349 - Phong đăng hoà cốc chứa chang
350 - Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
351 - Chính cung phương Khảm vần mây
352 – Thực thay Thiên tử là nay trị đời

353 - Anh hùng trí lượng thời coi
354 - Công danh chẳng ngại t́m đ̣i ra đi
355 - T́m lên đến Thạch Bàn Khê
356 - Có đất sinh Thánh bên kia cuối làng
357 - Nh́n đi nh́n lại cho tường
358 – Dường như chửa có sinh Vương đâu là
359 - Chẳng t́m th́ đến B́nh Gia
360 - Thánh chưa sinh Thánh báo ca địa b́nh
361 - Nh́n xem phong cảnh cũng xinh
362 - Tả long triều lại có thành đợt vây
363 - Hữu hổ uấn khúc giang này
364 - Minh Đường thất diệu trước bày mặt tai

365 - Ở xa thấy một con voi
366 - Cúi đầu quen bụi trông vời hồ sâu
367 - Ấy điềm Thiên tử về chầu
368 - Tượng trưng Đế Thánh tộ lâu trị đời
369 - Song thiên nguyệt rạng sáng soi
370 - Sinh đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu
371 - Đến đời thịnh vượng c̣n lâu
372 - Đành đến tam hợp chia nhau sẽ làm
373 - Khuyên cho Đông Bắc Nam Tây
374 - Muốn làm tướng suư th́ xem trông này

375 - Thiên sinh Thiên tử ư hoả thôn
376 - Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
377 - Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
378 - Hậu sinh Thiên tử Bảo giang môn

379 - Kià cơn gió, thổi lá rung cây
380 - Rung Bắc sang, Nam Đông tới Tây
381 - Tan tác Kiến kiều An đất nước
382 - Xác xơ Cổ thụ sạch Am mây
383 - Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
384 - Hưng địa tràng (tràn) dâng hoá nước đầy

385 - Một gió một yên, ai sùng bái
386 - Cha con người (nhà), Vĩnh Bảo cho hay
387 - Con mùng búng tít con quay
388 - Vù vù chong chóng gió bay trên đài
389 - Nhà cha cửa đóng then cài
390 - Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân
391 - Tiếc tám lạng thương nửa cân
392 - Biết rằng ai có dù phần như ai
393 - Vắt tay nằm nghĩ dông dài
394 - Thương người có một lo hai phận ḿnh

395 - Canh niên Tân phá
396 - Tuất Hợi phục sinh
397 - Nhị ngủ dư b́nh

398 - Long vĩ xà đầu khổ chiến tranh
399 - Can qua xứ xứ khởi đao binh
400 - Mă đề dương cước anh hùng tận
401 - Thân Dậu niên lai kiến thái b́nh

402 - Non Đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
403 - Có một đàn xà đánh lộn nhau
404 - Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
405 - Lợn kia làm quái phải sai đầu
406 - Chuột nọ lăm le mong cắn tổ
407 - Ngựa kia đủng đỉnh bước về Tàu
408 - Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
409 - T́m về quê cũ bắt ngựa Tàu

410 - Cửu cửu kiền khôn dĩ định
411 - Thanh minh thời tiết hoa tàn
412 - Trực đáo Dương đầu Mă vĩ
413 - Hồ binh bát vạn nhập Trường An

414 - Bảo giang Thiên tử xuất (Phá Điền Thiên tử xuất)
415 - Bất chiến tự nhiên thành
416 - Lê dân bảo (đào) bảo (băo) noăn 暖
417 - Tứ hải lạc âu ca

418 - Dục đức thánh nhân hương - B (A – C – D)
419 - Quá kiều cư Bắc phương
420 - Danh vi Nguyễn gia tử
421 - Kim tịch (Tinh bản) sinh Ngưu lang

422 - Thượng đại nhân bất nhân
423 - Thánh ất dĩ vong ân
424 - Bạch hổ kim đái ấn
425 - Thất thập cổ lai xuân

426 - Bắc hữu kim thành tráng
427 - Nam tạc ngọc bích thành
428 - Hỏa thôn đa khuyển phệ
429 - Mục giả dục nhân canh

430 - Phú quí hồng trần mộng
431 - Bần cùng bạch phát sinh
432 - Anh hùng vương kiếm kích
433 - Manh cổ đổ thái b́nh

434 - Nam Việt hữu Ngưu tinh
435 - Quá thất thân thủy sinh
436 - Địa giới sĩ (xỉ) vị bạch
437 - Thủy trầm nhĩ bất kinh (Thủy trầm nhi Bắc kinh)

438 - Kư Mă xu (khu) Dương tẩu
439 - Phù Kê thăng đại minh
440 - Trư Thử giai phong khởi
441 - Th́n Măo xuất thái b́nh

442 - Phân phân tùng (从)Bắc khởi (Phân phân tùng (松) bách khởi)
443 – Nhiễu nhiễu xuất đông chinh
444 - Bảo sơn thiên tử xuất
445 - Bất chiến tự nhiên thành

446 - Thủy trung tàng bảo cái
447 - Hứa cập thánh nhân hương
448 – Mộc hạ châm châm khẩu
449 - Danh thế xuất nan lương

450 - Danh vi Nguyễn gia tử
451 - Tinh bản tại Ngưu lang
452 - Mại dữ lê viên dưỡng
453 - Khởi nguyệt bộ đại giang

454 - Hoặc kiều tam lộng ngạn
455 - Hoặc ngụ kim lăng cương
456 - Thiên dữ thần thực thụy
457 - Thụy tŕnh ngũ sắc quang

458 - Kim kê khai lựu điệp
459 - Hoàng cái xuất quí phương
460 - Nhân nghĩa thùy vi địch
461 - Đạo đức thực dữ đương

462 - Tộ truyền nhị thập ngũ
463 - Vận khải ngũ viên trường
464 - Vận đáo dương hầu ách
465 - Chấn Đoài cương bất trường

466 - Quần gian đạo danh tự
467 - Bách tính khổ tai ương
468 - Can qua tranh đấu khởi
469 - Phạm địch thánh (tánh) hung hoang
470 - Ma vương sát đại quỉ
471 - Hoàng thiên tru ma vương

472 - Kiền khôn phú tải vô lương
473 - Đào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng
474 - Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
475 - Đảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân
476 - Ta hồ vô phụ vô quân
477 - Đào viên tán lạc ngô dân thủ thành

478 - Đoài phương phước địa giáng linh
479 - Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân
480 - Phá điền thiên tử giáng trần
481 - Dũng sỉ nhược hải mưu thần như lâm

482 - Trần công năi thị phúc tâm
483 - Giang hồ tử sĩ Đào Tiềm xuất du
484 - Tướng thần hệ xuất Y Chu
485 - Thứ ky phục kiến Đường Ngu thi hành

486 - Hiệu xưng thiên hạ thái b́nh
487 - Đông Tây vô sự Nam thành quốc gia

PHỤ TRƯƠNG I

A - Dục thức Thánh nhân xứ
- Đa xuất ứng Bảo giang
B - Dục thức Thánh nhân hương
- Thủy lam bảo trung tàng
C - Dục thức Thánh nhân tính
- Mộc hạ liên đinh khẩu
D - Dục thức Thánh nhân diện
- Tu tầm trương cú kiến

- Giang nam nhị thủy huyện
- Tại sơn vô hổ lang
- Thất thập nhị hiền tướng
- Phụ tá Thánh Quân vương

- Phá Điền Thiên tử xuất
- Bất chiến tự nhiên thành

- Tư tâm dục thức thánh nhân diện
- Lưỡng biên bàn ngạt thùy nhất khối
- Thủ túc chánh vương tam lương tự.



H́nh 4: cửa Khổng sân Tŕnh
Source: Dienbatn, thegioibuangai.com



SẤM KƯ NGUYỄN BỈNH KHIÊM

      Nước Nam từ họ Hồng Bàng
      Biển dâu cuộc thế giang sơn đổi vần
      Tự Đinh Lê Lư Trần thuở trước
      Đă bao lần ngôi nước đổi thay
      Núi sông thiên định đặt bàỵ
      Đồ thư một quyển xem nay mới rành

      Hoà đao mộc lạc
      Thập bát tử thành
      Đông A nhật xuất
      Dị mộc tái sinh
      Chấn cung xuất nhật
      Đoài cung vẫn tinh
      Phụ nguyên chi thống
      Đế phế vi đinh
      Thập niên dư chiến
      Thiên hạ cửu b́nh


      Lời thần trước đă ứng linh
      Hậu lai phải đoán cho minh mới tường
      Hoà đao mộc hồi dương sống lại
      Bắc Nam thế thời đại nhiễu nhương
      Hà thời biện lại vi vương
      Thử thời Bắc tận Nam trường xuất bôn

      Lê tồn Trịnh tại
      Trịnh bại Lê vong

      Bao giờ ngựa đá sang sông
      Th́ dân Vĩnh Lại Quận Công cả làng
      Hà thời thạch mă độ giang
      Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu

      Chim bàng cất cánh về đâủ
      Chết tại trên đầu hai chữ Quận Công
      Bao giờ trúc mọc qua sông
      Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây
      Đoài cung một sớm đổi thay
      Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng c̣n
      Đầu cha lộn xuống thân con
      Mười bốn năm tṛn hết số th́ thôi
      Phụ nguyên chính thống hẳn hoi
      Tin dê lại phải mắc mồi đàn dê

      Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu
      Gà kia vỗ cánh trập trùng bay
      Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa
      Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày

      Nói cho hay khảm cung ong dậy
      Chí anh hào biết đấy mới ngoan
      Chữ rằng lục thất nguyệt gian
      Ai mà giữ được mới nên anh tài

      Ra tay điều đỉnh hộ mai
      Bấy giờ mới rơ là người an dân
      Lọ là phải nhọc kéo quân
      Thấy nhân ai chẳng mến nhân t́m về
      Phá điền than đến đàn dê
      Hễ mà chuột rúc th́ dê về chuồng
      Dê đi dê lại tuồn luồn
      Đàn đi nó cũng một môn phù tŕ

      Thương những kẻ nam nhi chí cả
      Chớ vội sang tất tả chạy rong
      Học cho biết chữ cát hung
      Biết cho phương hướng chớ đừng lầm chi
      Hễ trời sinh xuống phải th́
      Bất ḱ nhi ngộ tưởng ǵ đợi mong
      Ḱa những kẻ vội ḷng phú quí
      Xem trong ḿnh một tí đều không
      Ví dù có gặp ngư ông
      Lưới giăng đâu dễ nên công mà ḥng

      Khuyên những đấng thời trung quân tử
      Ḷng trung nghiă nên giữ cho ḿnh
      Âm dương cơ ngẫu hộ sinh
      Thái Nhâm Thái Ất bên ḿnh cho hay
      Chớ vật vờ quen loài ong kiến
      Hư vô bàn miệng tiếng th́ nói không

      Ô hô thế sự tự b́nh bồng,
      Nam Bắc hà thời thiết lộ không
      Hồ ẩn sơn trung mao tân bạch
      Ḱnh cư hải ngoại huyết lưu hồng
      Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc
      Ngưu xuất Lam điền nhật chính Đông
      Nhược đăi ưng lai sư tử thượng
      Tứ phương thiên hạ thái b́nh phong

      Ngơ may gặp hội mây rồng
      Công danh rạng rỡ chép trong vân đài
      Nước Nam thường có thánh tài
      Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường ?
      So mấy lề để tàng kim quỹ
      Kẻ sau này ngu bỉ được coi
      Đôi phen đất lở cát bồi
      Đó đây ong kiến dậy trời quỷ ma
      Ba con đổi lấy một cha
      Làm cho thiên hạ xót xa v́ tiền
      Măo Th́n Tư Ngọ bất yên
      Đợi tam tứ ngũ lai niên cũng gần

      Hoành sơn nhất đái
      Vạn đại dung thân

      Đến thời thiên hạ vô quân.
      Làm vua chẳng dễ làm dân chẳng lành
      Gà kêu cho khỉ dậy nhanh
      Phụ nguyên số đă rành rành cáo chung

      Thiên sinh hữu nhất anh hùng
      Cứu dân độ thế trừ hung diệt tà
      Thái Nguyên cận Bắc đường xa
      Ai mà t́m thấy mới là thần minh
      Uy nghi dung mạo khác h́nh
      Thác cư một góc kim tinh phương Đoài
      Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi
      Chờ cơ mới sẽ ra đời cứu dân
      Binh thư mấy quyển kinh luân
      Thiên văn địa lư nhân dân phép mầu

      Xem ư trời, ngỏ hầu khải thánh
      Dốc sinh ra, điều chỉnh hộ mai
      Song thiên nhật nguyệt sáng soi
      Thánh nhân chẳng biết th́ coi cho tường
      Thông minh kim cổ khác thường
      Thuấn Nghiêu là trí Cao Quang là tài

      Đấng hiên ngang, nào ai biết trước
      Tài thao lược, yêm bác vũ văn
      Ai c̣n khoe trí khoe năng
      Cấm kia bắt nọ hung hăng với người

      Chưa từng thấy, nay đời sự lạ
      Chốc lại ṃng, gá vạ cho dân
      Muốn b́nh sao chẳng lấy nhân
      Muốn yên sao lại bắt dân ghê ḿnh
      Đă ngu dại Hoàn Linh đời Hán
      Lại đua nhau quần thán đồ lê
      Chức nầy quyền nọ say mê
      Làm cho thiên hạ khôn bề tựa nương
      Kẻ th́ phải thuở hung hoang
      Kẻ th́ bận của bóng toan khốn ḿnh

      Cửu cửu càn khôn dĩ định
      Thanh minh thời tiết hoa tàn
      Trực đáo dương đầu mă vĩ
      Hồ binh bát vạn nhập Trường an

      Nực cuời những kẻ bàng quan
      Cờ tan lại muốn toan đường chống xe
      Lại c̣n áo mũ xum xoe
      C̣n ra xe ngựa màu mè khoe khoang
      Ghê thay thau lẫn với vàng
      Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng
      Thánh ra tuyết tán mây tan
      Bấy giờ mới sáng rơ ràng nơi nơi
      Can qua việc nước tơi bời
      Trên thuận ư trời dưới đẹp ḷng dân
      Oai phong khấp quỷ kinh thần
      Nhân nghĩa xa gần bách tính ngợi ca

      Rừng xanh núi đỏ bao la
      Đông tàn Tây bại sang gà mới yên
      Sửu Dần thiên hạ đảo điên
      Ngày nay thiên số vận niên rành rành

      Long vĩ Xà đầu khởi chiến tranh
      Can qua xứ xứ khổ đao binh
      Mă đề dương cước anh hùng tận
      Thân Dậu niên lai kiến thái b́nh

      Sự đời tính đă phân minh
      Thanh nhàn mới kể chuyện ḿnh trước sau
      Đầu thu gà gáy xôn xao
      Mặt trăng xưa sáng tỏ vào Thăng Long
      Chó kêu ầm ỉ mùa Đông
      Cha con Nguyễn lại bế bồng nhau đi
      Lợn kêu t́nh thế lâm nguy
      Quỷ vương chết giữa đường đi trên trời
      Chuột sa chỉnh gạo nằm chơi
      Trâu cày ngốc lại chào đời trước ta
      Hùm gầm khắp nẻo gần xa
      Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời

      Rồng bay năm vẻ sáng ngời
      Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng
      Ngựa lồng quỷ mới nhăn răng
      Cha con ḍng họ thầy tăng hết thời
      Chín con rồng lộn khắp nơi
      Nhện giăng lưới gạch dại thời mắc mưu
      Lời truyền để lại bấy nhiêu
      Phương Đoài giặc đă đến chiều bại vong
      Hậu sinh thuộc lấy làm ḷng
      Đến khi ngộ biến đường trong giữ ḿnh
      Đầu can vô tướng ra binh
      Ắt là trăm họ thái b́nh âu ca

      Thần Kinh Thái Ất suy ra
      Để danh con cháu đem ra nghiệm bàn
      Ngày thường xem thấy quyển vàng
      Của riêng bảo ngọc để tàng xem chơi
      Bởi Thái Ất thấy lạ đời
      Ấy thuở sấm trời vô giá thập phân
      Kể từ đời Lạc Long Quân
      Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian
      Mỗi đời có một tôi ngoan
      Giúp chung nhà nước dân an thái b́nh

      Phú quí hồng trần mộng
      Bần cùng bạch phát sinh
      Hỏa thôn đa khuyển phệ
      Mục giả giục nhân canh
      Bắc hữu Kim thành tráng
      Nam hữu Ngọc bích thành
      Phân phân tùng bách khởi
      Nhiễu nhiễu xuất Đông chinh
      Bảo giang Thiên tử xuất
      Bất chiến tự nhiên thành

      Rồi đây mới biết Thánh minh
      Mừng đời được lúc hiển vinh reo ḥ
      Nhị Hà một dải quanh co
      Chính thực chốn ấy Đế đô hoàng bào
      Khắp hoà thiên hạ nao nao
      Cá gặp mưa rào có thích cùng chăng ?

      Nói đến độ, thầy tăng mở nước
      Đám quỷ kia, xuôi ngược đến đâu ?
      Bấy lâu những cậy phép mầu
      Bây giờ phép ấy để lâu không hào

      Cũng có kẻ, non trèo biển lội,
      Lánh ḿnh vào, ở nội Ngô, Tề
      Có thầy Nhân Thập đi về
      Tả hữu phù tŕ cây cỏ thành binh
      Những người phụ giúp thánh minh
      Quần tiên xướng nghĩa chẳng tàn hại ai
      Phùng thời nay hội thái lai
      Can qua chiến trận để người thưởng công
      Trẻ già được biết sự ḷng
      Ghi làm một bản để ḥng dở xem
      Đời này những Thánh cùng Tiên
      Sinh những người hiền trị nước an dân

      ….
      Nầy những lúc, thánh nhân chưa lại
      Chó c̣n nằm, đầu khải cuối thu
      Khuyên ai sớm biết khuông phù
      Giúp cho thiên hạ Đường Ngu ngơ hầu

      Cơ tạo hoá, phép mầu khôn tỏ
      Cuộc tàn rồi, mới rơ thấp cao
      Thấy Sấm từ đây chép vào
      Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa



H́nh 5: Khu vực đặt ngôi mộ cổ có tấm thẻ bài ghi lời tiên đoán của cụ Trạng.
Source: dienbatn, thegioibuangai.com

"Qua bao nhiêu đời , cho đến gần đây người ta mới vô t́nh t́m được tấm thẻ bài trong một nấm mộ (Tương truyền là mộ cha cụ Trạng), trên đó có khắc rằng đó không phải mộ cụ , đồng thời chỉ chỗ mộ ở gần đó . Điều đặc biệt gây kinh ngạc , trên tấm thẻ bài c̣n ghi tên của người t́m ra tấm thẻ đó (Người đó tên là Tư - Trên tấm thẻ bài ghi là Bốn)" - dienbatn


BẠCH VÂN CA

Nước Nam thường có thánh tàị
Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường.
Ḱa Nhị Thuỷ nọ Dao Sơn,
Bài ngọc dát nổi âu vàng Trời chọ
Học cách vật mới ḍ tới chốn
Chép ghi làm một bổn xem chơị
Muôn việc cũng bởi tại người,
Suy ra mới biết sự đời dường baọ
Dẫu ai có vàng trao ngh́n hộc
Châu báu hơn chữ một nghĩa mườị

Tiên Hoàng từ trước mở ngôi
Cờ lau tập trận thay Trời trị dân.
Mới được mười hai dư xuân
Lê Hành kế vị xa gần âu cạ
Ba mươi năm ngôi nhà được lẻ
Đến Ngoạ Triều nào kẻ tài haỵ
Ngôi Trời để Lư vào thay
Tám cành hoa nở đến ngày dực phân.
Chiêu Hoàng là Á Nữ Quân
Thấp bề nhan sắc trao Trần Thái Tôn.
Thập nhị thế tiếng đồn nhân hậu;
Trăm bảy mươi ghi dấu thất niên

Đông A chốn ấy c̣n bề
Quư Ly tiếm thiết thay quyền đă cam.
Đại Ngu được mười bốn năm;
Hậu Trần Nhị Đế lại chăm phục hồị
Suy ra mới biết sự Trời
Lam Sơn khởi nghĩa là đời Lê gia
Tây Sơn sừng sực kéo ra
Ngẫm xem thế tục gọi là phương ngôn.
Đến Phụ Nguyên đ̣i c̣n chinh chiến
Trả bao thu dâu biển cát lầm
Rừng xa vực thẩm nguồn thâm
Nào ai biết sẽ nhân tâm lúc nầỵ

Chó mừng chúa gà bày cục tác
Lợn ăn no thả rác nằm chơị
Đó mới kể là đời thịnh thế
Mà thiên hạ sau xẻ làm haị
Người Đoài cũng thực ấy tài
Mà cho người Sở toan bài lập công.
Bởi Trần vương ngu không kể siết
Mới phen nầy dê lại giết dê.
Đến khi thức tận binh b́
Âm binh ở giữa dễ th́ biết saọ

Trời cho ta mang dao chém quỷ
Khắp dưới Trời b́nh trị quỷ thư.
Ai từng cứu con thơ xa giếng
Chớ một ḷng chinh chiến phá nhaụ

Muôn dân chịu những âu sầu,
Kể dư nhị ngũ mới hầu biết chọ

Chốn Đông Nam, ḷ ḍ khổ ải
Lánh cho xa, kẻo phải đao binh.
Bắc phương chính thực đế kinh
Náu ḿnh chưa dễ náo danh được nàọ
Vả người là đúng anh hào
Sánh làm sao được ước ao đêm ngàỵ

Ấy những quân, đời này thế ấy
Ḷng Trời xui, ai nấy biết đâụ
Chớ đừng tham của làm giàu
T́m nơi tam hiểm ngỏ hầu bảo thân.
Đà Giang chốn ấy cũng gần
Kim Ngư chốn ấy cũng phần thuở nơị
Ba Thục riêng một góc trời
Thái Nguyên một dải là nơi trú đ́nh.
Tứ bề núi đá xanh xanh,
Có đường tiểu mạch nương ḿnh ai haỵ
Bốn Bụt xuất thế dă chầy
Chưa chọn được ngày ra của nhân dân.

Ấy là điềm xuất Thánh quân,
Hễ ai biết được th́ thân mới toàn.
Chữ rằng hữu xạ tức tự nhiên hương
Có phải tầm thường thuốc dấu bán saỏ
Nắng lâu phải có mưa rào
Vội chi tát nuớc xôn xao cày bừạ
Hạn rồi th́ phải có mưa
Buồm giương gặp gió cày bừa gặp cơn.
Tuần này Thánh xuất Khảm phương
Sự thực đă tường chẳng phải lo suỵ
Quần hùng binh dậy sơn khê
Kẻ khoe cứu nước người khoe trợ thờị

Xem thấy những, sương rơi tuyết lạnh
Loài bất b́nh, tranh cạnh hung hăng.
Một cơn sấm dậy đất bằng,
Thánh nhân ra mới cứu hàng sinh linh.
Lược thao văn vũ tài t́nh
Mới hay phú quư hiển vinh lạ lùng.
Tam công gặp hội vui mừng,
Bỏ khi cá nước vẫy vùng biển sông.
Bỏ khi chém rắn vẽ rồng
Bỏ khi non Bắc ải Đông mịt mù.
Bỏ khi kẻ Việt người Hồ
Bỏ khi kẻ Sở người Ngô xa đường

Càn khôn phủ tái vô lương
Đào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng.
Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
Đảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân.
Ta hồ vô phụ vô quân
Đào viên tản lạc ngô dân thủ thành

Ta hồ vô phụ vô quân
Đà Giang phúc địa giáng linh
Cửu trùng thụy ứng ḷng thành ngũ vân
Phá điền thiên tử giáng trần,
Dũng sĩ nhuợc hải mưu thần như lâm
Trần Công năi thị phúc tâm
Giang hồ sử sĩ Đào Tiềm xuất dụ
Tương thần hệ xuất Y Chu
Thử kỳ phục kiến Đường Ngu thị thành.
Hiệu xưng thiên hạ thái b́nh.



H́nh 6: Mộ Quan Thượng Thư Nhữ Văn Lang - ông ngoại của cụ NBK
Source: Dienbatn, thegioibuangai.com


H́nh 7: Tuyết Giang (sông Hàn, quê Nội của cụ NBK - Hiệu của Tŕnh Quốc Công là Tuyết Giang Phu Tử.)
Source: Dienbatn, thegioibuangai.com

Sửa lại bởi NhapMon : 04 February 2007 lúc 5:09pm


__________________
NhapMon
Quay trở về đầu Xem NhapMon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi NhapMon
 
NhapMon
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 287 of 585: Đă gửi: 08 February 2007 lúc 5:07pm | Đă lưu IP Trích dẫn NhapMon

Trong khi chờ đợi bác TN post tiếp và các bác phân tích về chữ THỜI, NM thấy bài viết về "Chồng H́nh Bát Quái" trong chủ đề Sử Mệnh Ḍng Việt Với Việt LƯ TIÊN RỒNG của bác thangcutang TĐ Nguyễn Việt Nho phù hợp với chủ đề này,nay cháu xin mạn phép bác TĐ NVN được trích dẫn vài đoạn. Cám ơn bác.

Trích từ Sử Mệnh T́m Thấy Qua Việc Chồng H́nh Bát Quái
TĐ Nguyễn Việt Nho

Như đă nói ở trên TT/BQ (Tiên Thiên Bát Quái) là h́nh mang tính dương, HT/BQ (Hậu Thiên Bát Quái) là h́nh mang tính âm: Âm dương giao ḥa sẽ sinh biến, diệu dụng.

Lấy Tiên Thiên chồng trên Hậu Thiên: (TTBQ/HTBQ) để biết Thiên Định

TT/BQ là BQ chương đầu, chương dương và HT/ BQ là chương sau hay chương âm.Chữ “Thiên” trong từ “Thiên Định”, mang nghĩa là thiên nhiên như: phương hướng, núi, biển, địa thế … V́ vậy, có thể coi Thiên định như là được định bởi những yếu tố địa dư … Phải xác định một lần nữa như thế, v́ tư tưởng Việt không là Duy thần mà “Thần” của ḍng Việt mang nghĩa sự biến hóa linh diệu, khôn lường bởi sự kết hợp hai giống âm dương khác thể, lúc tăng lúc giảm… “Thần” ḍng Việt nằm trong nghĩa câu: “Âm dương bất trắc vị chi thần”…

Đem TTBQ chồng lên HTBQ, ở các hướng chính (các hướng phụ sẽ không kể tới v́ hai h́nh một tṛn (TT) một vuông (HT) khi chồng lên nhau, ở các phương phụ các con lư số sẽ không trùng lập), ta sẽ có:

Phía Bắc là THỦY THIÊN TỤNG
mang nghĩa có sự tranh tụng về phương nầỵ Đối chiếu với thực địa: Phương Bắc nước ta từ thời lập quốc đến giờ, tộc Việt (Xưa là Bách Việt, nay là Việt Nam) không khi nào ngưng tranh tụng và tranh chấp với Bắc phương. Ngày xưa tranh tụng với bọn du mục hiếu chiến, với bọn xâm lăng Hán tộc, với giặc Tống, giặc Mông, giặc Minh, giặc Măn … Ngày nay th́ đối đầu với bọn bành trướng Tầu Công …Ứng với con Khảm trên Hậu Thiên Việt Thường, mang nghĩa hiểm nghèo…

Phía Đông là THỦY LÔI TRUÂN, hướng giáp biển
Truân là truân chuyên, gian truân, gian khổ… Đối chiếu với thực địa: Hướng phát triển của dân tộc là hướng Đông Bắc - Tây Nam, nên biển Thái B́nh Dương luôn luôn nằm phía Đông của hướng tiến nầỵ Suốt ḍng sử, biển Đông nước ta tuy không nguy hiểm bằng hướng Bắc, nhưng phải ghi nhận đây là hướng của nhiều truân chuyên: Vào thời cổ đại, Kinh Dương Vương và Sùng Lăm phải đối mặt với Ngư Tinh, thời cận đại Tàu, Pháp, Nhật, Nga, Mỹ vào nước ta cũng từ hướng nầy, chưa kể sự truân chuyên của đám con “theo cha”, như thời Lư Trần của nhóm hoàng thân Lư Long Tường và thời 75 của hang triệu người ra đi từ hướng nầỵ Rơ ứng với con số 7 (tức Thiên Địa Bỉ) trên Lạc thư và con Chấn trên HT BQ (Chấn là Lôi, Lôi ngoài nghĩa là Rồng c̣n nghĩa: Lôi là Sấm, là động và trong nghĩa của Sấm động sẽ ứng với câu Sấm: “Ḱnh ngư hải ngoại huyết lưu hồng” sẽ xảy ra trong tương lai sẽ xảy ra trong tương lai gần giữa hai thế lực của Sư Tử (Tàu) và Chim Ưng (Mỹ)… Biển Đông muôn đời cũng sẽ vẫn là:

“Biển Đông sóng động dạt dào
Tháp kia làm bút ghi tiếng anh hào vào sử xanh” (Ca dao)

Phía Nam là ĐỊA HỎA MINH DI

Con lư số Minh Di có nghĩa là mờ mờ mịt mịt, bởi tượng của nó là Địa là đất, là qủa đất (ngoại quái) nằm trên Hỏa, là lửa, là ánh sáng hay là mặt trời (nội quái), khiến cho ánh sáng bị che mờ mà thành Minh Di (Đi trong lần ṃ, mờ mịt). Thoán từ của Minh Di là: “Minh Di: Lợi gian trinh” (Ánh sáng bị tổn hại, chịu gian nan, giữ điều chính th́ lợi - Nguyễn Hiến Lê dịch nghĩa). Phía Nam ứng với địa thế là phương nắng ấm, là hướng tiến của giống chim Hồng chim Lạc (vật tổ ḍng việt); đúng hợp với con LI trên Hậu Thiên Việt Thường. Địa Hỏa Minh Di ở phương nầy c̣n có nghĩa chỉ ra hướng Nam tuy là hướng thuận, hợp cho Việt tộc nhưng con đường tiến về hướng nầy cũng đầy gian gian đi phải đi trong ṃ mẫm…

Hướng tây là HỎA TRẠCH KHUÊ

Khuê là chống đối, chia ĺa: Thời Khuê là thời xấu nhất trong các thời của 64 qủe trong Kinh Dịch. Khuê mô tả sự chống đối kịch liệt (nghĩa của các hào) của những người trong gia đ́nh hay đám con cùng mẹ (qủe Khuê được xếp sau qủe Gia nhân, là người trong cùng một nhà). Khuê ứng với thực tiễn cận đại, từ 45 khi Cọng sản được du nhập vào Việt Nam kéo dài đến hôm nay: Người Việt ở lại và người Việt hải ngoại chưa t́m ra được lối dung hợp là vùng “Cánh Đồng Tương” để hóa giải mâu thuẫn của “nửa theo Cha và nửa theo Mẹ”…

Lấy HT/BQ chồng lên TTBQ để thấy “NHÂN ĐỊNH”

Việc chồng h́nh lần nầy sẽ chỉ cho thấy con đường ḍng Việt theo đó, nên hành xử để có đối sách thích ứng với cái định phận của “Thiên định” cho ḍng tộc. Cái con đường nầy tôi tạm gọi là Con Đường Sử Mệnh. Nước Việt (Bách Việt thời huyền sử, Đại Việt thời thực sử và Việt nam thời hiện tại) tiếp giáp với phương Bắc, là thế lực lớn mạnh và hiếu chiến, luôn luôn muốn đồng hóa ta, là một dân tộc biếu ḥa và bé nhỏ thua nhiều lần, ta phải có đối sách thích ứng là điều cần thiết. Và, nước ta lại bị (hay được?) đặt vào vị trí như là điểm giao tiếp của các nền văn minh và văn hóa của nhân loại, thế nên, có thể xem, đây như là cái chốt hay cái tiền đồn của Đông Nam Á ngăn chặn sức công phá từ phương Bắc. Lại nữa, Đất Việt c̣n là nơi giao tiếp Đông Tây, nên nó cũng phải nhận lănh hậu qủa của việc “trâu ḅ húc nhau”, không thể tránh khỏi, như trong cuộc chiến tranh lạnh vừa qua: Việt Nam đă được chọn làm băi chiến trường cho sự đụng đầu của của khối Cọng Sản và khối Tự Do, như ta đă thấy… Về phương diện văn hóa, các tôn giáo lớn như: Phật, Lăo, Khổng, Thiên Chúa Giáo, Hồi giáo… đều có mặt nơi đây và trên phương diện nầy, nếu không có đối sách văn hóa thích hợp, cũng sẽ dễ dẫn đến bất ổn xă hội, bất ổn chính trị… Việc chồng h́nh HT/TT Bát Quái sẽ có được các con Lư số chỉ ra đối sách mà tôi gọi là cái nhân định…Thực thi con đường nầy, chẳng những giải quyết được vấn đề của đất nước ta do thiên định đặt ra, mà c̣n có thể lấy mô thức giải quyết vấn đề của ta làm khuôn mẫu để giải quyết những mâu thuẫn của thế giớị

Lấy Hậu Thiên chồng lên Tiên Thiên ta sẽ có được các con Lư số nằm ở bốn hướng chính, chỉ ra đối sách cho từng phương hướng nầy:

Hướng Bắc là con THỦY THIÊN NHU

Con Nhu có ba nghĩa:
1)nhu là mềm dẻo (nhu là trái với cương: nhu ḥa);
2)nhu là chờ đợi; và
3)nhu là nuôi ăn (có trong từ quân nhu hay nhu yếu phẩm…).

Nhu trong nghĩa mềm dẻo: chiến tranh là chuyện chẳng đặng đừng, nhất là đối với một nước nhỏ như nước ta với nước lớn như Tàụ Trong nghĩa nhu là mềm dẻ, ông cha ta đă phải rất khôn khéo trong qúa khứ đă dùng chính sách nhu mà không phải nhược: Khi cần phải đánh, đă đánh và đă thắng như rất nhiều đại phong kiến trước đây, nhưng khi thắng xong vẫn cử người sang Tàu cầu ḥa, cả chịu việc sắc phong và triều cống nữa, hạ ḿnh trong điều kiện có thể hạ được, miễn là để bảo toàn được độc lập, tự quyết.

Nhu trong nghĩa chờ đợi: Đối với một thế lực lớn hơn, “thời” là yếu tố quan trọng nằm trong 3 yếu tố chính để quyết định thắng lợi là “thời, thế, cơ”. Trong nghĩa chờ đợi, thoán từ NHU có lời khuyên cho những ai đang mưu toan làm việc lớn, là phải có long tin tưởng, phải sáng sủa, minh bạch và trinh chính mới có thể có lợi để làm việc lớn (Nhu: Hữu phu, quang hanh, trinh, cát,. Lợi thiệp đại xuyên)

Nhu trong nghĩa nuôi ăn: Tiếp xúc với một thị trường khổng lồ, nếu ta có được một nền kinh tế phát triển, tiên tiến th́ hẳn nhiên rất ơn ích cho việc lo cho phúc lợi cho dân, cho nước …

Tóm lại, cả ba nghĩa của con Lư Số THỦY THIÊN NHU đều có ư nghĩa trong việc hoạch định phương sách để đối đầu THIÊN THỦY TỤNG phương Bắc.

Hướng Đông là con LÔI THỦY GIẢI

Theo thứ tự sắp xếp trong Kinh Dịch, qủe Giải được sắp tiếp liền sau qủe Kiển (Kiển là khó khăn, là khổ nạn), điều nầy mang lấy ư khổ nạn rồi cũng sẽ qua, cũng sẽ được giải quyết: Giải có nghĩa là làm tan, hay giải quyết. Đối với hướng Đông cái thiên định cho đấtt nước là con Thủy Lôi Truân (qua việc chồng h́nh TT/HT ở phần trên đă chỉ ra), con Giải là giải quyết cái phần số Truân nầy, giải quyết như thế nàỏ Ta hăy nghe Thoán từ của Giải dạy: “Giải: Lợi Tây Nam, vô sở văng, ḱ lai phục, cát. Hữu du văng, túc, cát” (Giải quyết vấn đề: Hăy đi về hướng Nam th́ lợi, đừng đa sự, cứ khôi phục lại như cũ th́ tốt; nhưng khi có điều đáng làm, làm cho chóng th́ tốt).

Để giải quyết phần số truân chuyên (THỦY LÔI TRUÂN) của định cho đất nước, lời thoán của qủe Giải day qúa hay, quá sát thực: theo đó, có ba ư chính cầm phải làm mà con số Giải nêu lên cho ta:

@ Ư thứ nhất: Đi về hướng Tây Nam th́ lợi “Lôi Tây Nam”: Nhóm từ nầy mang hai nghĩa:
1) Về hướng địa dư: Tây nam là hướng được chỉ ra bởi đường nối vùng Động Đ́nh Hồ, nơi xuất phát ḍng việt, với Nam phần Việt Nam hôm nay: đây chính là con đường phát triển của Việt tộc.

2) Ư hai, về phương diện Dịch lư: tây Nam là con 8 ĐỊA SƠN KHIÊM nằm trên Lạc Thư (là sách cho Mẹ và đám con theo mẹ ở lại giữ nước, do Cha LLQ trao lại trong lần chia tay và chia con để xuống biển, theo tinh thần Huyền thoại Việt). Con lư số KHIÊM mang nghĩa là khiêm nhường, nhẫn nhịn, từ tốn…, là thiên đạo cũng là nhân đạọ Ta hăy nghe Hán nho chữ nghĩa hóa con lư số Khiêm nầy, nhằm để làm rơ nghĩa thêm nghĩa của 3 chữ “Lợi Tây Nam” của thóan từ qủe Giải: “Dĩ đức động Thiên, vô viễn phất giới, măn chiu tổn, khiếm thụ đắt, thời năi thiên Đạo” (Dùng cái đức sẽ động đến ḷng Trời, tự cao tự măn là bị thiệt, khiêm nhường sẽ được, đó là Đạo trời vậy!).

@ Ư thứ hai: Đừng đa sự, cứ làm như cũ th́ tốt “Vô sở văng, ḱ lai phục”: Con đường sử mệnh là con đường hóa giải mâu thuẫn bằng văn, không chủ trương gây chiến, cũng đừng vọng ngoại, v́ không vọng ngoại là chạy theo “duy” mà không t́m được lối “dung” (dung chấp) đấy là nghĩa của đừng đa sự hay “vô sở văng”.

@ Ư thứ ba: “Hữu du văng”: là khôi phục lại cái cũ, cái cũ là cái ǵ đâỷ Đây là cái nền văn hóa dung chấp cả cái mâu và cái thuẫn mà không mang tính loại trừ của Cổ Việt: t́m ra cái đồng trong cái dị biệt rồi dung ḥa bao hợp, theo mẫu thức Âm Dương trong Thái Cực, Rồng Tiên kết thành “Cặp Vợ Chồng” hay nửa “theo cha” và nửa “theo Mẹ” hợp về hợp nhau ở “Cánh Đồng Tương” …

Con LÔI THỦY GIẢI sẽ cho ra giải pháp để giải quyết con THỦY LÔI TRUÂN của định số Thiên định cho đám con “50 theo Cha ra biển” là con Hỏa Sơn Lữ (Xin đọc: Đạo và Giáo, Liên Hệ Với Văn Hóa Việt, cũng trên mạng nầy). Đối chiếu với hiện thực, bởi chịu ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng của nền văn hóa dung chấp mang tính Việt như đă được tŕnh bầy, mà nước ta gần như không có việc kỳ thị tôn giáo và kỳ thị chủng tộc trong dân chúng, như nhiều dân tộc khác trên thế giớị Các sắc dân và các giáo dân của các tôn giáo sống rất ḥa hợp trong cùng một xóm, một làng trong khắp nơi trên đất nước ta… Dân gian ta thường nhận cả những người khác chủng như là người trong gia đ́nh hay trong họ tộc, gọi ngoại kiều Ấn là Anh Bảy, ngoại kiều Hoa là chú Ba …, thường hay xưng gọi nhau như là người bà con cho dù người lạ, đối xưng hô như người trong gia đ́nh. Việc “B́nh Tây, sát tả” hay việc cấm ngăn các tôn giáo sinh hoạt tự do thường, là công việc của chính quyền chịu ảnh hưởng của các nền văn hóa ngoại lai, hơn là phát xuất từ dân chúng …

Hướng Nam là con HỎA ĐỊA TẤN
Tấn có nghĩa là tiến lên và Tấn nằm phía Nam đồ h́nh nên lời khuyên nầy mang nghĩa là nên tiến lên về hướng nầy, như loài chim Hồng chim Lạc là vật tổ ḍng Việt, đă xuôi Nam khi “đất Bắc băng tuyết nặng dày”:

     “Mặt đất bắc nặng dày băng tuyết
Sự sống c̣n le lói như ma trơi
Giống chim Hồng, chim Lạc khắp nơi nơi
Vội vỗ cánh xuôi Nam t́m nắng ấm…” (Ngu Í Nguyễn Hữu Ngư)

Đối chiếu với thực sử, qua sử kư ghi nhận: Dân Bách Việt một phần bị Tàu đồng hóa, phần c̣n lại đă xuôi Nam và Việt Nam ngày nay là một tập hợp nhiều thành phần dân tộc xưa kia từ thời Bách Việt; và hấu hết dân hiện sống ở Miền Trung và Miền Nam ngày nay hầu hết là di dân từ miền Bắc vào qua nhiều triều đại từ Tiền Lê, Lư, Trần, Hậu Lê, Nguyễn và gần đây là các đợt di cư năm 54 và 75… Chim Việt chọn cành nam mà đậu! (Việt điểu sào Nam) như là mật lệnh truyền ḍng cho tộc Việt, để tồn tại và chờ thời trở về lại đất bắc, là cái sử mệnh Thủy Thiên Nhu trong nghĩa Nhu là chờ thời!

Tiến về phương Nam, nhưng nên tiến như thế nào ? Xin hăy đọc và suy gẫm các hào từ của quẻ Hỏa Địa Tấn trong Kinh Dịch và đây là đối sách Nhân định để thích ứng với định số Thiên định cho hương Nam là con ĐỊA HỎA MINH DỊ

Hướng Tây là con TRẠCH HỎA CÁCH
Cách là thay đổi hay làm thay đổị Cách thường đi đôi với các từ kép là cải cách, biến cách hay cách mạng: Cách (cách mạng) để giải quyết, để sửa đổi, t́nh trạng mâu thuẫn dẫn đến ḱnh chống đối của thời Khuê, như là thời chúng ta đang sống trong hiện tạị

Liên hệ với hiện thực: sự chống đối (Khuê) trong hiện tại xảy ra khắp nơi với mức độ trầm trong từ Đệ Nhị Thế Chiến đến nay: Sau 1945 sự bất đồng ư thức hệ giữa Đông Tây, Tư Bản và Cộng Sản dẫn đến chiến tranh lạnh khiến thế giới tách thành hai khối: khối Tự do do Mỹ cầm đầu và khối Xă hội Chủ nghĩa do Liên Xô lănh đạo… Trào lưu chia rẽ nầy tiếp tục lan tràn, Việt Nam bị lôi cuốn vào, dẫn đến cuộc đụng đầu Quốc Cộng diễn ra rất khốc liệt ngay trên nước ta vừa qua như mọi người đều biết. Chống đối (Khuê) xảy ra khốc liệt đến nỗi nhiều khi ngay trong gia đ́nh cũng bị chia hai, ḱnh chống quyết liệt: con đấu cha, vợ tố chồng, anh em theo phe nầy giết phe kia… Tuy hiện tại Liên xô đă tan ră nhưng thời Khuê vẫn chưa chấm dứt. Và hậu qủa của Khuê là Kiển (Kiển là khó khăn, gian khổ, là quái kế liền sau Khuê trong Kinh Dịch) đang tiếp đến: Chiến tranh lạnh vừa dứt th́ thế giới lại bước vào cuộc chiến văn hóa (bao gồm cả tôn giáo, chủng tộc và kinh tế…) lại lan tràn … Riêng cho ḍng Việt, sự kiện 75 chỉ mới là thống nhất về lănh thổ mà không thống nhất nhân tâm, Khuê Kiển vẫn đang gay gắt: Trong nước hôm nay đang xảy ra ḱnh chống lẫn nhau như chưa bao giờ có, các thành phần dân tộc chống nhau ngay trong phe của ḿnh, chưa nói sự kiện ḱnh chống của người Việt nội tại và người Việt hải ngoại…

Muốn “Cách” hay làm cách mạng, những người đứng ra thực hiện đ̣i hỏi phải có những điều căn bản như tượng qủe chỉ rạ Một là: Phải có nhiệt huyết (quyết tâm lớn, là tượng con Hỏa nằm nội quái); hai là: phải có điều đẹp để thay thế cho cái cũ và phải được thể hiện ra bên ngoài (như là lư thuyết hay chủ thuyết cách mạng, là con Đoài nằm ngoại quái). Ba là: phải kiên tŕ đeo đuổi đường lối, bởi sửa đổi lớn muốn thuyết phục người khác tin, đ̣i hỏi phải có thời gian lâu dài, như thoán từ qủe Cách chỉ ra: “Cách: Dĩ năi phu, Nguyên hanh lợi trinh. Hối vong”, nghĩa của nó, tôi tạm dịch ra là:

     “Phải trinh chính mới lợi thông
Ăn năn hối hận mới không vướn vào
Đổi thay đâu phải dễ nào
Lâu ngày mới được quần hào cậy tin”

Sửa đổi hay làm cách mạng mà thiếu ba yếu tố chủ yếu đó th́ khó thành công, hay nếu xấp thời có thắng th́ cũng sẽ bị hối hận v́ việc cách mạng nầy lại có thể dẫn đến hậu qủa là cái sau c̣n tệ hơn cái trước, như: Đuổi beo ra cửa trước, rước cọp vào cửa sau!

VỀ SẤM TRẠNG TR̀NH VỚI CÁC PHƯƠNG TÂY VÀ BẮC

Dưới là phần trích bài viết của Tâm Việt San Jose, cĩ đoạn ghi lại Sấm Trạng về hai phương Tây và Bắc phù hợp với giai đoạn đă mới qua và đang đi tới:

by Tâm Việt (San Jose, CA, US) ngày 18-05-2006
Tâm Việt
San Jose, CA, US


Ơng Trạng Nĩi về phương Tây đây, tự do dân chủ phú cường

Trạng cĩ vẻ favored, mong đợi từ phương Tây cĩ quí nhân cứu vớt nhân dân Việt: phương Tây đất Việt hay Tây phương quốc ngoại ?

Đồi phương thực cĩ chân nhân
Quần tiên khởi nghĩa khơng phân hại người

Đồi phương phước điạ giáng linh
Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân


Đời này thánh kế vị vương
Đủ no đạo đức văn chương trong ḿnh
Uy nghi trạng mạo khác h́nh
Thác cư một gốc kim tinh phương đồi
Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuơi
Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
Binh thơ mấy quyển kinh luân
Thiên văn địa lư nhân luân càng mầu


Phía Bắc Khảm phương theo tập đồn đảng cộng sản búa liềm xuất phát từ Nga Tàụ

Quần gian đạo danh tự
Bách tính khổ tai ương
Can qua tranh đấu khởi
Phạm địch tánh hung hoang
Ma vương sát đại quỉ
Hồng thiên tru ma vương

Xem tượng trời đă giơ ra trước
Cịn hung hăng bạc ngược quá xưa
Cuồng phong cả sớm liền trưa
Đă đờn cửu khúc cịn thơ thi đề
Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết
Để vạn dân dê lại giết dê
Luơn năm chật vật đi về
Âm binh ở giữa nào hề biết đâu
Thấy nội thành tiếng kêu ong ỏng
Cũng một lịng trời chống khác nào
Xem người dường vững chiêm bao
Nào đâu cịn muốn ước ao thái b́nh
Một gĩc thành làm tâm chứng quỷ
Đua một lịng ích kỷ hại nhân
Bốn phương rời rỡ hồng trần
Làng khua mỏ cá lăng phân điếm tuần
Tiếc là những xuất dân làm bạo
Khua dục lồi thỏ cáo tranh nhau
Nhân danh trọn hết đâu đâu
Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê

Đời ấy những quỉ cùng ma
Chảng cịn ở thật người ta đâu là
Trời cao đất rộng bao xa
Làm sao cho biết cửa nhà đế vương
Dù trai ai chửa biết tường
Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này

Việt Nam khơng cĩ vua, tổng thống vào thời này:

Để rộng đường dư luận bài trích trên chỉ nhằm mục đích cho mọi người thấy rằng cái sử mệnh do tơi suy niệm từ đồ h́nh (Hà Lạc và Bác Quái) và đoạn sấm của Cụ Trạng rất phù hợp với nhau và phù hợp với giai đoạn lịch sử từ 45 đến nay và trong tương lai gần nữa (tương lai gần là giai đoạn Mỹ Hoa của thời Lơi Thủy Giải và Trạch Hỏa Cách, chỉ ra sự đụng đầu để sau đĩ sẽ đưa nhân loại bước vào kỷ nguyên mới của thượng nguyên trở lại), như nhận định của tơi được tŕnh bày qua bài thất ngơn bát cú bên dưới:

Di Chúc Hậu Thiên

Thái độ nào đây với Bắc Triều ?
Hậu Thiên Bát Quái (3) đă rành nêu:
Khảm (4) an đất Bắc là Thiên ư
Li thiết (5) trời Nam ấy Việt chiêu (6)
Đơng b́nh (7) mang nghĩa Lơi tiềm phục (8)
Tây qủa (9) hẳn điều Trạch (10) gọi kêu
Mộng làm bá chủ tranh cùng Mỹ (11)
Chú Chệt phen nầy ắt phải tiêu (12)

(1): Sách Ước trinh nguyên không một chữ (2): Gậy thần đốt trúc có hai đầu (3): Hậu Thiên Bát Quái cịn cĩ tên gọi là Hậu Thiên Việt Thượng (tên gọi một tộc dân Bách Việt mà Việt Nam ngày nay là đại diện cịn tồn lại ((4): Xin xem h́nh Hậu Thiên, quái Khảm là Thủy, ngồi nghĩa là lạnh lẽo cịn cĩ nghĩa là khĩ khăn, qủi quyệt, nguy hiểm…, phía Bắc nước ta luơn luơn là lạnh lẽo, khĩ khăn nguy hiểm… (5): Phía nam Hậu thiên là con Li, là hướng tiến của dân tộc v́ khi viết với hệ 6 nét nĩ là con Hỏa Địa Tấn (6): Chiêu thức siêu việt cũng là chiến lược lâu dài của dịng Hồng Lạc... (7): Di chúc truyền dịng trong Đạo Ơng Bà về cách để b́nh Hoa trên bàn thờ gia tiên phía hướng Đơng là Hướng Lơi (8): Lơi là Rồng cĩ một nét dương nằm dưới cùng nên bảo là Lơi tiềm phục, nét dương Rồng nầy đang tiềm ẩn và sẽ phục hồi (9): Qủa sắp hướng Tây hay hướng tay phải (của hướng bàn thờ), là hướng của con Đồi, tức Trạch. Theo nghĩa rộng hoa là tư tưởng từ Đơng và thành qủa, kết qủa của nĩ th́ nằm ở phương tây, Số con tộc Việt ”theo cha xuống biển” đi về phương tây sẽ mời gọi Tây phương cùng hiệp lực để khử trừ Huỳnh Họa khi thời điểm đến như hai câu kết sẽ nĩi lên. (11) Chủ trương của ĐCSTQ là chấp nhận đối đầu với với Mỹ bằng mọi giá như học thuyết Đưa Trung Quốc ra bên ngồi đă được Bộ trưởng Quốc phịng Từ Hạo Điền báo cáo với Bộ Chính Trị. (12)Trong sự đối đầu khơng thể tránh khỏi nầy hậu qủa là Trung Quốc sẽ bị xé nát…



__________________
NhapMon
Quay trở về đầu Xem NhapMon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi NhapMon
 
thiennhan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 634
Msg 288 of 585: Đă gửi: 09 February 2007 lúc 5:14am | Đă lưu IP Trích dẫn thiennhan

Bây giờ thử điểm qua chữ Thời trong Sấm Trạng, Sấm kư, của các nhà Tiên tri phương Tây và qua những bài viết của một số tác giả đă luận bàn để xem thời hiện nay đang ở trong giai đoạn nào ?

Đọc qua bài phân tích của tác giả Đoàn Văn Thông, Xuân Đấu và VQT ... nay trở về bài viết của tác giả Lưu Văn Vịnh, lược qua những điểm chính của thời gian sắp tới trong phần tiên tri của Tây Phương trước rồi xem lại chữ Thời trong Sấm Trạng và Sấm Kư xem có những điểm nào tương đồng về thời gian sắp tới.

NOSTRDAMUS:
Cuối năm 1999 (?) trận Đại chiến cuối cùng Armageddon sẽ xẩy ra giữa Tây Phương và Ả Rập Hồi giáo với một lănh tụ dũng mănh (a strong master of Mahammedan law), một Antichrist thứ ba trong lịch sử, lănh tụ ghê gớm này mang tên Mabus hoặc Alus. Chiến tranh tạo nên bệnh dịch, chết đói, tàn phá nhiều nước. Điềm báo trước là hạn hán, nóng cháy, động đất, mưa lụt khắp nơi.

Nostradamus nhấn mạnh tới những thiên tai đặc biệt là động đất, nóng cháy, hạn hán, hồng thủy do nhiệt độ địa cầu tăng làm chảy băng Bắc cực, động đất lớn, mưa đá to như quả trứng

Antichrist thứ III, trận chiến kinh thiên động địa, thiên tai, Giáo hoàng phải rời khỏi Vatican, một Thánh vương xuất hiện với một thời đại MỚI, tôn giáo mới v..v..

Đây là bài chót thứ 100 của tập chót X Sấm kư, tiên liệu Đế quốc Anh chỉ tồn tại hơn 300 năm

Nhưng rồi Thiện thắng Ác, một lănh tụ tài ba, một thánh vương sẽ đưa Nhân loại vào thiên kỷ mới trong an b́nh 750 năm … (VSSL – LLV).

Theo sấm kư Nostradamus th́ sau khi xảy ra cuộc Đại khủng bố tại Hoa Kỳ th́ thế giới khởi đầu đi vào giai đoạn chuẩn bị chiến tranh. Trận chiến lớn lao xảy ra giữa một liên minh của các quốc gia Hồi giáo (do một nhân vật đấy quyền uy mà Nostradamus gọi là Kẻ Chống Chúa.) một bên là liên minh các quốc gia Phương Tây dẫn đầu là Hoa Kỳ. Cuộc chiến diễn ra khủng khiếp trong suốt một thời gian mà nhà tiên tri Nostradamus cho biết là 3 năm 7 tháng. (Đoàn Văn Thông)


Trích lược dịch của DR. MICHAEL RATHFORD: NOSTRADAMUS CODE : WW III 2007 – 2012.
Chapter 6: World War III
    * Overview: horrible battles, weapons, devastation, death (Tổng quan: những trận đánh kinh khủng, những vũ khí, sự tàn phá, chết chóc)
    * Nuclear confrontation in the Middle East (Đối đầu Hạt nhân trong Trung đông)
    * Mediterranean campaign and the battles of Gibraltar (Chiến dịch và những trận đánh của Gibraltar vùng Địa Trung Hải)
    * Bomb sent at New York by the Antichrist, France retaliates (Bom được gửi tại New York gần Antichrist, Nước Pháp trả đũa)
    * Bacteriological warfare strikes New York and London (Những cuộc chiến vi khuẩn đánh vào New York và London)
    * Antichrist conquers Europe (Kẻ chống chúa Giêsu chiến thắng Châu Âu)
    * The Antichrist invades Britain (Kẻ chống chúa Giêsu xâm chiếm Nước Anh)
    * The crucial meeting on the naval carrier (Cuộc gặp quan trọng về hải quân)
    * Seas, rivers, lakes boil; famines lead to insane cannibalism (Những biển, những sông, những hồ sôi sục, những nạn đói dẫn tới tục ăn thịt người điên cuồng)
    * Antichrist's commander succumbs to key strategic failure (Kẻ chống chúa chỉ huy thua kém, sự thất bại giải pháp chiến lược)
    * Russia breaks free of the Antichrist (Những sự gẫy đổ, cắt đứt quan hệ giải thoát Russia với Kẻ chống chúa)
    * North Pole Alliance of North America, Europe, and Russia forms (H́nh thành liên minh cực bắc của Bắc Mỹ, Châu Âu, với Russia)
    * Ogmios confronts the Antichrist, fate of world in balance Ogmios (liên minh Âu Mỹ Nga) đương đầu với Antichrist, Số phận của thế giới cân bằng)


URSULA SOUTHIEL:
Bà cũng tiên tri về trận chiến quyết định Armageddon, tuy không rơ năm tháng, nhưng viết là cuộc chiến kéo dài 4 năm, vị vua từ xứ mặt trăng (xứ Hồi giáo) sẽ làm kinh hoàng cả thế giới, kéo nhiều nước vào ṿng chiến (Then shall come the Son of Man, having a fierce beast in his arms, which kingdom lies in the Land of the Moon, which is dreadful throughout the world,..and an eagle shall destroy castles of the Thames, and there shall be a battle among many kingdoms... and the fourth year shall be many battles for the faith and the Son of Man) .
Trận thánh chiến sẽ kéo dài 4 năm, sau đó thế giới sẽ được hưởng ḥa b́nh thịnh vượng.


LOUIS HAMON tức CHEIRO
- Nhật và Tầu sẽ liên minh để chỉ đạo Á Châu.
- New York sẽ bị trận động đất lớn tàn phá.
- Không quân Nga sẽ san bằng London.
-Trận Đại chiến Armageddon sẽ bùng nổ khi Nga, Libya, Ethiopia, và Iran xâm chiếm Palestine.

Trận chiến phân rơ trắng đen Armageddon tuy không nói rơ năm tháng như Nostradamus nhưng cũng tương tự v́ nhắc tới các nước Hồi giáo và New York bị tàn phá v́ động đất.


EDGAR CAYCE
- Tự do dân chủ sẽ lan rộng khắp thế giới kể cả Trung Hoa.

- Những biến thái vật lư trên mặt địa cầu có thể làm Bắc Âu rơi xuống biển trong nháy mắt, Nhật Bản sẽ bị động đất và núi lửa tàn phá , tiểu bang North và South Carolina, Georgia, nam Alabama sẽ ch́m xuống ḷng đại dương.

- Thế Chiến thứ III sẽ xẩy ra vào năm 1999 (?) và trong 1 năm chiến họa, văn minh thế giới hiện tại sẽ chấm dứt để nhường bước cho một thời đại ḥa b́nh, tâm linh, thịnh vượng mới, dài 1000 năm.


JEANE DIXON
Ngày 5 tháng 2 năm 1962 nh́n qua cửa sổ xuống đường đột nhiên bà Dixon thấy tất cả biến thành sa mạc và lại thấy Hoàng hậu Nerfertiti và Vua Ai Cập Pharaoh Akhenaten bồng một trẻ sơ sinh dơ lên cho đám đông hoan nghênh mừng rỡ. Bà giải đoán là một đại thánh nhân đă xuất hiện mang lại ḥa b́nh đoàn kết cho nhân loại và phải vào năm 1999 thế giới mới nh́n thấy. Mấy năm sau bà giải đoán lại là đứa bé đó không phải thánh nhân mà chính là một Antichrist sẽ ngự trị thế gian từ Jerusalem ! Ngày 5 Feb. 1962 rất đặc biệt v́ tất cả các sao Sun, Moon, Mercury, Venus, Mars, Jupiter, Saturn đều nằm ở cung 11 Aquarius, báo hiệu sự xuất thế của một đại nhân vật cho kỷ nguyên Aquarius thay kỷ nguyên Pisces.

MALACHY O ' MORGAN
Vị Giáo hoàng cuối trong bản tiên tri mang danh "Petrus Romanus" tức Peter of Rome là vị gánh chịu cơn binh lửa thiêu hủy thành đô trên bẩy ngọn đồi (the seven hilled city will be utterly destroyed) và đúng vào lúc "Phán quan ghê tởm sẽ phán xét người đời" (the awful Judge will judge the people).

Điều tiên tri trên rất giống lời tiên tri của Nostradamus về cảnh tượng chiến tranh xẩy ra khắp Âu châu bao trùm nước Ư, Vatican. Chính Giáo hoàng Pius X trong một thoáng huyền cảm vào năm 1909 đă tiên kiến được cảnh hăi hùng "Điều ta thấy thật kinh khủng ! không biết sẽ xẩy ra vào thời ta hay vào thời sau ? vị Giáo hoàng nào sẽ phải rời Rome, bỏ Vatican, vượt trên bao xác nhà tu mà đi ?". Thoáng huyền cảm này vẽ ra cảnh tượng thời đại chiến khi một Antichrist thứ ba, sau Napoleon và Hitler, sẽ mang đại họa reo rắc lên thế giới làm cả Trung đông lẫn Âu châu lâm vào cơn binh lửa, chết dịch, chết đói, hàng triệu triệu sinh mạng và nhà cửa thành thị ra tro như lời sấm dân gian bên ta diễn tả :

Mười phần chết bẩy c̣n ba
chết hai c̣n một mới ra thái b́nh


HUYỀN KHẢI FATIMA
Lời tiên tri thứ ba này đă là đề tài nghiên cứu tranh luận từ lâu trong giới lư số học Tây phương. Năm 1963, một tờ báo Đức đăng tải toàn bản tiên tri thứ ba này, theo đó một cuộc Đại chiến sẽ bùng nổ vào hậu bán thế kỷ 20, tàn phá tan tành nhiều nước, hành phạm giáo hội Thiên chúa giáo La Mă (persecution of the Catholic Church) cùng với việc ám sát một vị Giáo hoàng. Đa số các nhà nghiên cứu đều đồng ư về hai điểm trên mặc dù tài liệu báo chí không được Vatican công nhận hay phủ nhận.

Theo nhiều tài liệu tiết lộ th́ lời tiên tri thứ ba c̣n bao gồm những chi tiết kinh khủng như Satan mưu đồ lên đứng đầu Giáo hội, đặt người chỉ huy dũng mănh cầm quân gây chiến, sản xuất vũ khí hàng loạt, tạo tranh chấp nội bộ khiến hồng y, giám mục chống đối lẫn nhau. Thời kỳ đen tối này bệnh dịch, lụt lớn, binh lửa, vơ khí tối tân ... làm triệu triệu người chết trong giây phút ! Nhưng rồi một bậc Thiên Tử sẽ xuất hiện để tiêu diệt ác tà và mang lại thanh b́nh vĩnh cửu cho thế gian vào Tân kỷ nguyên.

Tham khảo thêm về Khải Huyền Fatima:
Fatima_Bimat_Tientri

Qua những tiên đoán về tương lai của các nhà Tiên tri phương Tây, chúng ta thấy hầu hết đều tiên đoán sẽ có 1 trận Thế chiến thứ III xẩy ra trong năm 1999, nhưng thời điểm 1999 đă qua b́nh yên chỉ có 1 số biến động không đáng kể. Các nhà Tiên tri cùng tương đồng thấy về trận Thế chiến III nhưng tại sao tất cả lại đoán sai về thời điểm ?, có thể những nhà Tiên tri không nói rơ cụ thể năm xẩy ra mà những người phân tích những lời Tiên tri đoán sai, hoặc do ảnh hưởng đến truyền thuyết tận thế năm 2000 cho nên lời tiên tri bị sai lệch 1 số năm ...

Thử liên kết Sấm Trạng với những lời tiên đoán của những nhà Tiên tri phương Tây để t́m khỏang thời gian nào có thể sẽ xẩy ra Thế chiến thứ III, khởi đầu:

Long vĩ Xà đầu khởi chiến tranh
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mă đề dương cước anh hùng tận
Thân Dậu niên lai kiến thái b́nh
Quay trở về đầu Xem thiennhan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thiennhan
 
ngoctrongdda
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 26 November 2006
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 142
Msg 289 of 585: Đă gửi: 10 February 2007 lúc 6:06pm | Đă lưu IP Trích dẫn ngoctrongdda

Vậy chữ Thời ->Thời thế tạo anh hùng? Anh hùng tạo nên Thời thế? hay có sự phối hợp ở đây?

Lâu quá mải đấu mồm tại mục PTC ,nên quên không nghiên cứu sấm Trạng ,nhưng vẫn nhớ có 1 vài bác có bàn đến chữ Ngọc....

Bạn Nhapmon :Bắc hữu kim thành tráng. Nam tạc ngọc bích thành....Ngọc để tạc tượng th́ được , chứ Ngọc để xây thành lấy đâu mà nhiều thế....-> Ừ chỉ có duy nhất 1 viên ngọc quư mà thôi

Bác Thiennhan : Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc.Ngưu xuất lam điền nhật chính đông....Sao ngưu xuất hiện tại địa danh Lam Điền nơi vùng có nhiều ngọc -> hiihi cần nhất quán ,trâu h́nh như có tính ưa nước(thủy ngưu?) ->gần vùng biển có nhiều Ngọc Trai

Tôi  giải đoán bậy thêm 1 vài câu:

*Nam Việt hữu Ngưu tinh.Quá thất thân thủy sinh

Địa giới xỉ vị bạch.Thủy trầm nhĩ bất kinh -> Vẫn ám chỉ con trâu (?) ,đặc tinh ở đất so với ở dưới nước???

*Dục thức thánh nhân hương

Thủy trung tàng bảo cái(Thủy lam bảo trung tàng) ->Con Ngọc Trai?

Bởi vậy ! Những quư vị nào tuổi Sửu sinh tại thành phố biển nơi mà có nhiều Ngọc Trai...-> có khả năng Vi Vương !

Sửu vi thánh quân vương.Tỵ nhân vi tướng.Th́n tuất vi quân sư ! NTD

 

Quay trở về đầu Xem ngoctrongdda's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ngoctrongdda
 
NhapMon
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 290 of 585: Đă gửi: 13 February 2007 lúc 5:15pm | Đă lưu IP Trích dẫn NhapMon

thiennhan đă viết:
Bây giờ thử điểm qua chữ Thời trong Sấm Trạng, Sấm kư, của các nhà Tiên tri phương Tây và qua những bài viết của một số tác giả đă luận bàn để xem thời hiện nay đang ở trong giai đoạn nào ?

Đọc qua bài phân tích của tác giả Đoàn Văn Thông, Xuân Đấu và VQT ... nay trở về bài viết của tác giả Lưu Văn Vịnh, lược qua những điểm chính của thời gian sắp tới trong phần tiên tri của Tây Phương trước rồi xem lại chữ Thời trong Sấm Trạng và Sấm Kư xem có những điểm nào tương đồng về thời gian sắp tớị

NOSTRDAMUS:
Cuối năm 1999 (?) trận Đại chiến cuối cùng Armageđon sẽ xẩy ra giữa Tây Phương và Ả Rập Hồi giáo với một lănh tụ dũng mănh (a strong master of Mahammedan law), một Antichrist thứ ba trong lịch sử, lănh tụ ghê gớm này mang tên Mabus hoặc Alus. Chiến tranh tạo nên bệnh dịch, chết đói, tàn phá nhiều nước. Điềm báo trước là hạn hán, nóng cháy, động đất, mưa lụt khắp nơi.

Nostradamus nhấn mạnh tới những thiên tai đặc biệt là động đất, nóng cháy, hạn hán, hồng thủy do nhiệt độ địa cầu tăng làm chảy băng Bắc cực, động đất lớn, mưa đá to như quả trứng

Antichrist thứ III, trận chiến kinh thiên động địa, thiên tai, Giáo hoàng phải rời khỏi Vatican, một Thánh vương xuất hiện với một thời đại MỚI, tôn giáo mới v..v..

Đây là bài chót thứ 100 của tập chót X Sấm kư, tiên liệu Đế quốc Anh chỉ tồn tại hơn 300 năm

Nhưng rồi Thiện thắng Ác, một lănh tụ tài ba, một thánh vương sẽ đưa Nhân loại vào thiên kỷ mới trong an b́nh 750 năm … (VSSL – LLV).

Theo sấm kư Nostradamus th́ sau khi xảy ra cuộc Đại khủng bố tại Hoa Kỳ th́ thế giới khởi đầu đi vào giai đoạn chuẩn bị chiến tranh. Trận chiến lớn lao xảy ra giữa một liên minh của các quốc gia Hồi giáo (do một nhân vật đấy quyền uy mà Nostradamus gọi là Kẻ Chống Chúạ) một bên là liên minh các quốc gia Phương Tây dẫn đầu là Hoa Kỳ. Cuộc chiến diễn ra khủng khiếp trong suốt một thời gian mà nhà tiên tri Nostradamus cho biết là 3 năm 7 tháng. (Đoàn Văn Thông)


Trích lược dịch của DR. MICHAEL RATHFORD: NOSTRADAMUS CODE : WW III 2007 – 2012.
Chapter 6: World War III
    * Overview: horrible battles, weapons, devastation, death (Tổng quan: những trận đánh kinh khủng, những vũ khí, sự tàn phá, chết chóc)
    * Nuclear confrontation in the Miđle East (Đối đầu Hạt nhân trong Trung đông)
    * Mediterranean campaign and the battles of Gibraltar (Chiến dịch và những trận đánh của Gibraltar vùng Địa Trung Hải)
    * Bomb sent at New York by the Antichrist, France retaliates (Bom được gửi tại New York gần Antichrist, Nước Pháp trả đũa)
    * Bacteriological warfare strikes New York and London (Những cuộc chiến vi khuẩn đánh vào New York và London)
    * Antichrist conquers Europe (Kẻ chống chúa Giêsu chiến thắng Châu Âu)
    * The Antichrist invades Britain (Kẻ chống chúa Giêsu xâm chiếm Nước Anh)
    * The crucial meeting on the naval carrier (Cuộc gặp quan trọng về hải quân)
    * Seas, rivers, lakes boil; famines lead to insane cannibalism (Những biển, những sông, những hồ sôi sục, những nạn đói dẫn tới tục ăn thịt người điên cuồng)
    * Antichrist's commander succumbs to key strategic failure (Kẻ chống chúa chỉ huy thua kém, sự thất bại giải pháp chiến lược)
    * Russia breaks free of the Antichrist (Những sự gẫy đổ, cắt đứt quan hệ giải thoát Russia với Kẻ chống chúa)
    * North Pole Alliance of North America, Europe, and Russia forms (H́nh thành liên minh cực bắc của Bắc Mỹ, Châu Âu, với Russia)
    * Ogmios confronts the Antichrist, fate of world in balance Ogmios (liên minh Âu Mỹ Nga) đương đầu với Antichrist, Số phận của thế giới cân bằng)


URSULA SOUTHIEL:
Bà cũng tiên tri về trận chiến quyết định Armageđon, tuy không rơ năm tháng, nhưng viết là cuộc chiến kéo dài 4 năm, vị vua từ xứ mặt trăng (xứ Hồi giáo) sẽ làm kinh hoàng cả thế giới, kéo nhiều nước vào ṿng chiến (Then shall come the Son of Man, having a fierce beast in his arms, which kingdom lies in the Land of the Moon, which is dreadful throughout the world,..and an eagle shall destroy castles of the Thames, and there shall be a battle among many kingdoms... and the fourth year shall be many battles for the faith and the Son of Man) .
Trận thánh chiến sẽ kéo dài 4 năm, sau đó thế giới sẽ được hưởng ḥa b́nh thịnh vượng.


LOUIS HAMON tức CHEIRO
- Nhật và Tầu sẽ liên minh để chỉ đạo Á Châụ
- New York sẽ bị trận động đất lớn tàn phá.
- Không quân Nga sẽ san bằng London.
-Trận Đại chiến Armageđon sẽ bùng nổ khi Nga, Libya, Ethiopia, và Iran xâm chiếm Palestinẹ

Trận chiến phân rơ trắng đen Armageđon tuy không nói rơ năm tháng như Nostradamus nhưng cũng tương tự v́ nhắc tới các nước Hồi giáo và New York bị tàn phá v́ động đất.


EDGAR CAYCE
- Tự do dân chủ sẽ lan rộng khắp thế giới kể cả Trung Hoạ

- Những biến thái vật lư trên mặt địa cầu có thể làm Bắc Âu rơi xuống biển trong nháy mắt, Nhật Bản sẽ bị động đất và núi lửa tàn phá , tiểu bang North và South Carolina, Georgia, nam Alabama sẽ ch́m xuống ḷng đại dương.

- Thế Chiến thứ III sẽ xẩy ra vào năm 1999 (?) và trong 1 năm chiến họa, văn minh thế giới hiện tại sẽ chấm dứt để nhường bước cho một thời đại ḥa b́nh, tâm linh, thịnh vượng mới, dài 1000 năm.


JEANE DIXON
Ngày 5 tháng 2 năm 1962 nh́n qua cửa sổ xuống đường đột nhiên bà Dixon thấy tất cả biến thành sa mạc và lại thấy Hoàng hậu Nerfertiti và Vua Ai Cập Pharaoh Akhenaten bồng một trẻ sơ sinh dơ lên cho đám đông hoan nghênh mừng rỡ. Bà giải đoán là một đại thánh nhân đă xuất hiện mang lại ḥa b́nh đoàn kết cho nhân loại và phải vào năm 1999 thế giới mới nh́n thấỵ Mấy năm sau bà giải đoán lại là đứa bé đó không phải thánh nhân mà chính là một Antichrist sẽ ngự trị thế gian từ Jerusalem ! Ngày 5 Feb. 1962 rất đặc biệt v́ tất cả các sao Sun, Moon, Mercury, Venus, Mars, Jupiter, Saturn đều nằm ở cung 11 Aquarius, báo hiệu sự xuất thế của một đại nhân vật cho kỷ nguyên Aquarius thay kỷ nguyên Pisces.

MALACHY O ' MORGAN
Vị Giáo hoàng cuối trong bản tiên tri mang danh "Petrus Romanus" tức Peter of Rome là vị gánh chịu cơn binh lửa thiêu hủy thành đô trên bẩy ngọn đồi (the seven hilled city will be utterly destroyed) và đúng vào lúc "Phán quan ghê tởm sẽ phán xét người đời" (the awful Judge will judge the people).

Điều tiên tri trên rất giống lời tiên tri của Nostradamus về cảnh tượng chiến tranh xẩy ra khắp Âu châu bao trùm nước Ư, Vatican. Chính Giáo hoàng Pius X trong một thoáng huyền cảm vào năm 1909 đă tiên kiến được cảnh hăi hùng "Điều ta thấy thật kinh khủng ! không biết sẽ xẩy ra vào thời ta hay vào thời sau ? vị Giáo hoàng nào sẽ phải rời Rome, bỏ Vatican, vượt trên bao xác nhà tu mà đi ?". Thoáng huyền cảm này vẽ ra cảnh tượng thời đại chiến khi một Antichrist thứ ba, sau Napoleon và Hitler, sẽ mang đại họa reo rắc lên thế giới làm cả Trung đông lẫn Âu châu lâm vào cơn binh lửa, chết dịch, chết đói, hàng triệu triệu sinh mạng và nhà cửa thành thị ra tro như lời sấm dân gian bên ta diễn tả :

Mười phần chết bẩy c̣n ba
chết hai c̣n một mới ra thái b́nh


HUYỀN KHẢI FATIMA
Lời tiên tri thứ ba này đă là đề tài nghiên cứu tranh luận từ lâu trong giới lư số học Tây phương. Năm 1963, một tờ báo Đức đăng tải toàn bản tiên tri thứ ba này, theo đó một cuộc Đại chiến sẽ bùng nổ vào hậu bán thế kỷ 20, tàn phá tan tành nhiều nước, hành phạm giáo hội Thiên chúa giáo La Mă (persecution of the Catholic Church) cùng với việc ám sát một vị Giáo hoàng. Đa số các nhà nghiên cứu đều đồng ư về hai điểm trên mặc dù tài liệu báo chí không được Vatican công nhận hay phủ nhận.

Theo nhiều tài liệu tiết lộ th́ lời tiên tri thứ ba c̣n bao gồm những chi tiết kinh khủng như Satan mưu đồ lên đứng đầu Giáo hội, đặt người chỉ huy dũng mănh cầm quân gây chiến, sản xuất vũ khí hàng loạt, tạo tranh chấp nội bộ khiến hồng y, giám mục chống đối lẫn nhaụ Thời kỳ đen tối này bệnh dịch, lụt lớn, binh lửa, vơ khí tối tân ... làm triệu triệu người chết trong giây phút ! Nhưng rồi một bậc Thiên Tử sẽ xuất hiện để tiêu diệt ác tà và mang lại thanh b́nh vĩnh cửu cho thế gian vào Tân kỷ nguyên.

Tham khảo thêm về Khải Huyền Fatima:
Fatima_Bimat_Tientri

Qua những tiên đoán về tương lai của các nhà Tiên tri phương Tây, chúng ta thấy hầu hết đều tiên đoán sẽ có 1 trận Thế chiến thứ III xẩy ra trong năm 1999, nhưng thời điểm 1999 đă qua b́nh yên chỉ có 1 số biến động không đáng kể. Các nhà Tiên tri cùng tương đồng thấy về trận Thế chiến III nhưng tại sao tất cả lại đoán sai về thời điểm ?, có thể những nhà Tiên tri không nói rơ cụ thể năm xẩy ra mà những người phân tích những lời Tiên tri đoán sai, hoặc do ảnh hưởng đến truyền thuyết tận thế năm 2000 cho nên lời tiên tri bị sai lệch 1 số năm ...

Thử liên kết Sấm Trạng với những lời tiên đoán của những nhà Tiên tri phương Tây để t́m khỏang thời gian nào có thể sẽ xẩy ra Thế chiến thứ III, khởi đầu:

Long vĩ Xà đầu khởi chiến tranh
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mă đề dương cước anh hùng tận
Thân Dậu niên lai kiến thái b́nh


"438 - Kư Mă xu (khu) Dương tẩu
439 - Phù Kê thăng đại minh
440 - Trư Thử giai phong khởi
441 - Th́n Măo xuất thái b́nh"


"Long vĩ Xà đầu khởi chiến tranh
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mă đề dương cước anh hùng tận
Thân Dậu niên lai kiến thái b́nh"


Thưa bác TN, nếu xét các câu trên đây th́ chúng thấy có sự khác biệt về thời gian khi tiên đoán thái b́nh:

441 - Th́n Măo xuất thái b́nh



Thân Dậu niên lai kiến thái b́nh

Câu trên tiên đoán thái b́nh vào các năm Th́n Măo, c̣n câu dưới th́ nói rằng thái b́nh sẽ đến vào các năm Thân Dậu!

Như vậy, phải có một câu không đúng. Theo LVV trong VSSL, ông ta cũng tỏ ra nghi ngờ xuất xứ của 04 câu:

"Long vĩ Xà đầu khởi chiến tranh
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mă đề dương cước anh hùng tận
Thân Dậu niên lai kiến thái b́nh"


và ông ấy cho rằng các câu này chỉ xuất hiện sau 1945.

Vài ư chia xẻ

Sửa lại bởi NhapMon : 13 February 2007 lúc 5:16pm


__________________
NhapMon
Quay trở về đầu Xem NhapMon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi NhapMon
 
NhapMon
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 291 of 585: Đă gửi: 15 February 2007 lúc 3:45pm | Đă lưu IP Trích dẫn NhapMon

Tiếp tục chữ THỜI...

"Xin mời bạn đọc cùng b́nh phẩm qua lời giải đoán nổi tiếng của Nam Thiên “Một Trăm Năm Việt Nam 1925-2025 với Trạng Tŕnh và Nostradamus,” và Jean-Charles de Fontbrune “Nostradamus: Countdown to Apocalypsẹ”

Cũng như Đức Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) th́ Tiên Tri Nostradamus (1503-1566) cũng dùng ẩn ngữ để ghi lại sở kiến của ḿnh trong Les Propheties gồm có 10 chương và 100 đoạn thơ bốn câụ

Và hơn 400 năm trước, Sấm Trạng Tŕnh cũng như Nostradamus từ miền thôn quê xa xôi St. Rémyđe-Provence, Pháp quốc, đă làm sáng tỏ chính nghĩa quốc gia và mang lại vinh dự cho dân tộc Việt Nam qua lời tiên báo về:

Cuộc Chiến Quốc Cộng 27 Năm: (Trích đoạn 8/77trong Les Propheties)

L’antechrist trois bien tost annichilez,
Vingt et sept ans sang durera sa guerre:
Les heretiques morts, captifs exilez,
Sang corps humain eau rougie greler terrẹ

Dịch là:

Tên qủy vương sẽ sớm hủy hoại ba quốc gia,
Cuộc chiến đẫm máu do hắn gây ra sẽ kéo dài 27 năm:
Người phản động phải chết, kẻ bị bắt th́ biệt xứ,
Máu và xác người nhuộm đỏ nước và làm tê cóng đất.


Xin mời các bác:
Một Trăm Năm Việt Nam 1925-2025 với Trạng Tŕnh và Nostradamus

__________________
NhapMon
Quay trở về đầu Xem NhapMon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi NhapMon
 
linhlinhlinh
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 25 November 2006
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 140
Msg 292 of 585: Đă gửi: 18 February 2007 lúc 1:18pm | Đă lưu IP Trích dẫn linhlinhlinh

phần luận về sấm trạng Tŕnh ban đầu rôm rả nhờ vssl nay ngơ hồi vô bế tắc thật vậy!lực đành bất ṭng tâm!
Quay trở về đầu Xem linhlinhlinh's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi linhlinhlinh
 
NhapMon
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 293 of 585: Đă gửi: 18 February 2007 lúc 2:39pm | Đă lưu IP Trích dẫn NhapMon

Năm mới chúc các bác VẠN SỰ NHƯ Ư



__________________
NhapMon
Quay trở về đầu Xem NhapMon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi NhapMon
 
thiennhan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 634
Msg 294 of 585: Đă gửi: 20 February 2007 lúc 1:14am | Đă lưu IP Trích dẫn thiennhan

Năm cũ Bính Tuất 2006 đă qua năm mới Đinh Hợi 2007 bắt đầu, các nhà tiên tri tân thời và những nhà khoa học ngành tương lai học tiên đoán ra sao:

Code:
Các chiêm tinh gia: Năm mới Đinh Hợi sẽ có nhiều tin không vui
Friday, February 16, 2007

HONG KONG - Nhiều vị thầy bói, bốc sư, thầy phong thủy, chiêm tinh gia... lỗi lạc đều tiên đoán rằng năm mới Đinh Hợi, khởi sự vào ngày 18 Tháng Hai tới đây, là một năm tốt đẹp để sanh con, nhưng các vị này lại báo động rằng nhiều bệnh dịch, thiên tai, thảm họa và bạo động cũng sẽ diễn ra trong năm mới này, trên khắp thế giới.

Thầy phong thủy Raymond Lo, hành nghề tại Hong Kong, quả quyết rằng:

“Năm Đinh Hợi sẽ là một năm chẳng yên lành đâu. Những năm Hợi thường là rối ren, v́ đó là năm bị thống lĩnh giữa hỏa (lửa) và thủy (nước). Lửa và nước là các yếu tố đố kỵ nhau, v́ vậy cũng tạo nên rắc rối cho thế gian.

Thầy Raymond nói tiếp:

“Lửa mà gặp nước, th́ đó chính là dấu hiệu của sự xung khắc, đưa đến các cuộc tranh chấp hay xích mích. Rồi đây chúng ta có thể sẽ thấy thêm các thảm họa về cháy và nổ bom.

Bà thầy phong thủy Lillian Too của Mă Lai Á cũng tiên liệu về các sự rối ren trong năm mới Đinh Hợi này.

Bà Lillian nói tiếp như sau:

“Tôi không thể nói được rằng sẽ không xảy ra thiên tai trong năm mới Đinh Hợi này, nhưng tôi lo ngại rằng nó cũng không kém tệ hại hơn trong năm vừa qua. Sẽ có cả bệnh dịch nữa. Tôi cảm thấy rất lo ngại về bệnh cúm gà. Vậy hăy ăn những loại thực phẩm vệ sinh và hăy lo cho sức khỏe của ḿnh nhé.”

Hồi năm ngoái chiêm tinh gia lỗi lạc của Hong Kong, Alion Yeo, tiên đoán một cách chính xác về cuộc khủng hoảng nguyên tử của Bắc Hàn sẽ trở nên tệ hại hơn trong năm Tuất, qua việc Bắc Hàn thực hiện cuộc thí nghiệm nguyên tử, th́ trong năm Hợi này thầy Yeo tiên đoán thêm rằng “tại nước cộng sản khép kín này sẽ diễn ra một cuộc tranh giành quyền hành và đưa đến cuộc thay đổi trong các cấp lănh đạo vào khoảng Tháng Năm.”

Trong khi đó, bốc sư John Lok của Singapore th́ quả quyết rằng t́nh h́nh cuộc chiến Iraq khó có thể giải quyết được ổn thỏa trong năm Hợi này, và v́ vậy Tổng Thống Bush sẽ phải đối phó với một năm xấu, trong khi nước Pháp sẽ có một nữ tổng thống đầu tiên.
Đa số các vị tiên đoán tương lai này, đều cho rằng nền kinh tế thế giới sẽ phát triển trong năm Hợi này, tuy nhiên mọi người cũng nên đầu tư một cách dè dặt, cẩn thận. (L.T.)

Từ 2007 đến 2100 thế giới sẽ ra sao?

Năm 2009, loài người dù muốn hay không buộc phải thừa nhận đứa trẻ vô tính đầu tiên ra đời. Năm 2016, con người có thể luyện sắt thành vàng... Đó là một vài trong số những dự báo của các nhà tương lai học trong khoảng 100 năm tới.

Tương lai học được khẳng định là một ngành nghiên cứu khi đă dự báo đúng việc một dịch bệnh (cúm) sẽ trở lại đe dọa loài người hoặc xung đột trên thế giới trong thế kỷ 21 sẽ bắt nguồn chủ yếu từ những mâu thuẫn tôn giáo, sự không hiểu nhau giữa các nền văn minh... Với những cơ sở khoa học trong tay, các nhà tương lai học đă vạch ra lối sống và xă hội mới của loài người. Theo đó, từng năm con người sẽ đi từ tiến bộ này đến tiến bộ khác dù ít ngờ tới. Tuy nhiên, đó chỉ là những dự báo để tham khảo. Những quan điểm dưới đây được coi là thực tế nhất.

2007 - Thế giới tiếp tục phải đối phó với các loại dịch bệnh, nghiêm trọng nhất là cúm gia cầm, loài người bắt đầu thực sự lo ngại và phải bắt tay vào pḥng chống các virus biến thể khác. Công nghệ giải trí đạt được nhiều thành tựu với những ứng dụng mới. Dầu mỏ trở thành vấn đề lớn khi lượng cung và cầu luôn có khoảng cách, giá dầu sẽ lại lập kỷ lục mới. Có thể một cuộc xung đột lớn do Mỹ cầm đầu lại xảy ra, mà đối tượng có thể là Iran, Syria hoặc Triều Tiên. Trung Đông vẫn là một khu vực “nóng” nhất thế giới. Những bất đồng trên trường quốc tế lại bắt đầu. Quan hệ đồng minh trở nên lỏng lẻo hơn với những lợi ích đôi khi không cùng một hướng.

Chúng ta có thể có thêm nhiều hiểu biết mới, bất ngờ về sao Hỏa, đặt nền móng cho những nghiên cứu đưa con người đặt chân đến hành tinh này trong tương lai gần.

2008 - Tốc độ máy tính điện tử tăng gấp hàng trăm lần hiện nay. Các nhiên liệu hóa thạch đi vào giai đoạn bị từ chối. Những nhiên liệu mới như phản vật chất, năng lượng vũ trụ, nhiên liệu hydro, năng lượng tự tái chế... sẽ được dùng và dần trở nên phổ biến.

Con người bắt đầu chuẩn bị cho việc sử dụng đại trà một loại năng lượng mới, có thể là nước (động cơ hydro). Ngành công nghiệp chế tạo máy phải sửa soạn cho sự thay đổi này, h́nh thành cơ sở ban đầu cho một loại phương tiện giao thông khác hẳn hiện nay.

Môi trường bị tàn phá nặng nề bắt đầu xuất hiện những hậu quả khủng khiếp. Thiên tai trở nên hung dữ. Không chỉ băo có cường độ cao hơn mà lũ lụt, hạn hán cũng mạnh khác thường. Mùa hè sẽ nóng hơn, mùa đông lạnh hơn. Loài người phải đối mặt với nạn đói ở một phạm vi rộng lớn. T́nh h́nh chính trị tại nhiều khu vực mất ổn định. Thiên tai thành nỗi ám ảnh lớn, con người phải bắt tay với nhau xây dựng lại một thế giới ḥa hợp với thiên nhiên hơn.

2009 – (Kỷ Sửu) Loài người dù muốn hay không buộc phải thừa nhận đứa trẻ vô tính đầu tiên ra đời. Một cơn dịch nhân bản sẽ khó tránh khỏi và theo đó một loại tội phạm mới sẽ ra đời, rất nguy hiểm, làm cho xă hội có thể bị rối loạn.

Vai tṛ cường quốc số 1 của Mỹ chấm dứt do sa lầy vào một cuộc chiến tranh khu vực khiến kinh tế suy thoái. Trung Quốc, với sức mạnh và tiềm lực to lớn nổi lên với những ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống kinh tế, chính trị thế giới. H́nh thế đa cực xuất hiện. Chính quyền Mỹ bị căm ghét và bị săn lùng bởi nhiều thế lực theo chủ nghĩa dân tộc hoặc quá khích. Nước Mỹ co cụm lại, xu hướng chính trị chỉ quan tâm đến các vấn đề quốc nội thắng thế. Thế giới có thể bước vào một biến động lớn nhất lịch sử rồi dần ổn định lại, cơ chế chính trị đa cực được khẳng định khiến thế giới ḥa b́nh, ḥa hoăn hơn.

2010 - T́m ra cơ chế kháng lại virus HIV của cơ thể, đặt nền móng cho khả năng sản xuất vắcxin. Băng ở hai cực trái đất tan với tốc độ nhanh, làm mực nước biển dâng cao hơn so với ngày nay gần 5 cm.

Tiến tŕnh toàn cầu hóa, khu vực hóa đă được thực thi rộng khắp, không c̣n quốc gia nào nằm ngoài một cộng đồng hay một khối kinh tế, chính trị. Số người chết v́ ô nhiễm môi trường lên tới hàng triệu mỗi năm.

Liên Hợp Quốc có nghị quyết bắt đầu tiến tŕnh phá hủy mọi loại vũ khí hạt nhân. Dù không thể triệt để nhưng không nước nào dám công khai công nhận ḿnh c̣n vũ khí hạt nhân để phải chịu sự căm giận của cả thế giới.

2011 - Chiến tranh, ảnh hưởng chính trị không c̣n là sự quan tâm hàng đầu của các cường quốc do sự ḥa hoăn và quá tŕnh toàn cầu hóa, khu vực hóa đă đến đỉnh điểm. Khoa học kỹ thuật được đầu tư mạnh. Các máy phát lượng tử (khai thác năng lượng vũ trụ) có thể sản sinh ra điện không hạn chế được triển khai, được bán dưới dạng các thiết bị xách tay và dùng cho gia đ́nh cỡ từ vài KW trở lên. Các nhà máy điện, các cột, mạng điện được dỡ bỏ. Kiểm soát điện tử gần như loại trừ được mọi loại tội phạm chuyên nghiệp.

2012 - Sản xuất được vắcxin kháng virus HIV. Các bệnh tiểu đường, viêm gan B cũng bước đầu t́m ra được thuốc chữa trị hiệu quả hơn.

Các loại h́nh dịch vụ trở thành nhân tố chính cho thu nhập quốc dân. Thời gian làm việc được giảm xuống mức tối thiểu. Các nhân công thay nhau đi làm và mua sắm những sản phẩm ngày càng nhiều. Nhiều loài động vật tuyệt chủng tái sinh. Một số quốc gia có thể có những vườn bách thú khủng long và các sinh vật mà con người hiện đại chưa từng được nh́n thấy.

2014 - Các nhà khoa học t́m ra thuốc chữa ung thư và HIV. H́nh dáng con người bắt đầu thay đổi do phần lớn thời gian trong đời ngồi làm việc tại bàn giấy, trong nhà máy và điều kiện sống, thời tiết thay đổi. Quan điểm thẩm mỹ về cái đẹp cũng thay đổi theo.

Các chuyến bay vũ trụ trở thành dịch vụ phổ biến. Lịch sử du hành vũ trụ lặp lại lịch sử của ngành hàng không, nhưng với tốc độ chậm hơn.

2016 - Con người kiểm soát được hoạt động của vật chất ở mức nguyên tử. Nhờ vậy, việc “luyện” sắt thành vàng, kim loại thường thành kim loại quư... có thể bắt đầu. Trong ṿng vài năm, do hữu ích hơn nên kẽm, nhôm, niken và thiếc sẽ đắt hơn vàng.

2019 - Băng ở Bắc Cực và Nam Cực tan nhanh. Tuy nhiên, con người cũng t́m ra những biện pháp thích nghi mới. Mọi loại tiền tệ quốc gia đều băi bỏ. Một giá trị sử dụng mới trở thành đơn vị lưu thông trên toàn thế giới.

2020 - Tốc độ của máy tính tăng gấp nhiều lần so với hiện nay với thế hệ máy tính lượng tử. Trí tuệ nhân tạo (AI - Articial intelligence) đuổi kịp tŕnh độ và là trợ thủ không thể thiếu của con người. Có thể xuất hiện những người nửa máy với cơ chế sinh học b́nh thường (hiện nay người ta đă cấy máy được cho các côn trùng). Các mẫu người máy mang trí tuệ nhân tạo được “cử” lên thám hiểm vũ trụ.

2022 - Tốc độ giảm dân số trở thành một nỗi lo. Số trẻ em và người lao động trẻ rất hiếm trong khi số người lĩnh lương hưu quá nhiều. Mối ràng buộc quan hệ gia đ́nh không c̣n chặt chẽ nữa. Hôn nhân trở thành bắt buộc. Con người đặt chân lên sao Hỏa và vấp phải nhiều thách thức mới về khoa học.

2026 - Một loại bệnh nan y mới xuất hiện, nhiều người chết hơn, những cuộc di tản lớn xảy ra. Đó cũng có thể là một biến thể của loại virus quen thuộc, như cúm chẳng hạn.

Các lục địa của trái đất thay đổi vị trí. Bản đồ châu lục phải thay đổi theo. Những tín hiệu từ một nền văn minh khác được gửi đến trái đất, song mọi nỗ lực giải mă đều bất lực.

2028 - Nghiên cứu thần kinh đem lại hiểu biết về mọi loại cảm giác, nhờ đó việc nạp tín hiệu trực tiếp, không qua ngũ giác như: mắt, tai, da... trở thành hiện thực. Con người có thể xâm nhập vào thế giới cảm nhận hoặc tưởng tượng - thậm chí c̣n ḥa nhập được với các bộ năo khác. Ngoài ứng dụng cho việc giải trí, các bác sĩ cũng dễ cảm nhận được các bệnh chứng của bệnh nhân. Việc cố t́nh nói dối không thể xảy ra, nạn tội phạm được xóa bỏ căn bản.

2029 - Trung Quốc sẽ vượt Mỹ về tổng sản phẩm quốc dân, để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới.

2037 - Máy “nhân bản vạn năng” dựa trên công nghệ nano được hoàn thiện: mọi đối tượng, dù phức tạp đến đâu đều có thể tạo ra được nếu có đủ nguyên liệu và khuôn mẫu thông tin phù hợp. Người ta có thể tạo ra kim cương hoặc món ăn cầu kỳ từ... rác. Kết quả, nông nghiệp và công nghiệp bị quên dần. Giải trí và giáo dục được coi trọng. Xă hội săn bắt, hái lượm được tái lập, những vùng đất rộng lớn trên hành tinh do không cần dành để sản xuất lương thực nữa được phép quay trở lại trạng thái tự nhiên ban đầu.

2040 - Tuổi thọ trung b́nh của con người tăng lên trên 100. Loại nhà cửa di động, tự xếp lại và có thể tái sử dụng (do Buckmister nghĩ ra từ trước gần một thế kỷ) được hoàn thiện. Mỗi nguyên tử carbon mới cần thiết để tổng hợp nên thực phẩm sẽ được điều chế bằng cách tách chiết khí carbon từ khí quyển.

2045 - Chán cuộc sống nhàn nhă, hàng triệu người quyết định “tạm nghỉ” siêu lạnh để di tản vào tương lai nhằm t́m kiếm sự mới lạ. Những “nhà nghỉ đông” khổng lồ được dựng lên ở Nam Cực và các vùng đêm tối vĩnh hằng trên hai cực mặt trăng.

2050 - Trái đất gặp những biến đổi khí hậu phức tạp, nguy hiểm. Các nhà khoa học bắt đầu xây dựng những làng xóm vũ trụ có người máy phục vụ, duy tŕ sự sinh sống trên mặt trăng, nơi con người sẽ sống được lâu hơn nhờ trọng lực mặt trăng yếu hơn trái đất nhiều lần.

2059 - Con người có thể khám phá được sự sống ở một hành tinh xa. Ngày 4/10, tṛn 100 năm phóng vệ tinh Sputnik, sẽ được nhân loại tổ chức kỷ niệm không những trên trái đất, mà cả trên mặt trăng, sao Hỏa, vệ tinh Europa, Gayymede và Titan - cũng như quỹ đạo ṿng quanh sao Kim, sao Hải Vương và sao Diêm Vương.

2061 - Dân số thế giới trở lại mức 5,5 tỉ người. Sao chổi Halay có thể quay lại; con người lần đầu tiên đổ bộ lên tâm sao. Việc phát minh gây chấn động mạnh về cả hai dạng sống tích cực và ngủ đông, minh chứng cho giả thuyết của hai nhà nghiên cứu Hoy và Wickrmasinghe trước đó một thế kỷ cho rằng sự sống có mặt khắp nơi trong toàn vũ trụ là có cơ sở.

2085 - Ánh sáng mặt trời trở nên yếu ớt trên trái đất, nhiệt độ hạ xuống. Nhiên liệu hóa thạch lại được đốt cháy với quy mô lớn để đẩy lùi kỷ nguyên băng giá mới bằng cách thúc đẩy hiện tượng hiệu ứng nhà kính.

2090 - Triển khai “động cơ phản vật chất” - một hệ thống phản lực từ vật liệu siêu vật chất cho phép đạt tốc độ suưt soát vận tốc ánh sáng, phá vỡ cấu trúc không gian và thời gian. Những nhà thám hiểm bay đến các hệ sao ở gần hệ mặt trời. Triển vọng tạo một trái đất thứ hai ngoài Thái Dương hệ không c̣n xa vời.

2100 - Cuộc sống của con người đă hoàn toàn thay đổi và lịch sử nền văn minh bắt đầu sang trang...

Loài người phải bắt đầu lo cho tương lai, ngay từ bây giờ, để các thế hệ con cháu mai sau được hưởng những ǵ tốt đẹp, c̣n những nguy cơ chỉ là ảo ảnh.


NhapMon viết:
Code:
"438 - Kư Mă xu (khu) Dương tẩu
439 - Phù Kê thăng đại minh
440 - Trư Thử giai phong khởi
441 - Th́n Măo xuất thái b́nh"

"Long vĩ Xà đầu khởi chiến tranh
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mă đề dương cước anh hùng tận
Thân Dậu niên lai kiến thái b́nh"

Thưa bác TN, nếu xét các câu trên đây th́ chúng thấy có sự khác biệt về thời gian khi tiên đoán thái b́nh:

441 - Th́n Măo xuất thái b́nh



Thân Dậu niên lai kiến thái b́nh

Câu trên tiên đoán thái b́nh vào các năm Th́n Măo, c̣n câu dưới th́ nói rằng thái b́nh sẽ đến vào các năm Thân Dậu!

Như vậy, phải có một câu không đúng. Theo LVV trong VSSL, ông ta cũng tỏ ra nghi ngờ xuất xứ của 04 câu:

"Long vĩ Xà đầu khởi chiến tranh
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mă đề dương cước anh hùng tận
Thân Dậu niên lai kiến thái b́nh"

và ông ấy cho rằng các câu này chỉ xuất hiện sau 1945.

Vài ư chia xẻ


Sấm Trạng hay những lời tiên tri, Giáng bút, cầu cơ ... phương Đông hay phương Tây mang nhiều nét huyền hoặc, và Sấm Trạng hay những lời tiên tri cũng vậy, khó xác định là bài nào đúng bài nào sai, chỉ phân tích suy luận rồi đặt nghi vấn, v́ vậy những câu trong Sấm Trạng như ông LVV đưa ra cũng chỉ là nghi vấn, chúng ta cũng chưa biết rơ là có phải bài "Thân Dậu niên lai" là trước hay sau chưa ai khẳng định được, v́ vậy ngay từ đầu tôi cũng có nói chúng ta thử phân tích và suy luận trong một chừng mực có thể được v́ không có ch́a khóa mở, cũng như ông LVV viết:

Code:
Người viết Sấm thuộc loại Thánh nhân, người đọc Sấm cũng cần tĩnh tâm để đốt lửa soi gan kim cổ. Phá chấp kiến, vượt ngă mạn, trực chỉ nhân tâm mà kiến cái "Huyền" của lịch sử


Cho nên chúng ta chưa vội kết luận câu nào đúng hay sai thật hay giả, mà thử đi t́m trong sự huyền diệu để thấy được điều ǵ trong tương lai không ?

438 - Kư Mă xu (khu) Dương tẩu
439 - Phù Kê thăng đại minh
440 - Trư Thử giai phong khởi
441 - Th́n Măo xuất thái b́nh"

Tôi nghĩ 4 câu này là thời gian sau 1945 nhiều hơn, sau thế chiến 2 Pháp Nhật tan ră rời rạc Việt Minh (liên minh các đảng) dần lớn mạnh (Kư Mă xu (khu) 敺: đuổi Dương: {Tây dương} tẩu), Việt Nam tuyên bố độc lập năm 1945 Ất Dậu (phù kê thăng đại minh), 1946, 1947 (Trư Thử) nổi lên nhiều đảng phái tách ra, 1951, 1952 (Th́n Măo) CS tiêu diệt các đảng phái khác ... từ đó mới “xuất 出 : mở ra thái b́nh”, mở ra ở đây chỉ là mới tạm thời (mở) thái b́nh sau 83 năm Pháp thuộc, câu “Thân Dậu niên lai kiến 見: thấy thái b́nh” là mới thấy được thái b́nh chứ chưa phải là thái b́nh , c̣n câu trong bài Bạch Vân ca “Tứ phương thiên hạ thái b́nh phong 豐: thịnh vượng, to lớn, tốt tươi ...” cũng rất đáng suy nghĩ .

Các bạn cứ thong thả phân tích, những lúc nhàn rồi chẳng bận tâm việc ǵ, mở sử Việt xem lại rồi đối chiếu suy nghĩ với Sấm Trạng thử t́m xem điểm nào hợp lư, điểm nào c̣n lấn cấn chưa thông, nhờ người khác phản biện nêu lên để cùng nhau t́m phần hợp lư nhất, sẽ có nhiều phần cảm nhận được tương lai của thế giới và đất nước Việt hiện nay đang trong thời điểm nào. Tôi sẽ đọc tham khảo thêm những nơi rồi sẽ từ từ đưa lên cùng phân tích suy luận xem có hợp lư hay chưa, chứ không phải là có ư “kiến giải” Sấm Trạng, v́ tôi không có đủ khả năng để “kiến giải” mà chỉ t́m phần nào suy luận có hợp lư hay chưa hoặc không hợp lư.

Chúc các bạn 1 năm Đinh Hợi nhiều an lành mạnh khỏe và hạnh phúc
Quay trở về đầu Xem thiennhan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thiennhan
 
NhapMon
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 295 of 585: Đă gửi: 20 February 2007 lúc 8:57pm | Đă lưu IP Trích dẫn NhapMon

Lời tiên tri của Nostradamus:

"Cuối năm 1999 trận Đại chiến cuối cùng Armageđon sẽ xẩy ra giữa Tây Phương và Ả Rập Hồi giáo với một lănh tụ dũng mănh (a strong master of Mahammedan law), một Antichrist thứ ba trong lịch sử, lănh tụ ghê gớm này mang tên Mabus hoặc Alus. Chiến tranh tạo nên bệnh dịch, chết đói, tàn phá nhiều nước. Điềm báo trước là hạn hán, nóng cháy, động đất, mưa lụt khắp nơi
Nostradamus nhấn mạnh tới những thiên tai đặc biệt là động đất, nóng cháy, hạn hán, hồng thủy do nhiệt độ địa cầu tăng làm chảy băng Bắc cực, động đất lớn, mưa đá to như quả trứng."


Qua các câu Sấm sau đây, Nostradamus tiên đoán chiến tranh thế giới lần thứ III được bắt đầu vào năm 1999

French:
"L'an mil neuf cens nonante neuf sept mois,
Du ciel viendra un gran Roy d'effrayeur.
Resusciter le grand Roy d'Angolmois.
Avant apres Mars regner par bon heur."


English:
"The year 1999, seventh month, [or simply "sept"]
From the sky will come a great King of Terror.
To bring back to life the great King of the Mongols,
Before and after Mars to reign by good luck."


và kéo dài trong 27 năm:

French:
"L’antechrist trois bien tost annichilez,
Vingt et sept ans sang durera sa guerre:
Les heretiques morts, captifs exilez,
Sang corps humain eau rougie greler terrẹ"


English:
"The third antichrist very soon annihilates,
twenty-seven years his war will last.
The unbelievers are dead, captive, exiled;
with blood, human bodies, water and red hail covering the earth."


Dịch là:

Tên qủy vương thứ ba sẽ tàn phá,
Cuộc chiến đẫm máu do hắn gây ra sẽ kéo dài 27 năm:
Những người không theo (qũy vương?) phải chết, kẻ bị bắt, kẻ biệt xứ,
Máu và xác người nhuộm đỏ nước và làm tê cóng đất.



NHỮNG BIẾN CỐ TRONG NĂM 1999
(Source: Wikipedia)

THIÊN TAI
- Động đất ở Colombia: 1.000 người chết
- Động đất ở Turkey: 17.000 chết và 40.000 người khác bị thương
- Động đất ở Athens: 143 người chết
- Động đất ở Taiwan: 2.400 người chết
- Động đất lần 2 ở Turkey : 845 người chết và 4.948 người khác bị thương
- Động đất và sóng thần Tsunami ở Vanuatu
- Bảo lụt ở Venezuela làm 25.000 người chết và 100.000 người mất nhà cửa
- Băo tuyết tàn phá hoàn toàn ngôi làng Galtür ở Austria
- Hỏa hoạn trong đường hầm Mont Blanc làm 39 người thiệt mạng và bị đóng cửa gần 3 năm
- Băo tuyết ở miền trung tây Hoa Kỳ, nhiệt độ dưới 25C, 68 người chết
- Mưa đá (hailstorm) ngày 14 tháng 4 ở Sydney là trận mưa đá lớn nhất trong lịch sử Sydney, thiệt hại lên đến 1 tỷ rưỡi . Đá to hơn qủa trứng, có viên đo đến 7cm- 9cm.


H́nh:(Mưa) đá ở Sydney ngày 14 tháng 4 năm 1999

CHIẾN TRANH
- Chiến tranh giữa Yugoslavia và khối Minh Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) bùng nổ (Kosovo war). Yugoslavia đă tổ chức những cuộc tàn sát tập thể nhằm vào sắc dân Kosovar Albanian mà đa số theo Hồi giáo .
- Chiến tranh bùng nổ giữa du kích quân Hồi giáo Chechnya và Nga
- Ba lần bom đinh nổ ở các khu dân cư của thành phố Luân Đôn thuộc Anh quốc
- Thủ Tướng Vazgen Sarkisian của Armenia bị giết
- Tổng Thống Islam Karimov của Uzbekistan bị mưu sát
- Iraqi Shiite cleric Mohammad Mohammad Sadeq al-Sadr bị ám sát
- Bom ở Lusaka, Zambia, tiêu hủy ṭa đại sứ của Angola
- Khắp Âu châu, phiến quân Hồi giáo Kurdish chiếm một số ṭa đại sứ, bắt giữ con tin, sau khi Turkey bắt giữ một trong các lănh tụ phiến quân là Abdullah Öcalan.

Theo định nghĩa, Thế Chiến (chiến tranh thế giới) là cuộc chiến tranh có nhiều nước tham gia và xảy ra tối thiểu trên 02 lục địa! Điển h́nh là các trận thế chiến thứ I (1914-1918) và thứ II (1939-1945). Hiện nay chiến tranh giữa các nước Tây phương và phe Hồi giáo cực đoan là một cuộc chiến không có biên giới (chiến tuyến) rơ rệt và là một cuộc chiến tranh không có quy ước . Cũng chính v́ lư do ấy nên thế chiến thứ III sẽ dài hơn hai cuộc thế chiến vữa qua . Cuộc chiến này dính líu đến hơn chục quốc gia, tuy "thầm lặng" nhưng sự tàn phá rất ghê gớm. Các loại vũ khí giết người hàng loạt như bom nguyên tử, bom vi trùng, v.v...đều có thể được xử dụng bấy kỳ lúc nào và ở đâu . "Thầm lặng" là không "ồn ào" so với sự huy động rất nhiều binh lính như trong thế chiến I và II . Khác với 02 trận thế chiến trước, điều nguy hiểm trong thế chiến III là phe Hồi giáo không cần phân biệt mục tiêu tấn công là quân sự hay dân sự, chiến thắng đối với họ là tàn sát thường dân vô tội càng nhiều càng tốt kể cả dân Hồi giáo .

Cuộc chiến "thầm lặng" đang xảy ra ở nhiều lục địa khác nhau như Trung Đông, Bắc Mỹ, Âu Châu, Á Châu . Tóm lại, nhân loại hiện đang đối diện với thế chiến thứ III theo h́nh thái một cuộc chiến tranh mới và tàn bạo hơn của thế kỷ 21.

Theo Nostradamus, thế chiến III bắt đầu từ 1999 (Kỷ Măo), kéo dài 27 năm với nhiều thiệt hại, sẽ chấm dứt vào năm 2026 (Bính Ngọ), sau đó nhân loại sẽ hưởng cảnh thái ḥa trong một thời gian dài 750 năm .

Cách đây khoảng 500 năm, ở Việt Nam, Trạng Tŕnh cũng đă tiên tri

"Th́n Măo xuất thái b́nh"

Trăi qua bao nhiêu thăng trầm, chiến tranh triền miên nhưng rồi Thái B́nh cũng sẽ bắt đầu ló dạng ở Viet Nam vào các năm 2023 (Qúi Măo)2024 (Giáp Th́n). Để rồi sau năm 2025 (Ất Tỵ) và vào khoảng cuối năm 2026 (Bính Ngọ), khi mà

"Kư Mă xu (khu) Dương tẩu"

(Kư mă: ngựa hay, ngựa chạy nhanh . Bính thuộc hỏa, Bính Ngọ: hỏa mă là ngựa chạy nhanh nhất!)

th́ thầy Nhân Thập hay Kim Kê, chủ tinh Ngưu cung đồng thời cai quản phương Bạch Hổ do Thánh Tản hóa thân (xem các bài phân tích trước đây) sẽ đăng quang vào năm 2026:

"Phù Kê thăng đại minh"

và ngài sẽ đem lại một đại hồng vận cho đất nước kéo dài 500 năm:

"Tộ truyền nhị thập ngũ
Vận khải ngũ diên trường"


Ở đây, lại có thêm một trùng hợp quan trọng nữa cho Kim Kê (đă được phân tích trong các bài trước): nếu Thánh Tản hóa thân vào Kim Kê Đinh Dậu (1957), th́ ngài sẽ được đúng 70 tuổi vào năm Bính Ngọ của 2026, ứng với câu Sấm:

"Bạch Hổ kim đái ấn
Thất thập cổ lai xuân"


Chính sự trùng hợp này đă giải thích cho việc xác định các năm 2023 (Qúi Măo) và 2024 (Giáp Th́n) thêm hữu lư.

Tóm lại, rất t́nh cờ, cả hai nhà tiên tri của thế kỷ 15, Nostradamus và Trạng Tŕnh đều tiên đoán là bắt đầu từ 2026, thế giới và Việt Nam sẽ cùng bước vào một thời kỳ cực thịnh, cảnh thái ḥa sẽ thấy khắp mọi nơi:

"Lê dân bảo (đào) bảo (băo) noăn
Tứ hải lạc âu ca"

(Tứ phương thiên hạ thái b́nh phong)

và kéo dài đến 5, 7 trăm năm

VÀI Ư VỀ "Thân Dậu niên lai kiến thái b́nh"

Nhận xét rằng hai câu

"Kư mă xu (khu) dương tẩu" và
"Th́n măo xuất thái b́nh"

được viết theo thể loại 5 chữ, nằm trong năm mươi mấy câu Sấm chữ Nho, liên đới với nội dung của các câu c̣n lại trong toàn bộ đoạn Sấm này . Trong khi 02 câu

"Mă đề dương cước anh hùng tận
Thân Dậu niên lai kiến thái b́nh"

được viết theo thể loại 7 chữ, nằm riêng rẽ cùng với 02 câu nữa, do đó có thể suy luận rằng 02 câu này được viết lại từ bài Sấm chữ Nho, nhưng lại được viết khác đi!

Xuất xứ của câu "Mă đề dương cước anh hùng tận" có lẽ từ câu "Kư mă xu (khu) dương tẩu", nhưng thay v́ dùng "Th́n Măo" cho câu sau, người ta đă thay thế bằng "Thân Dậu" cho phù hợp với các diễn biến quân sự và chính trị ở VN (tuyên ngôn độc lập của đảng CSVN) và trên thế giới (thế chiến II) vào các năm 1944 và 1945 .

SẤM NHO 5 CHỮ

414 - Bảo giang Thiên tử xuất (Phá Điền Thiên tử xuất)
415 - Bất chiến tự nhiên thành
416 - Lê dân bảo (đào) bảo (băo) noăn 暖
417 - Tứ hải lạc âu ca

418 - Dục đức thánh nhân hương
419 - Quá kiều cư Bắc phương
420 - Danh vi Nguyễn gia tử
421 - Kim tịch (Tinh bản) sinh Ngưu lang

422 - Thượng đại nhân bất nhân
423 - Thánh ất dĩ vong ân
424 - Bạch hổ kim đái ấn
425 - Thất thập cổ lai xuân

426 - Bắc hữu kim thành tráng
427 - Nam tạc ngọc bích thành
428 - Hỏa thôn đa khuyển phệ
429 - Mục giả dục nhân canh

430 - Phú quí hồng trần mộng
431 - Bần cùng bạch phát sinh
432 - Anh hùng vương kiếm kích
433 - Manh cổ đổ thái b́nh

434 - Nam Việt hữu Ngưu tinh
435 - Quá thất thân thủy sinh
436 - Địa giới xỉ vị bạch
437 - Thủy trầm nhĩ bất kinh

438 - Kư Mă xu (khu) Dương tẩu
439 - Phù Kê thăng đại minh
440 - Trư Thử giai phong khởi
441 - Th́n Măo xuất thái b́nh


442 - Phân phân tùng (从)Bắc khởi (Phân phân tùng (松) bách khởi)
443 – Nhiễu nhiễu xuất đông chinh
444 - Bảo sơn thiên tử xuất
445 - Bất chiến tự nhiên thành

446 - Thủy trung tàng bảo cái
447 - Hứa cập thánh nhân hương
448 – Mộc hạ châm châm khẩu
449 - Danh thế xuất nan lương

450 - Danh vi Nguyễn gia tử
451 - Tinh bản tại Ngưu lang
452 - Mại dữ lê viên dưỡng
453 - Khởi nguyệt bộ đại giang

454 - Hoặc kiều tam lộng ngạn
455 - Hoặc ngụ kim lăng cương
456 - Thiên dữ thần thực thụy
457 - Thụy tŕnh ngũ sắc quang

458 - Kim kê khai lựu điệp
459 - Hoàng cái xuất quí phương
460 - Nhân nghĩa thùy vi địch
461 - Đạo đức thực dữ đương

462 - Tộ truyền nhị thập ngũ
463 - Vận khải ngũ diên trường
464 - Vận đáo dương hầu ách
465 - Chấn Đoài cương bất trường

466 - Quần gian đạo danh tự
467 - Bách tính khổ tai ương
468 - Can qua tranh đấu khởi
469 - Phạm địch thánh (tánh) hung hoang
470 - Ma vương sát đại quỉ
471 - Hoàng thiên tru ma vương


Sửa lại bởi NhapMon : 26 February 2007 lúc 12:06am


__________________
NhapMon
Quay trở về đầu Xem NhapMon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi NhapMon
 
NhapMon
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 296 of 585: Đă gửi: 27 March 2007 lúc 9:19pm | Đă lưu IP Trích dẫn NhapMon

nhoccon1412 đă viết:
bởi thế nên sẽ xảy ra sự thay đổi về vị trí địa lư do : động đất , thiên tai , lũ lụt v.v.... rồi 1 phần sẽ mất đi , 1 phần sẽ trồi lên tạo thành địa lư phong thủy mới cho 500 năm phồn thịnh , ông LQT chỉ xét nếu như địa lư cứ như thế này và không thay đổi . Nên nhớ sự h́nh thành nên vùng đất mới và sự mất đi của vùng đất cũ đă xảy ra ở trên trái đất này như trường hợp của châu Atlanlic vậy .

Code:
438 - Kư Mă xu (khu) Dương tẩu
439 - Phù Kê thăng đại minh
440 - Trư Thử giai phong khởi
441 - Th́n Măo xuất thái b́nh


Vậy là từ năm Hợi đến năm Th́n sẽ có chiến tranh chăng ?tại Việt Nam tôi nh́n khí tượng trên trời th́ thấy có nhiều mây đen nhưng không mưa , các bệnh dịch như cúm gà tái xuất hiện , đồng thời các cơn băo kỳ quái như cơn các băo 7,8,9 làm sụp đổ đất và ḷng con sông hồng cạn gần đáy . Trời th́ mây đen bao phủ , sông th́ cạn , đất th́ động đất , sụp lở , rồi cách đây 1 năm tượng đức mẹ đă rơi nước mắt tại nhà thờ đức bà tại Sài G̣n .

Cầu mong thánh nhân mau xuất hiện để cho thiên hạ thái b́nh . VN không cần làm 1 đại cường quốc để các nước phải chầu cũng được nhưng miễn sao đừng thiên tai , lọan lạc mọi người đều sống ấm no là được rồi .


Vậy là từ năm Hợi đến năm Th́n sẽ có chiến tranh chăng ?
Tui cũng nghĩ như bác nhưng không cho là có chiến tranh ở VN.
Từ đầu năm nay, Đinh Hợi, một số đảng phái tuyên bố thành lập và hoạt động công khaị Các đảng này hiện đang bị đàn áp và một số người bị bắt . Chiến tranh ở VN khó xảy ra, nhưng dấu hiệu cho thấy sẽ có những cuộc nổi dậy đấu tranh bất bạo động đ̣i dân chủ ngày một nhiều hơn

"Trư Thử giai phong khởi"
Đinh Hợi (2007, Mậu Tí (2008)

Nguyên do là v́ dân và đảng viên càng ngày càng thấy được qúa nhiều khác biệt giữa CS và Dân Chủ. Hiện tại có khoảng 12 triệu người xử dụng Internet và sẽ gia tăng lên khoảng 20 triệu vào năm 2010. Tuy nhiên, khó có thay đổi lớn trong ṿng 10 năm tới . Năm 2020, trên 50% xử dụng Internet .

Hy vọng sự nhượng bộ của đảng CS cũng gia tăng với con số người lên mạng để

"Th́n Măo xuất thái b́nh" mà không đổ máu!
Qúi Măo (2023), Giáp Th́n (2024)

Tính từ năm Nhâm Dần (1542), lúc Trạng Tŕnh gieo được qủe thuần càn động hào sơ cửu, cho đến năm Bính Ngọ (2026) th́ được 485 năm!


Sửa lại bởi NhapMon : 28 March 2007 lúc 10:21am


__________________
NhapMon
Quay trở về đầu Xem NhapMon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi NhapMon
 
thiennhan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 634
Msg 297 of 585: Đă gửi: 29 March 2007 lúc 1:22am | Đă lưu IP Trích dẫn thiennhan

Nói đến chữ Thời th́ không thể không nói đến Sự việc, nói sự việc th́ không thể không nói đến mọi sự việc của đất nước trong chiều dài của lịch sử Việt, không thể không phân tích đến chính sự, phân tích đến chính tà, phân tích đến chính trị, chính giả trị dă, người quân tử (làm quan chức) lấy điều chính nghĩa để trị v́ dân chúng, nền chính trị hiện nay ra sao mọi người đă hiểu và bức xúc đến cùng cực như thế nào th́ ai cũng đă hiểu biết, lịch sử Tầu từ Tần Thủy Hoàng đến Mao Trạch Đông và kế tiếp sau này, lịch sử Việt từ Lê Long Đĩnh đến sau này ... chính tà thiện ác ra ra sao lịch sử đă phán xét, những thế hệ sau này khi thoát khỏi khổ nạn sẽ phán xét rơ ràng không thể che dấu măi được, nếu phân tích tiếp chữ thời cơ thời sự ... ắt sẽ làm phiền ḷng Ban QT và KS, tôi chẳng ngại bị xóa bài hay cắt nick nhưng chẳng muốn làm khó xử cho mọi người.

Chủ đề này sau một khoảng thời gian đưa lên, đă được rất nhiều người chú ư đọc nhưng cũng ít người chia xẻ về những sự hiểu biét về Sấm Kư, chỉ có anh NhapMon ... là quan tâm tham gia đóng góp nhiều trong sự t́m hiểu về Sấm Trạng, riêng phần phân tích 4 câu thơ:

438 - Kư Mă xu (khu) Dương tẩu
439 - Phù Kê thăng đại minh
440 - Trư Thử giai phong khởi
441 - Th́n Măo xuất thái b́nh

tôi chưa đồng thuận với anh về thời gian thái b́nh đến tận năm Qúi Măo (2023), Giáp Th́n (2024) th́ lâu quá già mất rồi c̣n ǵ để được hưởng thái b́nh nữa ?, v́ câu Phù Kê thăng đại minh thử xem những biến cố quan trọng những năm Dậu trong lịch sử Việt sau thời gian 500 năm Cụ Trạng mất ra sao, những biến cố nào để thử suy luận chữ " phù kê thăng đại minh"

Code:
Những Năm Dậu Trong Lịch Sử
[25/02/2005 - Vietnam Review]

Triệu Phong sưu tầm, Xuân Ất Dậu 2005

Chúng tôi xin ghi lại một số năm Dậu trong lịch sử của Việt Nam trải qua gần 1500 năm nay:

Tân Dậu (541): Lư Bôn (c̣n có tên là Lư Bí), người Giao Chỉ khởi binh đánh Tiêu Tư là Thứ Sử của nhà Lương, tuyên bố độc lập. Sử Việt Nam gọi ông là Lư Nam Đế (lập ra nhà Tiền Lư trong lịch sử nước ta).

Quư Dậu (973): Vua Tống sai sứ sang nước ta phong cho Đinh Bộ Lĩnh làm Giao Chỉ Quận Vương và Thái tử Đinh Liễn làm Kiểm Hiệu Thái Sư Tĩnh Hải quân Tiết Độ Sứ An Nam đô hộ. Đây là lần đầu tiên nước Tàu phong cho nước ta chức "Vương". Ngô Quyền chỉ được phong làm Tiết Độ Sứ mà thôi. Từ thời Đinh Bộ Lĩnh trở về trước cả ngàn năm, chưa có người nào ở nước ta được vua Tàu phong vương.

Ất Dậu (985): Thái Hậu nhà Đinh là Dương Vân Nga ủng hộ Lê Hoàn lên làm vua (tức Lê Đại Hành) để thay thế nhà Đinh. Năm Tân Tỵ (981). Nhà Tống đem quân qua đánh, Lê Hoàn thắng được quân Tống trên sông Bạch Đằng. Qua năm Ất Dậu (985), vua Lê Đại Hành cho sứ mang lễ vật gồm vàng, ngà voi qua nộp cống phẩm và xin cầu phong. Năm Quư Tỵ (993) nhà Tống phong cho Lê Hoàn làm Giao Chỉ Quận Vương.

Đinh Dậu (997): Vua Lê Đại Hành đích thân đem quân đánh Chiêm Thành.

Kỷ Dậu (1069): Lư Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành bắt được vua Chiêm là Chế Củ đem về.

Ất Dậu (1105): Lư Thường Kiệt mất. Ông là một tướng tài, tinh thông thao lược, làm quan trải ba đời vua, có công "phá Tống, b́nh Chiêm", là anh hùng của dân tộc chúng ta, được nhà vua cưng yêu vào bậc nhất.

Ất Dậu (1525): Mạc Đăng Dung nắm giữ quyền lực trong triều đ́nh, bức hiếp vua. Các quan trung thành với nhà Lê bị Mạc Đăng Dung giết hại hơn 10 người. Đến năm 1527, Mạc Đăng Dung tự xưng làm vua, lập ra nhà Mạc.

Đinh Dậu (1537): Tướng nhà Minh là Mao Bá Ôn đem quân đánh Mạc Đăng Dung. Năm sau, Mạc Đăng Dung sai Nguyễn Phi Thái mang thư của vua Mạc sang nhà Minh xin hàng và dâng đất chuộc tội.
Nguyễn Kim đă lập con cháu nhà Lê lên ngôi tại Lào (đất Sầm Châu) và đánh chiếm được Thanh Hóa để chống nhà Mạc.

Tân Dậu (1561): dưới đời Lê Anh Tông (1556-1573): Vua Lê Trung Tông mất, không có con nối ḍng. Trịnh Kiểm muốn tự lập làm vua, nhưng ngại ḷng người c̣n theo nhà Lê, bèn cho người ra Hải Dương hỏi ư kiến Trạng Tŕnh (Nguyễn Bỉnh Khiêm). Trạng Tŕnh khuyên Trịnh Kiểm: "giữ chùa thờ Phật th́ sẽ được ăn oản". Trịnh Kiểm hiểu ư bèn về t́m được người cháu ông Lê Trừ (anh vua Lê Lợi) tên là Lê Duy Bang lập lên làm vua tức Lê Anh Tông.

Ất Dậu (1573): Vua Lê Anh Tông thấy Trịnh Tùng nắm hết mọi quyền hành nên âm mưu loại trừ Trịnh Tùng, việc thất bại, vua bỏ trốn vào Nghệ An. Trước hết, Trinh Tùng lập Hoàng tử thứ năm là Lê Duy Đàm, mới bảy tuổi, lên làm vua tức Lê Thế Tông. Sau đó cho người đi bắt vua Lê Anh Tông về giết đi. Từ đó, Trịnh Tùng nắm hết mọi quyền hành và tự phong cho ḿnh chức "Thái Phó, Tổng Quốc Chính, Thượng Phụ, B́nh An Vương".

Từ năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa đến nay, đă có ư hùng cứ một phương nên ra sức vỗ về dân chúng, huấn luyện quân sĩ, tăng cường sức mạnh để chống lại họ Trịnh. Trịnh Tùng xin vua Lê phong cho Nguyễn Hoàng làm Thái Phó, hàng năm phải nộp 400 cân bạc và 500 tấm lụa, ra lệnh cho Nguyễn Hoàng phải tích trữ thóc lúa để pḥng giữ biên giới phía Nam. Quân Mạc vào đánh Thanh Hóa, Trịnh Tùng phá được.

Đinh Dậu (1597): Trịnh Tùng diệt được nhà Mạc, đưa vua Lê Thế Tông về Thăng Long. Trước đây, sau khi giết được Mạc Mậu Hợp (1592), vua cho Đỗ Uông đem hai tượng người bằng vàng, bằng bạc và lễ vật qua nhà Minh tŕnh bày t́nh h́nh... Phái đoàn qua đến Lạng Sơn phải chờ đợi măi mà quan nhà Minh không cho đến Bắc Kinh. Đoàn hộ tống Đỗ Uông bị dư đảng nhà Mạc phục kích, may mà Đỗ Uông thoát được. Đinh Dậu (1597), quan nhà Minh là Vương Kiến Lập đến xem xét vùng biên giới, Hoàng Đ́nh Ái đem 5 vạn quân hộ tống vua đến ải Nam Quan hội họp với quan nhà Minh để phân định biên giới. Sau khi trở về kinh thành, vua sai Phùng Khắc Khoan làm Chánh sứ, Nguyễn Nhân Thiệm làm Phó sứ mang cống phẩm như lệ các vua thời trước để mừng lễ vạn thọ vua nhà Minh và xin phong vương. Phùng Khắc Khoan dâng 30 bài thơ chúc mừng được vua nhà Minh khen ngợi.

Quư Dậu (1633): Người con thứ ba của chúa Nguyễn Phúc Nguyên tên là Anh làm phản, viết mật thư hẹn với Trịnh Tráng đem quân vào th́ y sẽ làm nội ứng. Sau khi thành công, y sẽ được vua Lê chúa Trịnh cho trấn thủ xứ Đàng Trong và nộp thuế như thời Nguyễn Hoàng. Trịnh Tráng rước vua Lê, đem đại quân vào đến phía Bắc cửa Nhật Lệ, đợi mười ngày mà không thấy dấu hiệu ǵ, sinh nghi bèn rút quân. Trong lúc đó, tướng của Nguyễn là Nguyễn Hữu Dật giữ cửa biên giới rất kiên cố, thừa cơ đem quân tấn công rất hăng say, quân Trịnh tan vỡ, bỏ chạy, chết quá nửa.

Đinh Dậu (1657): Được tin Trịnh Tráng mất. Trịnh Tạc được lên làm chúa ở Bắc Hà, Hiền Vương (Nguyễn Phúc Tần) liền gửi mật thư cho Phạm Hữu Lễ ở Sơn Tây đi vận động hào kiệt các nơi làm nội ứng. Chúa lại đích thân đem quân ra tới Quảng B́nh. Phạm Hữu Lễ sai con là Phượng cùng bọn gián điệp của chúa Nguyễn ở Bắc là Văn Tường, Hoàng Sinh đích thân vào Quảng B́nh gặp chúa Nguyễn báo cáo t́nh h́nh. Lúc bấy giờ quân Nguyễn đă chiếm được 7 huyện phía Bắc sông Lam nên danh tướng của Nguyễn là Nguyễn Hữu Dật đề nghị cử đại binh đánh ra Bắc. Nhưng không hiểu sao chúa Hiền Vương lại trở về Thuận Hóa. Chúa giải thích với các tướng rằng: "Không nên nhân lúc nhà người ta có tang mà đem quân đến đánh. Vả lại, khi chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) mất th́ Trịnh Tùng cũng cho người vào phúng điếu, thăm hỏi. Nay ta cũng phải đáp lễ để khỏi mang tiếng ’bất nhân’". Sau đó, Hiền Vương cho người mang thư và lễ vật ra kinh đô Thăng Long để phân ưu với họ Trịnh và sai đắp lũy từ phía Nam sông Lam đến cửa biển để pḥng ngự.

Kỷ Dậu (1669): Năm 1592, Trịnh Tùng thu phục được kinh đô Thăng Long, giết được Mạc Mậu Hợp nhưng con cháu nhà Mạc vẫn c̣n hoạt động và chiếm giữ một vùng ở đất Cao Bằng và nhờ nhà Thanh đă can thiệp buộc vua Lê phải cắt đất bốn châu ở Cao Bằng cho con cháu nhà Mạc.

Quư Dậu (1693): Nguyễn Hữu Cảnh (Kính), tướng của chúa Nguyễn đánh bại Chiêm Thành, bắt được Bà Tranh. Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) đổi tên nước Chiêm Thành làm trấn Thuận Thành. Chúa tự xưng tôn hiệu là Quốc Chúa. Tháng 7 năm đó, Nguyễn Hữu Cảnh dẫn vua Chiêm là Bà Tranh về kinh đô Thuận Hóa tŕnh diện chúa Nguyễn. Bà Tranh bị giam ở núi Ngọc Trản (thường gọi là Điện Ḥn Chén) và cấp cho tiền gạo vải vóc đủ dùng. Tháng 8, đổi trấn Thuận Thành làm phủ B́nh Thuận, cho các quan người Chiêm bị bắt (bọn Kế Bà Tử) được trở về làm quan tại địa phương và bắt mặc quần áo theo người kinh. Tại Chân Lạp, Nặc Thâm và Nặc Yêm tranh quyền. Thâm cầu viện quân Xiêm (Thái Lan), Yêm cầu viện quân Việt ở Gia Định. Chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Cửu Vân đem quân giúp Nặc Yêm, đánh thắng quân Xiêm.

Quư Dậu (1753): Chúa Vơ Vương Nguyễn Phúc Khoát sai Nguyễn Cư Trinh điều động tướng sĩ 5 dinh B́nh Khang, B́nh Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ sang đánh Chân Lạp (nay là Kamphuchia).

Ất Dậu (1765): chúa Vơ Vương Nguyễn Phúc Khoát mất, ở ngôi 27 năm (1738-1765), Khi c̣n sống, Vơ Vương chọn Hoàng Tử thứ 9 là Nguyễn Phúc Hiệu nối ngôi. Nhưng Hiệu mất sớm, con của Hiệu là Nguyễn Phúc Dương c̣n nhỏ. Hoàng Trưởng Tử là Chương cũng đă chết, nên Nguyễn Phúc Luân (cha của vua Gia Long) là con thứ hai, được chọn nối ngôi, thường được tham dự triều chính. Chúa Vơ Vương cũng cho quan Nội Hữu Trương Văn Hạnh làm thầy dạy cho Nguyễn Phúc Luân. Nhưng khi Vơ Vương mất th́ Trương Phúc Loan tự ư thay đổi di chiếu, bắt giam Nguyễn Phúc Luân, Trương Văn Hạnh và Lê Cao Kỷ (quan thị giảng, dạy Thái Tử Luân) đều bị giết. Nguyễn Phúc Luân buồn rầu sinh bệnh, mất. Trương Phúc Loan đưa con thứ 16 của Vơ Vương là Nguyễn Phúc Thuần lên ngôi tức chúa Duệ Tông.

Đinh Dậu (1777): quân Trịnh chiếm Thuận Hóa từ đầu năm 1775, ra lệnh cho Lê Quư Đôn vào Thuận Hóa xét định các khoản thuế của binh và dân. Trịnh Sâm cho Nguyễn Nhạc làm Trấn Thủ Tuyên Úy Đại Sứ ở Quảng Nam. Được rảnh tay mặt Bắc, Nguyễn Nhạc lo củng cố mặt Nam, thế lực Tây Sơn càng ngày càng mạnh lên. Tướng họ Trịnh là Nguyễn Lệnh Tân mật tŕnh cho Trịnh Sâm biết t́nh h́nh và đề nghị thay thế Phạm Ngô Cầu ở Thuận Hóa v́ sợ Phạm Ngô Cầu không đủ sức đối phó với Nguyễn Nhạc, có ngày Thuận Hóa sẽ bị mất vào tay Tây Sơn. Nhưng Trịnh Sâm không nghe và cho Nguyễn Lệnh Tân về Bắc. Tháng 9 năm đó, Trịnh Sâm cho Hoàng Đ́nh Thể vào thay Phạm Ngô Cầu ở Thuận Hóa.

Tại Gia Định, Đỗ Thanh Nhân ủng hộ chúa Nguyễn Phúc Thuần. Lư Tài ủng hộ Nguyễn Phúc Dương. Chúa Nguyễn phải đặt Nguyễn Phúc Dương lên làm Tân Chính Vương. Hai bên chống nhau. Nguyễn Phúc Ánh đứng ra giải ḥa. Biết tin đó, Nguyễn Nhạc cho em là Nguyễn Huệ đem quân thủy bộ vào đánh Gia Định. Lư Tài đánh nhau với Tây Sơn bị thua, kéo về Tam Phụ, bị quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhân giết. Chúa Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Dương chạy về Định Tường rồi về Vĩnh Long. Các tướng của chúa Nguyễn người th́ chết, kẻ bị bắt, người th́ tự tử. Tháng 8 năm Đinh Dậu (1777) Nguyễn Phúc Dương bị Nguyễn Huệ bắt và giết di. Chúa Nguyễn Phúc Thuần chạy về Long Xuyên cũng bị Tây Sơn giết, ở ngôi 12 năm, thọ 24 tuổi, không có con nối ḍng. Năm sau, 1778, Nguyễn Phúc Ánh được các tướng tôn lên làm Nhiếp Chính Vương để chống lại Tây Sơn.

Kỷ Dậu (1789): Nguyễn Huệ đại thắng quân Thanh: Nguyễn Hữu Chỉnh trốn vào Quy Nhơn theo Tây Sơn và khuyên Tây Sơn đánh lấy Phú Xuân. Nguyễn Huệ chiếm được Phú Xuân rồi thừa thắng kéo quân ra Thăng Long diệt họ Trịnh, trả ngai vàng lại cho vua Lê Hiển Tông (1740- 1786). Vua Lê gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ. Mấy hôm sau, vua Lê Hiển Tông mất, cháu nội vua là Lê Duy Kỳ nối ngôi tức Lê Chiêu Thống. Nguyễn Nhạc liền từ Quy Nhơn ra Phú Xuân nhưng Nguyễn Huệ đă ra Bắc, Nhạc liền đuổi theo Nguyễn Huệ ra Thăng Long gặp vua Lê. Sau đó, anh em Tây Sơn bỏ Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại và bí mật rút về, đem theo 60 thuyền của cải vơ vét được từ các kho tàng của vua Lê chúa Trịnh. V́ tranh chấp quyền lực và của cải, anh em Tây Sơn bất ḥa, Nguyễn Huệ đem quân vào Quy Nhơn đánh Nguyễn Nhạc.

Nguyễn Hữu Chỉnh ở Bắc, cậy công lộng quyền. Sau khi giải quyết xong vấn đề nội bộ anh em Tây Sơn, Nguyễn Huệ cho Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Vua Lê Chiêu Thống trốn ra khỏi kinh thành Thăng Long, ẩn náu trong nhân gian. Mẹ vua cùng một số thân thích, cận thần chạy qua Trung Quốc cầu cứu nhà Thanh. Vua Càn Long cho Tổng Đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị đem quân qua nước ta, vua Lê Chiêu Thống trở về Thăng Long. Quân Thanh tha hồ cướp bóc, hà hiếp dân.

Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế tại Phú Xuân (1788) niên hiệu Quang Trung và kéo quân ra Bắc. Trận Đống Đa, ngày 5 Tết Kỷ Dậu (1789), đại thắng quân Thanh. Lê Chiêu Thống theo Tôn Sĩ Nghị chạy về Tàu, nhà Lê chấm dứt. Nguyễn Huệ cho sứ qua nhà Thanh xin phong vương.
Trong lúc Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc th́ Nguyễn Phúc Ánh đă chiếm lại toàn bộ đất Gia Định. Tháng 6 năm Kỷ Dậu (1789), Hoàng Tử Nguyễn Phúc Cảnh cùng Giám Mục Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) đi cầu viện nước Pháp, đă trở về Gia Định, mang theo một số tàu chiến, súng ống và mấy người Pháp chuyên về hàng hải như Chaigneau, Vanier, Manuel, Dayot.... để giúp chúa Nguyễn. Tất cả người và tàu bè, súng ống này là do Giám Mục Bá Đa Lộc tự ḿnh xoay xở lấy, không phải do vua nước Pháp giúp. Chúa Nguyễn cho lập xưởng đóng chiến thuyền lớn, bọc đồng được sáu chiếc tàu lớn và 100 chiếc thuyền đi biển. Ngoài ra c̣n lập xưởng chế diêm, lưu huỳnh... để làm thuốc súng. Tháng 11 năm đó, vua tổ chức thao diễn chiến trận, dạy cho lính biết trận pháp để chuẩn bị đi đánh Tây Sơn.

Tân Dậu (1801): Vơ Tánh bị vây trong thành B́nh Định. Đông Cung Nguyễn Phúc Cảnh bị bệnh mất tại Gia Định. Trận thủy chiến lớn nhất trong lịch sử, quân chúa Nguyễn đáng thắng Tây Sơn tại cửa biển Thị Nại (Quy Nhơn). Bị Trần Quang Diệu và Vơ Văn Dũng bao vây, hết lương thực, Vơ Tánh tự tử, lính đầu hàng, thành B́nh Định bị Tây Sơn chiếm. Ngày 1 tháng 5 (âm lịch) năm Tân Dậu (1801), quân Nguyễn vào cửa Tư Dung (nay là cửa Tư Hiền). Nghe tin đại binh của Nguyễn đến, vua Quang Toản của Tây Sơn đem hết quân ra cửa Eo (tức cửa Thuận An) chống giữ. Ngày 3 tháng 5 (âm lịch), quân Nguyễn tiến vào cửa Eo, chưa giao chiến mà Nguyễn Quang Toản đă bỏ chạy. Quân Tây Sơn xin hàng. Đại binh thẳng tới Phú Xuân. Quang Toản bỏ thành chạy ra Bắc. Chúa Nguyễn trở về nước cũ, cho niêm phong kho tàng, tuyên cáo cho dân biết. Từ đầu năm 1775, khi quân chúa Trịnh vào Phú Xuân, Nguyễn Phúc Ánh theo chúa Nguyễn Phúc Thuần chạy vào Gia Định đến tháng ngày 3 tháng 5 Tân Dậu (6-1801), hơn 26 năm xa cách nay Nguyễn Phúc Ánh mới trở về quê hương.

Ất Dậu (1825): Sau khi Đông Cung Nguyễn Phúc Cảnh chết, Mỹ Đường là cháu đích tôn của Vua Gia Long (con của Đông Cung), không được chọn để nối ngôi mà Hoàng Tử thứ là Nguyễn Phúc Đảm được chọn tức là vua Minh Mạng. Về sau Mỹ Đường bị vua Minh Mạng buộc tội "loạn luân" và bị giam lỏng ở trong nhà riêng. Ông thường đến thăm con ở An Ḥa (gần kinh thành Huế). Có người tâu lên vua là Mỹ Đường có ư bỏ trốn. Vua bảo rằng: "Hành vi của nó hơn là chó lợn, trẫm nghĩ cái t́nh Anh Duệ Hoàng Thái Tử (tức Đông Cung Nguyễn Phúc Cảnh) nên không nỡ làm tội, nay lại nghe kẻ bậy bạ xui khiến, muốn làm ǵ chăng?" liền sai thị vệ bắt về, cho lính canh giữ, rồi lại tha. Nhân việc con cháu nhà Lê là Lê Duy Hoán, Lê Duy Lương nổi loạn ở Bắc, sau khi dẹp yên, vua ra lệnh cho tất cả trai tráng thuộc con cháu nhà Lê, đều phải đày đi nơi khác, từ Quảng Nam trở vào, mỗi huyện trên dưới 15 người...

Kỷ Dậu (1849): Dưới thời vua Tự Đức, từ năm 1848 đến năm 1851, vua đă hai lần ban hành dụ cấm đạo Thiên Chúa (thời đó gọi là đạo Gia Tô ngày nay là Công Giáo), lần sau c̣n nghiêm nhặt hơn lần trước: "Những người ngoại quốc vào giảng đạo th́ phải tội chết, những người đạo trưởng ấy ở trong nước mà không chịu bỏ đạo, th́ phải khắc chữ vào mặt, rồi phải đày đi ở chỗ nước độc. C̣n những ngu dân th́ các quan phải ngăn cấm, đừng để cho đi theo đạo mà bỏ sự thờ cúng cha ông, chứ đừng có giết hại v.v...". Năm Kỷ Dậu (1849) là thời gian người theo đạo Thiên Chúa phải trốn tránh và bị đàn áp.

Sứ thần nhà Thanh là Lao Sùng Quang đến Huế phong vương cho vua Tự Đức. Thấy trong nước xảy ra nhiều thiên tai loạn lạc, các đại thần dâng sớ xin vua Tự Đức:

a. Cho con cháu của Đông Cung Nguyễn Phúc Cảnh được ghi tên vào hệ tôn thất v́ trước đây Mỹ Đường là con của Đông Cung bị tội nên con cháu bị đổi họ...
b. Cho phép con cháu của các công thần bị tội là Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt và Lê Chất được sửa sang lại phần mộ của các vị ấy. Và cất bỏ hai tấm bia đá khắc chữ "Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ" và "gian thần Lê Chất phục pháp xứ ".
c. Miễn cho con cháu nhà Lê phải đày đi xa quê hương nhân vụ Lê Duy Lương nổi loạn từ thời vua Minh Mạng. Và cho sửa sang lại các miếu thờ, đồ thờ của nhà Lê, giao cho quan tỉnh Thanh Hóa chịu trách nhiệm chăm sóc. Mục đích của những việc làm này để giải oan cho những người bị tội và tránh tai họa cho dân. Vua Tự Đức đều nghe theo.

Tân Dậu (1861): Quân Pháp do Trung Tướng Charner chỉ huy, đánh chiếm Gia Định, đồn Kỳ Ḥa (Chí Ḥa) tại Sài G̣n thất thủ, Nguyễn Duy (em Nguyễn Tri Phương) và Tôn Thất Trĩ tử trận, Nguyễn Tri Phương bị thương. Phạm Thế Hiển (bị thương) cùng Nguyễn Tri Phương rút lui, được mấy hôm, Phạm Thế Hiển chết. V́ tội rút quân lui, Nguyễn Tri Phương và các tướng bị cách chức, cho lập công chuộc tội. Người Miên ở Nam Kỳ nghe quân Pháp đến liền nhân cơ hội đó chạy theo Pháp, quấy phá tại các địa phương để trả thù người Việt. Tháng 2, quân Pháp đến đánh chiếm tỉnh Định Tường (Mỹ Tho), hỏa lực của ta và Pháp quá chênh lệch, không chống cự nổi, phải kéo nhau chạy về Vĩnh Long. Vua Tự Đức cho Nguyễn Bá Nghi làm Khâm Mạng Đại Thần, vào Nam Kỳ để đối phó với Pháp. Thấy t́nh h́nh khó khăn nên Nguyễn Bá Nghi đề nghị gửi thư cho Pháp xin giảng ḥa để làm kế hoăn binh. Trước t́nh h́nh như thế, vua Tự Đức không vận động toàn dân đoàn kết chống xâm lăng, trái lại, vua c̣n ra lệnh bách hại người theo đạo Thiên Chúa, triệt để áp dụng lệnh "phân tháp"... Thực Lục Chính Biên, đệ tứ kỷ, quyển XXIV, bản dịch Hà Nội, tr.227 chép: "Sức nhắc lại các địa phương phải nghiêm ngặt chia ghép bọn dân đạo. Trước đây, chia ghép các dân đạo, c̣n nhiều sót lậu. Đến bây giờ, nghiêm bắt phủ huyện, các địa phương; phàm những dân đạo trai gái già trẻ, không cứ đă bỏ đạo hay chưa, đều thích chữ vào mặt, chia ghé đến ở vào xă thôn không có đạo, mà phải quản thúc cho nghiêm. Những tên đầu mục hung ác vẫn nghiêm giam như cũ. Nếu người Tây dương đến nơi, th́ đem bọn dân đạo ấy giết cho hết. Phủ huyện nào lại c̣n nhu nhơ dong kẻ gian, để đến nỗi sinh ra việc ǵ lo ngại, tất phải chiếu theo quân luật trị tội".

Vua phục chức cho Nguyễn Tri Phương làm Binh Bộ Thượng Thư kiêm quân vụ Biên Ḥa, trước đă ban cho kiếm báu và áo chiến, nay cấp thêm ấn quan pḥng và 5 lá cờ lệnh, 5 chiếc tín bài để chỉ huy; Tôn Thất Cáp làm Binh Bộ Thị Lang sung chức Phụ tế Biên Ḥa quân vụ; Nguyễn Công Nhàn làm quản cơ kiêm đốc binh cùng Nguyễn Tri Phương bàn tính kế hoạch đối phó với Pháp tại Nam Kỳ. Vua ra lệnh cho trong nước pḥng thủ và kiểm soát các cửa bể nghiêm ngặt. (Qua năm sau, 1862, Thiếu Tướng Bonard đem quân chiếm Biên Ḥa và Vĩnh Long, triều đ́nh phải kư ḥa ước Nhâm Tuất (1862) nhường 3 tỉnh Biên Ḥa, Gia Định, Định Tường cho Pháp, Nguyễn Tri Phương được trở về Huế rồi ra Bắc dẹp loạn).

Quư Dậu (1873): Jean Dupuis (Đồ Phổ Nghĩa) là một thương gia Pháp cho tàu thủy đi dọc sông Hồng Hà, bán súng đạn cho bọn giặc cướp Cờ Vàng của Hoàng Sùng Anh và chở muối qua Trung Quốc, gây rắc rối cho quan quân ta. Đại Úy Francis Garnier ra Hà Nội giải quyết vụ đó, nhưng lại tỏ thái độ che chở cho Jean Dupuis và đ̣i mở mang buôn bán... Quan ta không chịu và yêu cầu đợi hỏi ư kiến của triều đ́nh đă. Ngày 01 tháng 10 năm Quư Dậu (1873), Francis Garnier bất th́nh ĺnh tấn công thành Hà Nội, Nguyễn Tri Phương bị thương, nhịn ăn mà chết. Pḥ mă Nguyễn Lâm, con của Nguyễn Tri Phương tử trận. Các quan đều bỏ chạy. Thừa thắng, quân Pháp chiếm luôn Nam Định, Ninh B́nh, Hải Dương, Hưng Yên. Pháp đến đâu, quân ta bỏ chạy không kháng cự. Francis Garnier tự ư bổ nhiệm quan lại cai trị các nơi mới chiếm được. Triều đ́nh cho Trần Đ́nh Túc ra Hà Nội thương lượng với Francis Garnier. Đồng thời sai Lê Tuấn và Nguyễn Văn Tường vào Sài G̣n thương lượng với súy phủ Pháp về việc rắc rối ở Bắc Kỳ. Trong khi Trần Đ́nh Túc đang nói chuyện với Francis Garnier th́ nghe tin Quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc đến, Francis Garnier đem quân đuổi, bị quân cờ đen phục kích giết chết ở Cầu Giấy gần Hà Nội. Triều đ́nh cho Lê Tuấn và Nguyễn Văn Tường vào Sài G̣n thương lượng với Pháp. Sau đó, Việt Nam (Lê Tuấn và Nguyễn Văn Tường) và Pháp (Philastre) kư ḥa ước Giáp Tuất (6-2-1874) công nhận chủ quyền của Pháp tại 6 tỉnh Nam Kỳ mà Pháp đă chiếm trước đây. Pháp trả lại Hà Nội và các tỉnh đă chiếm ở Bắc Kỳ cho ta.

Ất Dậu (1885): Vua Kiến Phước chết bất ngờ sau một cơn bệnh vào tuổi 16 tuổi. Ngày 02 tháng 8, 1884, hai vị Phụ Chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đưa người em của Kiến Phước là Ưng Lịch mới 12 tuổi lên ngôi, niên hiệu Hàm Nghi. Việc tôn phong đă được tổ chức một cách vội vàng và bí mật, không cho người Pháp biết. Trước đó, hai ông cũng đă bí mật tổ chức một chiến khu tại Tân Sở (vùng núi phía Tây tỉnh Quảng Trị) và tăng cường bố trí quân đội tại kinh thành Huế để chống Pháp. Khâm Sứ Pháp ở Huế là Rheinart phản đối và bắt phải xin phép nước Pháp trước khi lập vua mới. Nguyễn Văn Tường phải thay mặt triều đ́nh qua gặp Rheinart để thương lượng và làm đơn xin lập vua Hàm Nghi. Nghe tin Tướng De Courcy từ Hà Nội đến với 1500 quân, Bà Từ Dũ (Thái Hoàng Thái Hậu) gởi quà tặng để chào mừng (có tính cách ngoại giao), Pháp cũng từ chối không nhận...

Do sự can thiệp của Pháp vào nội bộ triều đ́nh Huế và trước những sự nhục nhă mà triều đ́nh phải chịu nên vào tối 22 rạng ngày 23 tháng 5 Ất Dậu (đêm 4 qua ngày 5 tháng 7, 1885), quân ta bất th́nh ĺnh tấn công quân Pháp tại đồn Mang Cá (trong thành nội Huế) và ṭa Khâm Sứ Huế (phía Nam sông Hương). Lúc đầu, v́ bất ngờ không kịp pḥng bị nên quân Pháp có bị thiệt hại ít nhiều. Nhưng sau đó, quân Pháp phản công, gây tổn thất nhân mạng, nhà cửa cho ta rất nhiều. Tôn Thất Thuyết và Trần Xuân Soạn đích thân chỉ huy đánh đồn Mang Cá thất bại, liền trở vào cung thúc giục vua và Hoàng Gia thu xếp nhanh để chạy trốn v́ quân Pháp sắp tới nơi rồi. Thuyết trao cho Trần Xuân Soạn và Tôn Thất Liệt đi hộ tống vua Hàm Nghi và Hoàng Gia cùng các quan đại thần trong đó có Nguyễn Văn Tường, tất cả khoảng 1.000 người. Trong lúc đi đường, Nguyễn Văn Tường bàn với bà Từ Dũ trở về đầu thú Pháp để bảo vệ lăng miếu, cung điện khỏi bị Pháp đốt phá. Bà Từ Dũ đồng ư và ủy thác cho Nguyễn Văn Tường đi lo vụ đó. Lợi dụng lúc t́nh thế lộn xộn, không ai để ư, Tường chạy đến nhà thờ Kim Long, xin gặp Giám Mục Caspar, nhờ ông này làm trung gian cho Tường ra đầu thú với Pháp.
Sáng 23 tháng 5, Ất Dậu (5-07-1885) quân Pháp chiếm thành nội, tịch thu toàn bộ kho tàng, châu báu của quốc gia.

Tôn Thất Thuyết đưa vua lên Tân Sở (miền núi phía Tây Bắc, cách thị xă Quảng Trị chừng 20 cây số). Nhận thấy để vua ở lại Tân Sở không tiện, ra Bắc th́ bị quân Pháp chặn đường trên quốc lộ số 1, nên Tôn Thất Thuyết đưa vua vượt sông Tchépône, qua Lào ra vùng núi Tuyên Hóa (giữa Quảng B́nh và Hà Tĩnh). Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi truyền hịch "Cần Vương" chủ trương "b́nh Tây sát Tả" (đánh giặc Pháp và giết người theo đạo Thiên Chúa), nho sĩ khắp nơi hô hào dân chúng cùng với quân lính đi đốt phá giết hại người theo đạo Công Giáo vô tội. Hàng chục ngàn người bị chết oan. Vua ở lại trong rừng với Tôn Thất Thiệp và Tôn Thất Đạm c̣n Tôn ThấtThuyết ra Bắc, qua Trung Quốc cầu viện nhà Thanh. Sau hai tháng không t́m được vua Hàm Nghi trở về, Nguyễn Văn Tường bị Pháp đày qua đảo Tahiti và ông đă chết ở đó. Lúc đầu Pháp đưa Thọ Xuân Vương (Miên Định), chú vua Tự Đức, lên làm Giám Quốc, và đưa Nguyễn Hữu Độ, Khâm Sai Kinh Lược Bắc Kỳ vào làm Phụ Chính, thay thế Nguyễn Văn Tường. Ngày 6 tháng 8, Hoàng Tử Ưng Kỵ (Ưng Đường) con nuôi thứ hai của vua Tự Đức được rước vào cung và đă chính thức lên ngôi vào ngày 9-09 Ất Dậu (1885), niên hiệu Đồng Khánh. Nước Việt Nam hoàn toàn thuộc quyền cai trị của Pháp.

Đinh Dậu (1897): Toàn Quyền Paul Doumer tại Hà Nội băi bỏ Nha Kinh Lược ở Bắc Kỳ vào giao quyền lại cho Quan Thống Sứ người Pháp cai trị, các quan Việt Nam trực tiếp với Thống Sứ. Paul Doumer cho xây trường học, mở đường xe lửa, khai thác mỏ than, mở các nhà máy dệt, xi măng, ấn định các thứ thuế, phát triển nông nghiệp, kỹ nghệ, thương măi, vay vốn của ngân hàng Pháp để đầu tư v.v... để tăng ngân sách cho nhà nước thuộc địa.

Kỷ Dậu (1909): Từ năm 1908, Phong Trào kháng thuế bùng nổ lớn ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngăi, B́nh Định rồi lan dần ra các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Các Nho sĩ trí thức trong nước, nhất là tại miền Trung hô hào duy tân, cắt tóc ngắn, học chữ quốc ngữ (chữ Việt ngày nay), thanh niên trốn sang Tàu, sang Nhật du học... Năm 1909 (Kỷ Dậu), Pháp đàn áp mạnh, một số bị xử tử, bị bắt giam, đày đi Côn Đảo trong đó có Phan Chu Trinh. Nhân chuyện nghĩa quân của Hoàng Hoa Thám âm mưu đầu độc lính Pháp ở Hà Nội (1908) thất bại nên Pháp lùng bắt những người yêu nước, nên từ 1908 đến 1909 (Kỷ Dậu) Pháp ra tay đàn áp, bắt giam, xử tử nhiều thành phần tranh đấu chống Pháp khiến cho t́nh h́nh dân trong nước rất khốn khổ.

Tân Dậu (1921): Sau khi qua Trung Hoa, Thái Lan và các nước Âu Châu (Đức và Anh) để hoạt động, thấy t́nh h́nh tạm lắng dịu, Cường Để bèn trở lại Nhật. Năm Tân Dậu (1921) ông sống tại Nhật và vẫn liên lạc với các đồng chí của ḿnh. Riêng Phan Bội Châu, sau khi cách mạng Tân Hợi (1911) do Tôn Dật Tiên lănh đạo thành công tại Quảng Châu... nhờ quen biết nhiều nhân vật trong Quốc Dân Đảng Trung Hoa nên Phan Bội Châu cùng nhóm thanh niên Việt Nam trở lại Trung Quốc để hoạt động. Năm 1925, ông bị Phan Quang Ngọc phản bội, chỉ điểm cho Pháp bắt tại tô giới Pháp ở Quảng Châu và đưa về giam tại Hà Nội.

Quư Dậu (1933): Tổ chức Việt Nam Phục Quốc đă cử Trần Phúc An (Tức Trần Hy Thánh) là Ủy Viên Ngoại Vụ qua Nhật dự Đại Hội Thanh Niên Thế Giới (họp ngày 29-11-1933). Sau khi khởi nghĩa thất bại vào năm 1930 tại Yên Báy, một số đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng trốn qua Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam... Năm Quư Dậu (1933), những người này đă thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng Trung Ương Ủy Viên Hải Ngoại Biện Sự Xứ: Vi Chính Nam (tức Vi Đăng Tường) được cử làm Chủ Nhiệm. Về sau Vũ Hồng Khanh lên thay thế Vi Chính Nam để lănh đạo tổ chức này.

Ất Dậu (1945): Năm này, nước Việt Nam có nhiều biến cố quan trọng:
Nạn đói lớn nhất tại Việt Nam, từ Quảng B́nh trở ra Bắc mất mùa, hơn hai triệu người miền Bắc chết đói. Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương, vua Bảo Đại tuyên bố độc lập: chính phủ Trần Trọng Kim ra đời. Mỹ thả bom nguyên tử xuống hai thành phố Hiroshima và Nagazaki của Nhật. Vua Nhật tuyên bố đầu hàng. Việt Minh cướp chính quyền tại Hà Nội. Vua Bảo Đại thoái vị. Ngày 2 tháng 9, 1945, *** ra mắt chính phủ tại Hà Nội, đọc tuyên ngôn độc lập. Theo quy định của Đồng Minh: vấn đề giải giới quân Nhật, từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc do quân Tàu và từ vĩ tuyến 16 trở vô Nam do quân Anh. Tại miền Bắc, Đại Tướng Lư Hán đem quân đến Hà Nội, lực lượng vơ trang của Nguyễn Hải Thần (Việt Cách) và Vũ Hồng Khanh (Việt Quốc) theo chân quân Tàu về nước. Tranh chấp giữa phe Quốc Gia và Việt Minh (Cộng Sản). *** thành lập Chính Phủ Liên Hiệp, dành cho phe Quốc Gia 70 ghế trong Quốc Hội (Việt Cách: 20 và Việt Quốc: 50). Tại Miền Nam, quân Pháp đến Sài G̣n thay quân Anh và đổ bộ tái chiếm các tỉnh miền Nam và Cao Nguyên. Kháng chiến chống Pháp tại Nam Bộ bùng nổ. Việt Minh bắt tay với Pháp để loại trừ các đảng phái quốc gia đối lập với Cộng Sản. Quân Tàu rút về nước và Pháp thay thế. Phe Quốc Gia bị cả Pháp và Việt Minh tấn công....

Đinh Dậu (1957): Tại Miền Bắc, sau khi chiếm được một nửa nước Việt Nam, chính quyền Cộng Sản Hà Nội theo chỉ thị của Trung Cộng, thực hiện chủ trương cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ một cách dă man. Nhiều người có công kháng chiến chống Pháp (1945-1954) cũng bị đem ra đấu tố, bị tịch thu tài sản, bị tù tội hay bị giết. Nhiều người không phải là địa chủ, chỉ có một ít đất ruộng để sống, có thể khá hơn người khác một chút cũng bị đem ra đấu tố. Có những xă không có thành phần địa chủ nhưng cán bộ phải "đạt chỉ tiêu" do cấp trên đưa xuống, nên cũng phải đem một số người vô tội ra đấu tố, hy sinh họ để báo cáo "đă thực hiện tốt" mọi kế hoạch trên giao. Hàng trăm người chết oan, chết ức v́ vụ "đấu tố" địa chủ này. *** và Lê Duẫn đi thăm Liên Xô (Nga). *** thăm Nam Tư. Phạm Văn Đồng (Thủ Tướng miền Bắc) gởi thư cho TT Ngô Đ́nh Diệm đề nghị hiệp thương. Phong Trào Trăm Hoa Đua Nở ở miền Bắc với tập san "Nhân Văn Giai Phẩm" giăng các bài chỉ trích, phê b́nh Đảng CS nên các nhà văn, nhà báo, trí thức ở miền Bắc bị đàn áp, bị giam cầm, tù tội, bị thủ tiêu, không cho cầm bút viết văn. Các tên tuổi được nhắc nhỡ nhiều nhất là: Phan Khôi, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Tuân, Trần Dần, Phùng Quán, Hữu Loan, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang v.v...

Tại miền Nam, sau khi ổn định t́nh h́nh, tái lập an ninh trật tự, định cư cho cả triệu đồng bào di cư tỵ nạn Cộng Sản từ Bắc vô Nam sau hiệp định Genève (20-07-1954), chính quyền Ngô Đ́nh Diệm đă xây dựng nhà cửa, cầu cống, mở mang đường sá, kỹ nghệ, thương măi phồn thịnh. Ngày 20-02-1957, Việt Nam Cộng Ḥa xác nhận chủ quyền trên hai quần đảo Tây Sa và Hoàng Sa. Ngày 22-02, 1957, Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm bị ám sát trong khi đến khánh thành Hội Chợ Ban Mê Thuột nhưng vô sự, chỉ có ông Đỗ Văn Công (Bộ Trưởng Cải Cách Điền Địa) bị thương. Hung thủ tên là Hà Minh Chi (tức Phạm Ngọc Phú) làm việc ở Ty Thông Tin Tây Ninh bị bắt ngay. Ngày 1-3-1957, Bộ Giáo Dục VNCH ban hành Sắc Lệnh 45/GD thành lập Viện Đại Học Huế. Bộ Quốc Pḥng ban hành Nghị Định 183-QP bắt buộc thanh niên hạng tuổi 20, 21 phải thi hành quân dịch trong thời hạn 2 năm. Chính Phủ Đài Loan và Việt Nam CH kư thỏa hiệp cho những Hoa kiều sinh tại Việt Nam không nhập Việt tịch được hồi hương về Đài Loan. Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm ban hành luật cấm Hoa kiều làm 11 nghề. Bộ Giáo Dục Sài G̣n ban hành Sắc Lệnh 213/GD thành lập Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ. Bộ Nội Vụ Sài G̣n kư Nghị Định thành lập Nha Công Tác Xă Hội Miền Thượng. Chính Phủ Việt Nam CH trả lời thư của Phạm Văn Đồng: "Khi nào miền Bắc chấm dứt khủng bố, phá hoại và thực thi dân chủ tự do, khi đó mới có thể tổng tuyển cử và thống nhất đất nước". Ṭa Án Quân Sự xử 23 người trong vụ B́nh Xuyên (1955): gồm các ông Trần Văn Ân, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Hữu Thuần, Trịnh Khánh Vàng, Nguyễn Thành Nghi, Nguyễn Văn Hớn, Nguyễn Triệu Phương, Nguyễn Văn Hiếu v.v... 8 tử h́nh, 3 khổ sai chung thân và 1 án khổ sai 20 năm. Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đi thăm các nước Hoa Kỳ, Thái Lan, Nam Hàn, Ấn Độ.

Kỷ Dậu (1969): Sau vụ Tết Mậu Thân (1968): Cộng Sản tổng tấn công vào các thành phố và thị xă miền Nam, đặc biệt là cuộc thảm sát tại Huế, trên 5000 thường dân vô tội bị giết, quân đội Việt Nam Cộng Ḥa phản công tiêu diệt Việt Cộng, số người bỏ hàng ngũ Việt Cộng về hồi chánh lên đến hàng trăm ngàn. Tổng số VC tổn thất, chết hoặc mất tích lên đến trên 100.000 người. Kế hoạch b́nh định nông thôn thành công, số VC nằm vùng bị phát hiện, bị bắt rất nhiều. T́nh h́nh an ninh rất tốt. Năm Kỷ Dậu (1969), là một năm thắng lợi của VNCH.

Sau vụ thất bại Tết Mậu Thân, *** sinh bệnh nặng và chết vào ngày 2 tháng 9 năm 1969 (nhưng Hà Nội phải đợi sau ngày Lễ Quốc Khánh mới công bố nên đă thay đổi lại ngày chết của *** là 3 tháng 9 năm 1969). Ḥa đàm bắt đầu giữa Mỹ và Hà Nội được tổ chức tại Paris, hai bên đang thảo luận về thủ tục. Phía Việt Nam Cộng Ḥa do Đại Sứ Phạm Đăng Lâm làm Trưởng Phái Đoàn và các ông Nguyễn Xuân Phong là Phó Trưởng Phái Đoàn. Một số chuyên viên như Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy cũng có mặt để trợ lực cho phái đoàn. Phó Tổng Thống Việt Nam CH, ông Nguyễn Cao Kỳ, cũng đến làm để giám sát. Phía Hà Nội do Lê Đức Thọ cầm đầu phái đoàn và Bà Nguyễn Thị B́nh, đại diện cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

Tân Dậu (1981): Sau khi đánh thắng miền Nam, thống nhất đất nước, Hà Nội theo Nga chống Trung Cộng. Pôn Pôt ở Kampuchia theo phe Trung Cộng, gây hấn với Việt Nam ở biên giới Tây Nam. CS Việt Nam bất đắc dĩ phải đem quân qua Kampuchia lật đổ Pôn Pôt và dựng lên một chính quyền tay sai của Việt Nam (Hun Sen). Năm 1979 Trung Cộng đem quân đánh Việt Nam, tàn phá các tỉnh ở biên giới phía Bắc Việt Nam, gây thiệt hại vô cùng to lớn không thể lường được. Năm Tân Dậu (1981) là năm Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn, một mặt bị Trung Cộng đe dọa, phải đưa quân pḥng thủ ở biên giới phía Bắc, một mặt phải đem quân qua bảo vệ chính quyền tay sai ở Kampuchia, một mặt phải dập tắt các phong trào chống đối ở trong nước đồng thời phải đối phó với dư luận trên thế giới đang tấn công Việc Nam về vi phạm nhân quyền. Hàng vạn sĩ quan và viên chức hành chánh của Việt Nam Cộng Ḥa cũng như tu sĩ và tín đồ các tôn giáo đang bị đày đọa trong các trại tập trung cải tạo với thân phận "người tù khổ sai", đói rách, thiếu thuốc men, phải lao động đến kiệt sức, nhiều người đă ngă gục. Số người vượt biên đi t́m tự do, chết trên sông, trên biển hay trong rừng sâu... đă đánh động lương tâm nhân loại. Các trại tỵ nạn ở Đông Nam Á và Thái B́nh Dương đầy nhóc các thuyền nhân vượt biển. Các nước trên thế giới họp nhau t́m giải pháp để cứu giúp những người cùng khổ này và các chương tŕnh định cư cho thuyền nhân đă được thực hiện.

Quư Dậu (1993): Dưới áp lực của Mỹ, Trung Cộng và thế giới, Việt Nam chịu rút quân khỏi Kampuchia và thực hiện chương tŕnh ra đi có trật tự... Các thành phần thuộc VNCH bị tập trung cải tạo trên 3 năm được lần lượt ra đi định cư tại Hoa Kỳ (hoặc tại một nước thứ ba) để làm lại cuộc đời trong một xă hội tự do dân chủ. Sau khi Liên Xô và các nước Cộng Sản Đông Âu sụp đổ, Việt Nam rất lo sợ trước sức mạnh quân sự và tham vọng bành trướng của Trung Cộng nên một mặt chạy theo Mỹ, đưa ra chủ trương "kinh tế thị trường", bắt tay với tư bản, cho sinh viên qua Mỹ du học, nhờ Mỹ làm giảm bớt áp lực của Trung Cộng; mặt khác chuyển hướng để ḥa giải với Trung Cộng, chấp nhận dâng đất, dâng biển cho kẻ thù để giữ cái ghế cho bọn lănh đạo CSVN. (Tháng 12, 1999, Việt Nam kư với Trung Cộng hiệp ước phân định ranh giới trên đất liền để hợp thức hóa phần đất mà Trung Cộng đă chiếm vào năm 1979 khi đem quân tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam. Và hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ, tháng 12-2000).

Ất Dậu (2005): Nhớ lại hai lần Ất Dậu trước đây: 1885 và 1945, đă có nhiều biến cố lịch sử làm thay đổi vận mệnh dân tộc Việt Nam chúng ta. Năm nay, 2005 cũng là năm Ất Dậu, trở lại chu kỳ lục giáp (60 năm) như năm 1945. Hai lần Ất Dậu (1885 và 1945), vua mất ngai, quan mất chức, dân mất việc, mất đất, mất nhà... Không biết Ất Dậu này (2005) lành hay dữ. Nh́n lại Thân, Dậu đă qua là những năm chiến tranh, đau khổ chứ không "kiến thái b́nh". Vậy Thân, Dậu này (2004, 2005) có khác với các năm Thân, Dậu trong quá khứ hay không? Sách Kinh Dịch viết: "Cùng tắc biến; biến tắc thông" (Sự việc đi đến tột cùng th́ sẽ có thay đổi; có thay đổi th́ có hanh thông, may mắn). Mặt trời lên đến tột đỉnh (đúng ngọ) th́ đi xuống và chuyển dần về chiều. Mùa Đông tới độ rét lạnh tối đa th́ trời ấm dần và chuyển qua mùa Xuân. Những biện pháp CSVN đang áp dụng nhằm mục đích hạn chế tự do tôn giáo cũng là những giọt nước cuối cùng làm tràn một ly nước đă đầy... Chưa biết chuyện ǵ sẽ xảy ra, chờ xem!


Chúng ta tạm thời bỏ qua những định kiến Quốc - Cộng, chỉ trung dung nh́n hoàn cảnh lịch sử Việt, sau thời Cụ Trạng mất những năm sau đó, thời Trịnh - Nguyễn liên miên chiến tranh đói kém đau khổ ... rồi tới thời Pháp thuộc cả toàn dân Việt ch́m trong màn nô lệ đen tối, cho tới thời thế chiến II (cũng là chữ THỜI) VN tuyên bố được độc lập, cho dù CS nắm được chính quyền (cũng là chữ THỜI), th́ VN thoát khỏi ṿng nô lệ đen tối mà "thăng đại minh", cho dù mới có "Th́n Măo xuất thái b́nh" (câu thái b́nh có nhiều trong Sấm Trạng), những chưa có Thánh Chúa nên chưa hẳn là thực sự thái b́nh, Cụ Trạng rất chú trọng thời mà Thánh chúa xuất hiện, thời đó Cụ Trạng mới cho là thực sự thanh thái b́nh đến hàng trăm năm sau,và đến những năm Dậu kế tiếp vừa qua th́ chưa có năm Dậu nào được "thái b́nh phong", vậy câu "Thân Dậu niên lai kiến thái b́nh" kế câu sau là:

Chó nọ vẫy đuôi mừng Thánh chúa,
Ăn no ủn ỉn Lợn kêu ngày

Thân Dậu chỉ mới là thấy được thái b́nh, c̣n thực sự ấm no thanh b́nh th́ phải chờ chó vẫy đuôi mừng Thánh chúa th́ Lợn mới được ăn no ủn ỉn mới thực sự mới là "thái b́nh phong", vậy câu nào thực sự mới là thái b́nh ?, có lẽ phải chờ 1 biến cố mới, như thời Thế chiến II mới có thể chuyển biến 1 cách triệt để được, tất cả rúng động toàn thể mới tạo được "chữ THỜI" để thoát ṿng "thiết vi", và phải chờ tới lúc Thánh Chúa ra đời mới thực sự đúng chữ thái b́nh vậy.
Quay trở về đầu Xem thiennhan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thiennhan
 
NhapMon
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 298 of 585: Đă gửi: 31 March 2007 lúc 12:12am | Đă lưu IP Trích dẫn NhapMon

thiennhan đă viết:
riêng phần phân tích 4 câu thơ:

438 - Kư Mă xu (khu) Dương tẩu
439 - Phù Kê thăng đại minh
440 - Trư Thử giai phong khởi
441 - Th́n Măo xuất thái b́nh

tôi chưa đồng thuận với anh về thời gian thái b́nh đến tận năm Qúi Măo (2023), Giáp Th́n (2024) th́ lâu quá già mất rồi c̣n ǵ để được hưởng thái b́nh nữa


Thưa bác NM cũng mong cho sớm hơn, nhưng khi phân tích Sấm th́ thấy sao th́ nói vậy . Thông thường thấy đa số mọi người chỉ ngắt ra một đoạn hay vài câu để luận đoán chứ không để ư ǵ đến phần c̣n lại của bài Sấm . Phần Sấm Nho là phần khă tín nhất th́ thấy ít người đụng đến nó, đa số chỉ thấy luận các câu có rồng rắn chó mèo với xuất xứ không được tin tưởng lắm!

thiennhan đă viết:
v́ câu Phù Kê thăng đại minh thử xem những biến cố quan trọng những năm Dậu trong lịch sử Việt sau thời gian 500 năm Cụ Trạng mất ra sao, những biến cố nào để thử suy luận chữ " phù kê thăng đại minh"


Trước đây NM có nhắc đến chữ "phù Kê" là một cách dùng đặc biệt trong toàn bộ mấy trăm câu Sấm! nếu chỉ về năm Dậu th́ có lẽ không ai dùng chữ "phù" cả. Bài về các năm Dậu bác đưa lên rất hữu ích.

Bàn Sấm là những câu chuyện bất tận, mỗi người một ư . Đó cũng là cái thú khi trà dư tửu hậu của các cụ xưa kia
Không biết có chủ quan hay không, nhưng dường như tâm lư chung là mong Thánh "sẽ" hoặc "sắp" ra đời chứ như Thánh "đă" ra đời th́ tâm lư lại khó chấp nhận! Nếu như Thánh có lù lù trưóc mặt chắc cũng bị chưởi thúi mă!

__________________
NhapMon
Quay trở về đầu Xem NhapMon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi NhapMon
 
huyenmon
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 06 March 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 54
Msg 299 of 585: Đă gửi: 31 March 2007 lúc 3:12am | Đă lưu IP Trích dẫn huyenmon



Bàn Sấm là những câu chuyện bất tận, mỗi người một ư . Đó cũng là cái thú khi trà dư tửu hậu của các cụ xưa kia
Không biết có chủ quan hay không, nhưng dường như tâm lư chung là mong Thánh "sẽ" hoặc "sắp" ra đời chứ như Thánh "đă" ra đời th́ tâm lư lại khó chấp nhận! Nếu như Thánh có lù lù trưóc mặt chắc cũng bị chưởi thúi mă! [/QUOTE]
     
     Anh Nhap Mon nói có lư. Thường th́ Bụt tại nhà không thiêng . Bụt xa xa th́ khấn lạy liền liền !
Quay trở về đầu Xem huyenmon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi huyenmon
 
NhapMon
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 607
Msg 300 of 585: Đă gửi: 31 March 2007 lúc 2:08pm | Đă lưu IP Trích dẫn NhapMon

Bác TN đưa bài "Những Năm Dậu Trong Lịch Sử" của tác gỉa Triệu Phong, gợi ư để t́m hiểu về các vị vua chúa tuổi Dậu của VN:

"Những vị vua, chúa Việt Nam cầm tinh con gà
Trong lịch sử của dân tộc, các vị vua, chúa nước ta có vai tṛ hết sức quan trọng trong việc đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập dân tộc, phát triển kinh tế-xă hội nước nhà làm rạng danh truyền thống đánh giặc ngoại xâm và xây dựng đất nước Việt Nam.

Trong số 102 vị vua, chúa nước ta (tính từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XX), các vị vua, chúa cầm tinh con gà không nhiềụ Nhân dịp Tết Ất Dậu-2005, xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc những vị vua, chúa nước ta cầm tinh con gà:
    
- Vua Trần Nghệ Tông, sinh tháng 12 năm Tân Dậu (1321), là con thứ ba của Trần Minh Tông; lên ngôi ngày 15 tháng 11 năm Canh Tuất (1370), ở ngôi trong 2 năm: Từ 1370 đến 1372, sau đó nhường ngôi để làm thượng hoàng. Trong thời gian ở ngôi, vua đặt niên hiệu là Thiệu Khánh. Vua Trần Nghệ Tông mất ngày 15 tháng 12 năm Giáp Tuất (1394), hưởng thọ 73 tuổị

- Vua Lê Nhân Tông, sinh ngày 9 tháng 6 năm Tân Dậu (1441), là con thứ ba của Lê Thái Tông; lên ngôi ngày 8 tháng 12 năm Nhâm Tuất (1442), ở ngôi 17 năm: từ 1443 đến 1459. Vua mất ngày 3 tháng 10 năm Kỷ Măo (1459) do bị anh là Lê Nghi Dân giết, hưởng thọ 18 tuổị Lúc ở ngôi, nhà vua đặt hai niên hiệu là: Thái Hoà (1443-1453) và Diên Ninh (1454-1459).
   
- Vua Lê Hiển Tông, sinh tháng 4 năm Đinh Dậu (1717), là con trưởng của Lê Thuần Tông; được truyền ngôi vào ngày 21 tháng 5 năm Canh Thân (1740), ở ngôi 46 năm và lấy niên hiệu là Cảnh Hưng (1740-1786). Nhà vua mất tháng 7 năm Bính Ngọ (1786), hưởng thọ 69 tuổị
    
- Chúa Nguyễn Hoàng, sinh tháng 8 năm Ất Dậu (1525), là con thứ hai của Nguyễn Kim (người dựng ra Nam Triều). Tháng 10 năm Mậu Ngọ (1558) chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hoá, rồi Quảng Nam. Nguyễn Hoàng ở ngôi chúa 55 năm và mất tháng 6 năm Quư Sửu (1613), hưởng thọ 88 tuổị

- Vua Quang Trung- Nguyễn Huệ, sinh năm Quư Dậu (1753)(*). Năm 1771, Nguyễn Huệ tham gia khởi xướng, lănh đạo phong trào Tây Sơn, đánh đuổi quân Xiêm La và Măn Thanh xâm lược. Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế vào ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (1788), đặt niên hiệu là Quang Trung và mất ngày 16 tháng 9 năm 1792, hưởng thọ 39 tuổi

(Soure: không nhớ)
(*)Có tài liệu ghi vua Quang Trung sinh năm Nhâm Thân

Trong tất cả các vua chúa từ tế kỷ thứ 10 đến nay, chỉ có một vị duy nhất mang tuổi Đinh Dậu là vua Lê Hiển Tông (1717)!

Trên thế giới cũng không nhiều vua, chúa, tổng thống tuổi Đinh Dậu:
- Alexandre I, vị này đặc biệt. Làm Hoàng Đế nước Nga (Russia), vua nước Ba Lan (Poland) và Đại Bá Tước đầu tiên của Phần Lan (Finland)
- Frederick I, Hoàng Đế nước Phổ (Prussia)
- Nero, Hoàng Đế La Mă
- Grover Cleveland, Tổng Thống Hoa Kỳ
- Hamid Karzai, Tổng Thống đang tại vị của Afghanistan
- Boris Tadic, Tổng Thống đang tại vị của Serbia
- Osama bin Laden, lănh tụ Hồi giáo cực đoan

Trong lănh vực tôn giáo và đạo giáo các vị giáo chủ sinh năm Đinh Dậu gồm có:

- Đức Phật (Siđharta Gautama)
Source:
http://buddhismtoday.com/viet/pgtg/sukien/022-suPG.htm
http://quangduc.com/quocte/01pgkhaptg-mocls.html

- Lăo Tử
Source: http://www.personal.usyd.edu.au/~cdao/booksv/tvrntdct-pt.htm

(Khổng Tử sinh năm Kỷ Dậu, Khổng Minh sinh năm Tân Dậu).

Nh́n chung tuổi Đinh Dậu nắm vị trí lănh đạo nước ta (vua, tổng thống) qua các triều đại rất hiếm, và cứ mỗi lần tuổi Đinh Dậu xuất hiện th́ cở Đức Phật, Lăo Tử! Trong các bài trước, bác TN đă có nhận định đáng suy gẫm như sau:
"Thời sau này sẽ có một vị “Thánh Nhân Thiên tử” ra đời trị v́ phục hưng đất Việt lẫy lừng, chứ không như những vị vua b́nh thường như những thời gian trước"

Sửa lại bởi NhapMon : 31 March 2007 lúc 9:00pm


__________________
NhapMon
Quay trở về đầu Xem NhapMon's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi NhapMon
 

<< Trước Trang of 30 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 2.1836 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO