Đă tham gia: 21 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 31
Msg 1 of 12: Đă gửi: 08 June 2010 lúc 1:37am | Đă lưu IP
< http-equiv="Content-" content="text/; charset=utf-8">< name="ProgId" content="Word.">< name="Generator" content="Microsoft Word 12">< name="Originator" content="Microsoft Word 12">
DẪN
Thế gian việc như ư th́ ít, việc bất như ư lại nhiều, người
đắc chí chẳng có bao nhiêu, mà người bất đắc chí th́ hằng hà sa số.
Ngàn xưa như thế, ngày
nay cũng vậy.
Bất luận là phương
Đông hay phương Tây.
Tại sao?
Đó là một câu hỏi gắn liền với đời sống nhân loại ngay từ
khi loài người nhận thấy sự thọ yểu của mỗi sinh mệnh. Nó lại càng gây thắc mắc
hơn khi con người sống tụ thành xă hội và nhận thấy lẽ cùng thông trong đời sống.
Phải chăng cùng thông thọ yểu là do sự an bài của đấng tối
linh trời, phật, thượng đế như các tín ngưỡng tôn giáo lập luận.
Hoặc ngược hẳn lại theo triết lư nhân văn (humanisme), khoa
học, phương pháp học (Descartes), ư chí quyền lực (volonté de puissance) -
Nietszche và Mác Xít - tất cả là do con người định.
Vũ trụ chung quanh ta không chống lại ta mà cũng không ban
ân huệ cho ta. Nó quay cuồng, đảo lộn, không hề có mưu định ǵ cả. Trong quay
cuồng đảo lộn, chính con người tự điều khiển, tự cai quản, vượt mọi trở ngại để
chiến thắng.
Alain gọi là “Ulysse
nageant” (Ulysse, một nhân vật tượng trưng cho sự chiến đấu của con người
trong sử ca của Homer, tác giả cổ xưa thời kỳ văn minh Hy Lạp. Sức mạnh thiên
nhiên biển cả sóng lớn đă không cản được Ulysse đến chỗ ông định trốn).
Đọc bộ “Comédie
humaine” của văn hào Honoré de Balzac, ta thấy rất nhiều nhân vật tương tự:
Vautrin, tên đầu trộm đuôi cướp sau trở thành tổng giám đốc công an, Rastignac,
tên điếm đàng làm thủ tướng Pháp, trong khi những người như Louis Lambert,
Rabourdin tài giỏi, đức độ lại ngậm đắng nuốt cay, thất bại ê trề. Không phải
Balzac đă tưởng tượng mà ông đă kể lại toàn chuyện thực của Paris thời ấy, thời
cực thịnh cho chủ nghĩa hănh tiến ăn may.
Có biết bao nhiêu Ulysse chiến đấu nhưng không chống lại bọn
“arriviste” nghĩa là bọn có thời vận,
tốt số, may hơn khôn.
Lénine từng nói: “Tuyệt
vọng đưa dẫn người ta đến tín ngưỡng”. (Perte de l'esperance conduit à la
croyance). Nếu ông nghĩ đến viên đạn của kẻ ám sát ông chỉ đi lệch một chút
thôi không trúng vai mà trúng đầu ông, chắc ông sẽ giật ḿnh với sự kỳ lạ của số
mệnh.
Hitler tuyệt đối tin vào ư chí quyền lực. Các sử gia đă đưa
nhiều bằng cớ cho thấy nhà lănh tụ quốc xă luôn luôn lo lắng tới số mệnh.
Tục ngữ Trung Quốc có câu: “Vị sinh nhân, tiên tạo mệnh”. Số mệnh được tạo thành lúc con người
chưa chui ra khỏi bụng mẹ.
T́m hiểu số mệnh là mục tiêu của khoa học tướng mệnh để giải
thích những điều:
Tảo vận Cam La văn
Thái Công
Thạch Sùng phú quư Phạm
Đan cùng
Bành Tổ thọ trường
Nhan Tử đoản.
Tại sao Cam La, 12 tuổi đăng đàn bái tướng c̣n ông Lă Vọng
90 tuổi mới gặp Chu Văn Vương?
Tại sao ông Bành Tổ sống lâu, c̣n thầy Nhan Hồi chết sớm?
Tại trời cả?
Quyền phán xét dành cho Thượng Đế? Khoa tướng mệnh phủ nhận
lư luận tại trời theo cái nghĩa cho hay muôn sự tại trời hoặc hoá công sao khéo
trêu ngươi, ư chỉ vào một đấng tối linh an bài, con người vô năng không thể biết
và cũng chẳng làm ǵ được đối với sự an bài đó.
Thu vào hai chữ “tại
trời” thôi th́ vẽ vời bầy đặt tướng số là việc làm thêm nhiễu sự. Thiên mệnh
theo khoa tướng mệnh không chấp nhận trời như một đấng tối linh mà trời đây là
sự kết hợp của ngũ hành: kim, mộc, thủy, hoả, thổ, tức năm chất tố cấu tạo thành
vũ trụ, và âm dương tức hai khí chất làm chuyển động vũ trụ.
Bởi vậy, để trả lời tại
sao:
Tảo vận Cam La văn
Thái Công
...............................................
Khoa tướng mệnh đă nói kết gọn vào câu:
Lục nhân đô tại ngũ
hành trung.
Sáu người ấy đều ở trong sự vận chuyển của ngũ hành.
Giàu sang, phú quư, cơ cực, bần tiện, cùng khổ thọ yểu đều
do mệnh vận và tướng cách mà biết.
Tính mệnh vận đặt trên nguyên tắc toán số, xem tướng cách đặt
trên nguyên tắc cơ cấu kiến trúc và mỹ học, tuyệt đối không là dị đoan mê tín.
Nó chống lại quan niệm mê muội thần quyền và làm giầu thêm cho khoa học nhân
văn.
Nhà xă hội học không thể dùng bất cứ nguyên tắc nào của khoa
này để giải nghĩa nổi tại sao Vương Hiển Văn, bạn rất thân của vua Đường Thái
Tôn từ lúc vua Đường Thái Tôn chưa chiếm được thiên hạ mà Văn lại chết trong cảnh
nghèo khổ ? Lúc Đường Thái Tôn vừa cho người đến đón Vương Hiển Văn về triều
cùng cai trị muôn dân th́ ngay đêm hôm ấy Văn bị bạo bệnh chết.
Một nhà tướng mệnh học lúc bấy giờ là Lư Thuần Phong đă xem
tướng cho Vương Hiển Văn mà nói trước cả chục năm rằng:
- Tướng cách ông tai ám vô sắc, mi tán vô thái, mắt tán vô
thần, con ngươi đen vô quang nhất định không thể cao sang được.
Tại Trung Quốc vào những năm đầu cách mạng Tân Hợi, ai cũng
đều biết cái tên Trương tôn Xương xuất thân làm bồi bàn, văn bập bẹ đôi ba chữ,
vơ chẳng biết miếng nào, binh thư đồ trận lại càng mù tịt, thế mà ông ta đă một
thời kỳ làm mưa làm gió trên chính trường miền Bắc.
Khi ông làm Tổng Đốc tỉnh
Sơn Đông, gặp kỳ hạn hán, dân chúng theo tục lệ cổ, mời quan Tổng Đốc đến Long
Vương Miếu lập đàn cầu mưa. Trước bàn thờ, sớ ông không biết đọc, khấn ông không
biết khấn. Bực ḿnh, Trương Tôn Xương lấy tay chỉ mặt tượng thần mà nói: “Đ M... không mưa làm bách tính khổ... mày
c̣n để nắng măi, tao sẽ đập tan miếu này cho coi”.
Các kỳ lăo trong tỉnh ai nấy đều toát mồ hôi bởi câu chửi của
quan Tổng Đốc, nhưng không dám hé răng. Qua ba ngày trời vẫn không mưa. Tổng đốc
Trương Tôn Xương liền hạ lệnh cho tiểu đoàn pháo binh đem đến mười khẩu đại bác
xếp hàng trước núi Thiên Phật bắn lên trời. Quả nhiên, hôm sau trời mưa như
trút nước.
Tại sao người như thế mà ở ngôi vị nhất phẩm triều đ́nh ?
Chỉ có thể giải đáp: “Tại
mệnh tốt”.
Trương Tôn Xương sinh năm Nhâm Ngọ, tháng Nhâm Dần, ngày
Nhâm Dần, giờ Nhâm Dần. Bốn chữ Nhâm sách gọi bằng Thiên Nguyên nhất khí. Hành
chi Dần ngọ hợp thành hoả cục. Nhâm thuộc thủy trúng vào cách Thủy Hỏa Kư Tế.
Thời kỳ Xương làm bồi bàn, thầy số đoán là đại quư mệnh,
Xương c̣n vái thầy số xin đừng giễu cợt, cái thân bồi bàn làm ǵ đại quư đại
phú. Đến lúc Trương Tôn Xương đắc ư, ông giàu đến nỗi tiền của có bao nhiêu
không biết, quyền thế đến nỗi quân lính có bao nhiêu không biết, chỗ nào cũng lấy
vợ đến nỗi có bao nhiêu vợ không biết. Các thầy số đă phải lấy trường hợp họ
Trương làm điển h́nh để đặt thành cách gọi là cách “Tam bất tri”.
Trong thực tế, cuộc đời ta c̣n gặp biết bao nhiêu chuyện lạ
khác, nếu không đem khoa tướng mệnh học giải thích th́ ta không c̣n cách ǵ
khác để hiểu nổi những hiện tượng đó. Nào người giàu nhưng vất vả, người nghèo
vẫn phong lưu, trước sang sau hèn, tiền bần, hậu phú v. v..
Quỷ Cốc Tử đặt ra cả hàng trăm cách khác nhau, mỗi cách để
chỉ một hiện tượng của đời sống con người, từng trường hợp khác nhau, từng người
khác nhau, tỉ dụ:
a) Cách
Y
cẩn kỵ ngưu (mặc áo gấm cưỡi trâu) chỉ một số mệnh giầu sang phú quư kiểu
cáo mượn oai hùm, cái ǵ cũng là giả. Áo gấm phải cưỡi ngựa mới đủ bộ, sao lại
cưỡi trâu.
b) Hàn
thuyên tại liễu (con ve sầu trời rét đậu trên cành liễu) chỉ một số phận
cùng khốn không nơi nương tựa. Ve sầu lúc trời rét đă là sắp tàn kiếp rồi mà
c̣n đậu trên cây liễu th́ kiếm đâu ra nơi ẩn nấp tránh mưa, tránh gió.
c) Vân đầu
vọng nguyệt (đứng dưới mây chờ trăng) ư chỉ một vận hội đen tối trước mặt
nhưng tương lai vẫn nhiều hy vọng.
Thiên h́nh vạn trạng kiếp sống đều hiện lên bằng h́nh ảnh rơ
rệt tượng trưng cho từng tướng cách hay số cách.
Không có cái học nào đi sâu vào cơi nhân sinh như tướng mệnh
học.
Nghiên cứu tướng mệnh học, tri mệnh không có nghĩa là từ bỏ
đấu tranh, bó tay, bất động, chịu sự an bài. Trái lại, cốt để biết lẽ cùng
thông, lúc nào nên làm, lúc nào nên ngừng, lúc nào cần động, cần biến, lúc nào
cần tĩnh, cần thủ. Không xuẩn động như lũ thiêu thân. Tri mệnh để tạo cho ḿnh
một thái độ thong dong đối với việc đời, ứng phó với những biến động.
Dục ngộ biến nhi vô sương hoành
Tu hướng thường thời niệm niệm thủ đắc định
Dục lâm tử nhi vô tham luyến
Tu hướng sinh thời sự sự khán đắc khinh.
Muốn cho lúc gặp cơn nguy biến khỏi hốt hoảng
Th́ lúc b́nh thời tâm phải tĩnh, định
Muốn cho lúc chết khỏi tham luyến
Th́ lúc sống phải xem thường mọi sự.
Tri mệnh để xem thường mọi sự, coi vinh nhục cùng một rễ, tử
sinh cùng một gốc. Vậy th́ lo ǵ sống chết, sợ ǵ biến động.
Tri mệnh chính là một triết lư nhân sinh rất cao. Tri mệnh
cũng là một phương pháp đấu tranh rất sát với thực tiễn vậy.
____________________________________________________________ __ Trong nguồn sách Ebook ghi không rơ tác giả H́nh như là của tác giả Vũ Tài Lục, đọc quá lâu trước 75 nên không nhớ rơ.
Đă tham gia: 21 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 31
Msg 2 of 12: Đă gửi: 08 June 2010 lúc 9:21am | Đă lưu IP
< http-equiv="Content-" content="text/; charset=utf-8">< name="ProgId" content="Word.">< name="Generator" content="Microsoft Word 12">< name="Originator" content="Microsoft Word 12">
Phần
một: TỬ SINH HỮU MỆNH PHÚ QUƯ TẠI THIÊN
Bài từ của Mông Chính viết:
Văn chương cái thế như Khổng Tử
mà c̣n khốn ách ở nước Sái, nước Trần, vũ lực siêu quần như Lă Vọng đành ngồi
câu cá nơi sông Vị. Thầy Nhan Hồi chết yểu đâu phải v́ thầy là con người hung bạo.
Bọn đầu trộm đuôi cướp lại sống lâu, chúng nào có lương thiện ǵ. Vua Nghiêu,
vua Thuấn là những đấng minh quân sinh ra lũ con vô lại. Ông Cổ Tẩu tâm tính
ngang ngược th́ con cái toàn người hiếu thuận. Cam La 12 tuổi làm thừa tướng.
Măi Thần năm mươi được công khanh. Án Anh thấp bé vua Tề phong cho chức tể tướng.
Hàn Tín trói gà không chặt lên ngôi vị thống súy Hán Triều. Lúc chưa gặp thời,
cơm không đủ ngày 2 bữa, khi vận hanh thông đoạt tam ấn Tề Vương. Triệu Xong nắm
giữ hùng binh nhiều nước, một sớm một chiều hết thời chết trong bụi rậm. Lư Quảng
tay không đánh chết hổ suốt đời vô tước lộc. Phùng Đường tài an bang tế thế đến
già vẫn chưa có chỗ dung thân. Thượng cổ thánh hiền, chẳng ai trốn thoát ṿng số
mệnh âm dương.
Con người lúc sinh ra hấp thụ khí
âm khí dương, chịu ảnh hưởng vận chuyển sinh khắc chế hoá mà thành số mệnh tướng
cách khác nhau. Số mệnh tướng cách khác nhau sinh ra chết sống, giàu nghèo sang
hèn, bĩ thái cùng thông, thọ yểu thông qua thiên bẩm, cơ hội kết cục càng thêm
muôn h́nh muôn vẻ.
Cổ nhân sau ngàn, vạn năm kinh
nghiệm đă hạ bút đặt định nghĩa dứt khoát cho vấn đề bằng câu: “Tử sinh hữu mệnh, phú quư tại thiên”.
Những giọt lệ anh hùng xưa nay phần
lớn liên hệ đến tướng mệnh.
Sinh thời Khổng Minh thường hoài
băo cái chí: “Ở đời khác thường, làm sự
nghiệp phi thường, cùng th́ tự tốt lấy ta, đạt th́ đem hạnh phúc cho thiên hạ”.
Rút cuộc, sự nghiệp phi thường nửa đường đứt gánh, độc thiện kỳ thân chẳng
xong, kiêm thiên hạ cũng hăo huyền. Mặc dầu ông đă cố gắng hết ḿnh cúc cung tận
tụy đến chết mới thôi, cộng với cái tài lược hơn người, thế mà tâm trạng Gia
Cát Khổng Minh lúc chết thật bi ai. Gượng bệnh sai tả hữu vực lên chiếc xe nhỏ
ra trại đi xem các chỗ đóng quân. Gió thu thổi mạnh lạnh buốt tới xương, mới thở
dài than rằng:
  ;
“Từ đây ta không c̣n được ra trận đánh giặc nữa
Trời xanh thăm thẳm, giận này biết bao giờ nguôi
Muôn việc chẳng qua do số vận
& nbsp;
Người sao cưỡng được ḷng trời”.
Cái lư do gây ra Cổ kim đa thiểu
anh hùng lệ là tại anh hùng nan dữ mệnh tranh hoành (Anh hùng cũng khó chống lại
số mệnh). Việc đời thiên h́nh vạn trạng, sớm thay chiều đổi không đi ra ngoài
ṿng thiên số. Bởi thế, cụ Trạng Tŕnh mới dạy người sau: “Khôn cũng chết, dại cũng chết. Biết th́ sống”.
Biết ở đây có nghĩa là Tri mệnh.
NHỮNG
CÂU CHUYỆN ĐỂ CHỨNG MINH HAI CHỮ TRI MỆNH
Chu Á Phu đương thời trọng nhậm
chức Thái thú tỉnh Hồ Nam, đến nhờ Hứa Phụ xem tướng cho ḿnh. Hứa Phụ nói:
Ba năm nữa ông được phong hầu.
Tám năm nữa ông là tể tướng.
  ;
Mười năm nữa th́ ông chết đói.
Chu Á Phu cười mà rằng:
- Đă phú quư tột đỉnh như thế sao
c̣n chết đói, xin tiên sinh chỉ dạy cho tôi biết tại sao ?
Hứa Phụ nói:
- Pháp lệnh (hai vết từ mũi xuống
cằm) chạy vào miệng, theo tướng pháp gọi là rắn lao vào trong miệng là tướng chết
đói. Ông có tướng đó.
Quả nhiên chính trị biến động.
Chu Á Phu bị giam cầm, năm ngày
không ăn thổ huyết mà chết.
Hứa Phụ xem tướng cho Đặng Thông
bảo pháp lệnh nhập khẩu thế nào cũng chết đói.
Vua Hán Văn Đế không chịu, phán rằng:
- Đặng Thông là triều thần của trẫm,
phú quư của Đặng Thông do trẫm định đoạt, trẫm có thể cho Đặng Thông cả núi đồng
để đúc tiền.
Về sau, Đặng Thông chết đói trong
nhà một nông dân đúng như Hứa Phụ tiên đoán.
Vua Hán Văn Đế gọi Hứa Phụ vào
thưởng cho châu báu rất nhiều.
Hứa Phụ coi tướng Ban Siêu nói:
- Hàm én, đầu hổ bay mà ăn thịt
thực là tướng vạn lư phong hầu.
Ít lâu sau, Ban Siêu bỏ văn theo
vơ, lập đại công uy chấn miền Tây Vực được phong làm Định Viễn Hầu.
An Lộc Sơn lúc nhỏ nghèo hèn, đi ở
hầu cho Trương Thủ Khuê. Lúc rửa chân cho Khuê bỗng ngừng tay chăm chú nh́n.
Khuê hỏi:
- Mày nh́n ǵ thế ?
Lộc Sơn thưa:
- Tại tôi thấy bàn chân trái ngài
có nốt ruồi lớn.
Khuê bảo:
- Đấy là cái tướng phất cờ khởi
loạn của tao.
An Lộc Sơn vái chủ rồi nói:
- Thưa ngài cả hai bàn chân tôi đều
như vậy.
Khuê hết sức ngạc nhiên. Về sau
An Lộc Sơn làm loạn đốt cháy kinh đô nhà Đường, khiến Đường Minh Hoàng phải bỏ
chạy.
Thần Phóng ẩn cư nơi thôn dă đến
thăm nhà tướng học uyên thâm Trần Hy Di. Phóng cải dạng làm tiều phu. Trần Hy
Di trông thấy cười mà rằng:
- Tiên sinh tiều phu, 20 năm nữa
tiên sinh là bậc nhị phẩm nhân thần, thiên hạ ai cũng biết tiếng.
Đúng 20 năm sau, Thần Phóng làm
giám nghị đại phu rồi thăng chức Công bộ thượng thư.
Đời Hậu Hán, Vương Măng có tướng
lạ, trán cao dô, mắt đỏ con ngươi vàng, tiếng nói oang oang, quyền cao, mũi lớn,
miệng rộng.
Công Tôn Đề bảo Vương Măng:
- Đầu hổ, miệng hổ, tiếng như beo
nếu không ăn nổi người tất bị người ăn.
Vương Măng cướp ngôi nhà Hán
không được bao lâu th́ bị giết.
Ông Thánh Thán, nhà phê b́nh văn
học danh tiếng đời Thanh. Giao du rộng, bạn bè nhiều, có những tay tướng mệnh học
tài giỏi thường ăn ngủ trong nhà Thánh Thán. Coi tướng cho Thánh Thán, người
nào cũng tỏ ra thương tiếc, mười người xem th́ cả mười người đều phê tướng cách
Thánh Thán là sẽ bất đắc kỳ tử, lúc chết thây không toàn vẹn.
Kết cuộc, Thánh Thán bị kết tội
chém ngang lưng.
Tào Tháo sai thích khách đi ám
sát Lưu Bị. Thích khách vào yết kiến Bị để bày kế diệt Tào. Bị rất hợp ư, nói
chuyện thật tương đắc. Chợt Khổng Minh vào. Thích khách mặt biến sắc. Khổng
Minh nh́n người khách lạ rồi ngồi yên lặng. Thích khách đi tiểu tiện.
Lưu Bị bảo Khổng Minh:
- Đó là một kỳ sĩ, có thể giúp
cho ông.
Khổng Minh thở dài bảo Lưu Bị:
- Người ấy sắc động thần huy,
gian h́nh ngoại lậu tà tâm nội tàng. Tôi chắc hắn là thích khách của Tào Tháo
sai phái tới đây.
Lưu Bị cho người đuổi theo bắt th́
thích khách đă chạy trốn rồi.
Dương Quư Phi lúc nhỏ chạy chơi
ngoài đồng ruộng. Có thầy tướng họ Trương trông thấy nói:
- Người đại phú quư sao lại ở đây
?
Bạn hữu họ Trương hỏi:
- Con bé quư đến bậc tam phẩm
không ?
Trương đáp:
- Hơn thế nữa.
- Nhất phẩm?
- Hơn nữa.
- Thế chắc phải là Hoàng hậu ?
- Cũng chưa đúng hẳn.
Dương Quư Phi là một trong bốn
người đẹp nhất của Trung Quốc, từng làm rung chuyển cơ nghiệp nhà Đường.
THUỞ
TRỜI ĐẤT NỔI CƠN GIÓ BỤI
Trời đất nổi cơn gió bụi là động
cơ chính để xoay chuyển vận mệnh con người. Một nhà trí thức rời Hoa Lục qua
Hương Cảng sau khi Đảng cộng sản Trung Quốc nắm chính quyền có làm bài thơ ngũ
ngôn sau đây:
& nbsp;
“Danh sĩ kim trùy thạch
  ;
Tướng quân học tú hoa
& nbsp;
Phu nhân cánh hạ hải
& nbsp;
Tiểu thư diệc đảo sa
&n bsp;
Bộ trưởng cam ti siển
Tài thần nhẫn xuất gia
& nbsp;
Chỉ nhân đào họa loạn
Luân lạc đáo thiên nha”.
Nghĩa là:
& nbsp;
“Danh sĩ đi xay gạo giă thịt
Ông tướng cầm kim chỉ thêu gối thêu khăn lấy tiền
Các bà mệnh phụ xuống biển chở đ̣
&nb sp;
Tiểu thư khuê các gánh nước, giặt thuê
Bộ trưởng làm anh bán vé xe điện
Phú ông lang thang đầu đường xó chợ
Tất cả chỉ v́ chạy loạn
Nên mới lênh đênh góc biển chân trời”.
Thế sự là như vậy. Tất cả là biến
dịch. Đời sống con người đưa đẩy trong cái dịch đó. Động biến, cùng, thông,
sinh, tự hoá, đúng thời, đắc vị là căn bản cho xă hội nhân sinh.
Lư lẽ của tướng mệnh ở đấy mà ra.
Những hoàn cảnh: Bèo dạt hoa
trôi, cúc tàn gặp mưa, cá ao thoát lưới, hổ về rừng, yến tiệc hoa đăng v. v...,
nhất nhất cũng từ đấy mà thành.
Cơn gió bụi, tri loạn là gốc nguồn
của khí số vận mệnh tạo nên vinh hoa, toả chiết, thất bại, hung tai, hỉ sự cho kiếp
người.
QUAN
HỆ TƯỚNG SỐ GIỮA TẬP THỂ VÀ CÁ NHÂN
Nói đến tướng lư và số lư, người
ta thường gặp câu hỏi móc họng:
- Ối dào, tướng với số chỉ lắm
chuyện. Thế cả cái tàu ch́m ở ngoài khơi th́ tất cả người trên tàu cùng một số
một tướng chắc. Quả bom nguyên tử thả ở Hiroshima chết trong mười phút cả mấy
trăm ngàn th́ tướng với số ở đâu ?
Móc họng như vậy thật cũng khó trả
lời. Nhưng nếu cũng đem một câu hỏi móc họng khác ném ngược trở lại rằng:
- Vậy ở Hiroshima chết cả trăm
ngàn nhưng có một số người cùng chung hoàn cảnh hệt như nhau mà thoát chết th́
khoa học giải nghĩa ra sao ?
Câu trên cũng chẳng dễ ǵ trả lời
được. Nếu câu hỏi trước lôi người ta ra khỏi màng lưới của số mệnh tướng cách
th́ câu hỏi sau lại du người ta vào. Và cuộc căi vă cứ giằng co măi không
phương cách ǵ chấm dứt.
Nhưng giữa khi đó th́ bản thân số
học và tướng pháp nảy sinh ra vấn đề: “Tướng
tập thể”. Về “tướng số đông” này
có một lối giải nghĩa khác nữa là “vận nước”.
Trong thời kỳ Trung Hoa kháng chiến
chống Nhật bản, có 2 vị là Lâm Canh Bạch nhà đoán số nổi danh và Đào Bán Mai
nhà xem tướng kỳ tài vốn bạn chơi rất thân với nhau, cho nên hai vị đă cùng
nhau cộng tác để làm những thực chứng để mà giải đáp vấn đề. Xem tướng đoán số
tập thể để đoán định thời cuộc.
Một hôm họ gặp nhau tại Bảo quán
Tân Cương, Đào Bán Mai hỏi Lâm Canh Bạch đă phát hiện được ra điều ǵ mới lạ
sau khi xem số cho nhiều người ?
Họ Lâm nói:
- Về các yếu nhân trong chính phủ
th́ chưa thấy có ǵ khác lạ mới mẻ. Chỉ riêng có số của Thị trưởng Trùng Khánh
là Ngô Quốc Trinh th́ năm nay là năm đại bất như ư. Đồng thời xem cho đa số dân
chúng Trùng Khánh thấy trong một trăm lá số có đến cả bẩy chục lá số rất xấu
năm nay.
Đào Bán Mai mới căn cứ vào lời
nói của bạn, mấy ngày hôm sau liền, ông t́m nơi công cộng lắm người đi lại mà sử
dụng đến tài của ḿnh. Trường hợp này, xem tướng giải quyết vấn đề tương đối dễ
dàng hơn xem số. Bởi v́ dù gặp người không quen, dù họ không mời vẫn đoán được
như thường.
Lạ thay, khi vận dụng nhăn lực với
tướng pháp ra nh́n thiên hạ, Đào Bán Mai tiên sinh thấy khí sắc những người ở
đây quá nửa là tướng chết bất đắc kỳ tử mà thảm hoạ sắp đến rồi, chỉ trong ṿng
3 tháng. Sợ rằng đất Trùng Khánh này tai nạn đến nơi. Trong lúc chiến tranh,
tai nạn không khỏi 2 điều: bị luân hăm hoặc bị máy bay ném bom. Đất Trùng Khánh
tính trên chiến lược không thể nào bị luân hăm được, chỉ c̣n là vấn đề máy bay
ném bom.
Đào tiên sinh nghĩ rất hợp lư. V́
nếu Trùng Khánh bị giặc chiếm, tất nhiên số mạng các yếu nhân chính phủ ít nhất
dịch mă phải động, nghĩa là phải rời đi, nhưng theo như Lâm Canh Bạch th́
không. C̣n số mệnh của ông thị trưởng Ngô Quốc Trinh th́ bất quá chỉ là số mạng
một cá nhân không quan thiết đến đại cục.
Cái đáng kể là Lâm Canh Bạch xem
thấy nhiều số xấu rồi đến Đào Bán Mai trông thấy nhiều tướng xấu. Hai người bàn
với nhau mà lo. Nhưng ai dám nói cho mọi người hay chuyện lạ khó ḷng tin được ấy.
Hai ông bàn nhau: Tất nhiên nếu
có thảm họa th́ Trùng Khánh chỉ có thảm họa bị máy bay oanh kích. Nói đến máy
bay oanh kích th́ hơi khó xảy ra thảm họa to tát bởi v́ hệ thống hầm hố ở Trùng
Khánh rất chắc chắn. Vậy th́ tướng số sai chăng ? Không thể như thế được. Cá
nhân c̣n có thể sai, chứ tập thể làm sao sai ? Vả lại “tử vong khí sắc” Đào Bán Mai tiên sinh thấy càng ngày càng nặng
thêm không giảm bớt chút nào.
Mối hoài nghi cứ dày ṿ măi 2 nhà
tướng số. Không bao lâu sau, cách cuộc gặp gỡ của hai vị tướng số chừng 38 ngày
th́ thảm họa lịch sử Trùng Khánh xảy đến. Hàng vạn người chết chẳng phải v́ dịch
tễ, chẳng v́ bom đạn mà v́ chết ngạt ở dưới hệ thống hầm hố. Số người chỉ ngất
xỉu đi thôi cũng bị vất lên xe đi chôn tập thể.
Tướng và số tập thể như vậy không
phải là chuyện ngoa ngôn. Đất nước chúng ta ngày nay nếu ai để ư ít nhiều tất sẽ
thấy ngay trẻ con thuộc thế hệ người Việt lớp sau này đều đẹp đẽ sáng sủa hơn lớp
trước mặc dầu chiến tranh miên man, mặc dầu rối loạn không ngừng. Tướng tập thể
của lũ trẻ Việt đó báo hiệu một tương lai tốt cho giang sơn Việt Nam.
TƯỚNG TẬP THỂ ỨNG VÀO VIỆC THIÊN ĐÔ CỦA
CHÍNH PHỦ KHÁNG CHIẾN
Ở Hồng Khẩu, trước kháng chiến 5
tháng, tướng gia Đào Bán Mai gặp người bạn mời ăn cơm trưa. Ông bạn này biết
tài của họ Đào nên trước đông anh em, ông bạn yêu cầu tiên sinh xem tướng cho tất
cả bọn.
Bữa tiệc có khoảng chừng bẩy tám
chục người. Đào Bán Mai phát hiện tướng của họ đều chung một điểm giống nhau là
sắc tướng có khí mờ ám và có dấu hiệu rời đổi chỗ ở. Khí sắc mờ ám
là có sự “bất như ư”, “tiểu phá tài”.
Khí sắc thiên di là chỉ trong nội
một thời gian ngắn tất đổi rời nơi cư ngụ.
Tướng th́ thế, nhưng sự thực th́
khó ḷng chứng minh quá. Ai nấy đều có công ăn việc làm th́ dại ǵ mà đi đâu. Ấy
vậy mới kỳ.
Nghe Đào tiên sinh nói họ cười thầm.
Nhưng họ cười chẳng bao lâu th́ chiến tranh bùng nổ. Nhật ào ạt đổ lên Hồng Khẩu,
toàn thể dân Hồng Khẩu “khăn gói gió đưa”
lên đường tản cư.
Một nhà tướng số khác sau khi xem
số và tướng cho các yếu nhân trong chính phủ như Tưởng Giới Thạch, Uông Tinh Vệ,
Lâm Xâm v. v... đă thi ra một điểm lạ. Trong cung thiên di của quá bán các yếu
nhân đó đều thấy dịch mă nên quyết đoán như sau: Chính phủ tất phải rời Nam
Kinh và đi về phía Tây. Quả nhiên chính phủ mấy tháng sau chuyển lên Vũ Hán rồi
đến Trùng Khánh.
TRI
NHÂN THIÊN NHIỆM - BIẾT NGƯỜI ĐỂ DÙNG NGƯỜI
Học tướng pháp để xem ai sẽ chết
non, chết yểu hay thọ bẩy tám mươi, hoặc ai sẽ giàu có nứt đố đổ vách hay nghèo
rớt mồng tơi. Nhưng đấy mới chỉ là phần t́m hiểu vận mạng một người.
Nhưng tướng pháp c̣n đem lại cho
chúng ta một điều hữu ích khác là biết người để dùng người, biết người làm bạn,
biết người để cùng mưu toan việc lớn.
Những độc giả nào đă đọc Tam Quốc
Chí chắc chưa quên cái tướng Ngụy Diên chói xương phản chủ mà Khổng Minh Gia
Cát biết trước để pḥng trong cẩm nang giao cho Mă Đại xử tội.
Trong vở kịch của nhà đại văn hào
Anh Shakespeare, vở César, có đoạn: César nh́n thấy Cassius bèn bảo cận thần của
ông rằng:
- Các ngươi hăy canh chừng tên
Cassius kia. Vóc nó gầy guộc với đôi mắt vơ vàng của nhiều đêm không ngủ. Ta sợ
những người như hắn. Hắn đang mưu toan hại ta đó.
Từ cổ xưa, lịch sử nhiều lần chứng
minh rằng: Tất cả thành công hay thất bại quá nửa thu vào hai chữ dùng người.
Hán Cao Tổ Lưu Bang sau khi thành
công rồi, một hôm hội họp quần thần lại mà hỏi:
- Các ngươi có biết tại sao từ áo
vải chân trắng mà lên được ngôi thiên tử chăng ?
Quần thần nịnh hót, tán nhảm tán
nhí rằng ngài giỏi, ngài gan dạ, ngài anh minh, ngài quân tử.
Để cho tâng bốc hồi lâu, Lưu Bang
mới vuốt râu cười khe khẽ nói:
- Không phải, các người nói sai
bét, sai bét.
Đám quần thần thấy những câu nịnh
của ḿnh trật lất nên người nào người nấy ngồi ngẩn mặt ra.
Bấy giờ Lưu Bang mới chậm răi
phán rằng:
- Ta tài quyết liệu quân cơ không
bằng Trương Lương, tài tính toán đôn đốc quân ngũ không bằng Tiêu Hà, tài chỉ
huy chiến sĩ xông pha chiến trường không bằng Hàn Tín. Thế mà ta ngồi ở trên
cao nhất chính là nhờ ta biết người và dùng người đúng chỗ vậy !
Ông Gia Cát Lượng khi c̣n nằm tại
núi Ngọa Long đă viết ra thiên “Tri Nhân”
(biết người) trong tập Tướng Uyên như sau:
- Tính người thật khó hiểu. Dung
mạo bất nhất, hành động trăm ngàn lối. Kẻ trông hiền lành nhu thuận mà vô đạo,
kẻ bề ngoài cung kính mà trong ḷng trí trá vô lễ. Kẻ trông rất hùng dũng nhưng
lại nhát sợ (kiểu các cụ đồ thường nói là già giái non hột, dọa đánh người rồi
không dám đánh). Kẻ có vẻ thật tận lực mà rất bất trung.
Tuy nhiên, biết người cũng có bẩy
cách:
a)Đem điều phải lẽ trái hỏi họ để biết chí hướng.
b)Lấy lư luận dồn họ vào thế bí để biết biến thái.
c)Lấy mưu trí trị họ để trông thấy kiến thức.
d)Nói cho họ những nỗi khó khăn để xét đức dũng.
e)Cho họ uống rượu say để ḍ tâm tính.
f)Đưa họ vào lợi lộc để biết tấm ḷng liêm chính.
g)Hẹn công việc với họ để đo chữ tín.
Như thế, thuật “Tri Nhân” của Khổng Minh xây dựng trên 2
điểm căn bản:
1) H́nh tướng (phải học tướng
pháp để khỏi lầm cái h́nh dáng bên ngoài).
2) Tâm tướng (cách phát hiện tâm
lư người khác trong khoảng khắc).
Đấy tướng pháp quan trọng như thế
đó. Dù đi buôn bán, hùn vốn làm kỹ nghệ hay mọi công việc chỉ có hai người trở
lên mà chỉ có chút phản tướng vào đấy thôi là tất cả hỏng hết. Nữa là làm chính
trị !
Xin đưa vài tỷ dụ: (xin nhớ chỉ cần
phạm vào một tướng trên đây cũng đủ).
a) Người ”bé gan” th́ mục châu (con ngươi) nhỏ mà vàng. Toàn mắt đen với vàng
không rơ rệt nó lờ mờ. Mũi ngắn, thân h́nh dài hơn chân, nói lao xao nhưng
không thực. Mặt trắng bệch, tính t́nh tham, thích thủ lợi
b) Lông mày thưa, xương mặt dưới
lông mày không g̣ lên mà lơm xuống. Hai mắt đột lộ lại đỏ. Trông bất cứ việc ǵ
hoặc ngước lên hoặc gầm xuống không dám nh́n thẳng. Lưỡng quyền nằm ngang, quá
cao ép bên cái mũi bất tương xứng. Mũi vẹo, mũi không đầy đặn, mũi như móc câu.
Trên lưỡng quyền có những vết nhăn đi ngược, sách tướng gọi là văn loạn quyền phá là tướng của những
tên phản trắc.
c) Tướng người hiếu sắc th́ thần
của 2 mắt lúc nào cũng lờ đờ như say rượu, gọi là tuư nhăn. Nếu sóng mắt lúc nào cũng rạt rào gọi là dâm nhăn. Mắt vui ưa nh́n nhưng chứa chất
tính cách hỉ hoan t́nh ái gọi là đào hoa
nhăn.
d) Tướng loại người gian điêu th́
mắt không đau mà lúc nào cũng đỏ. Hai mắt khuyết hăm. Nhưng nguy hiểm nhất
là tướng mũi khoằm tựa mỏ diều hâu, có điều là cái mũi ấy thường làm cho người
khác hay tin nghe bởi v́ nó c̣n là tướng biểu lộ tài “khéo chiều ḷng”.
Đă tham gia: 17 May 2010 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 934
Msg 5 of 12: Đă gửi: 15 June 2010 lúc 9:35pm | Đă lưu IP
Cuốn nầy h́nh như của Ông Vũ Tài Lục trước đây có bán ở Mỹ
. Nay trên mạng 2 , 3 nơi có nhu "xemtuong.net", bản sao
photcopy, 118 trang, chỉ xem không tải về được .
Cảm ơn Bạn TaHuu rất nhiều, Cự Cơ rất thích sách tướng học của Tác Giả Vũ Tài Lục, quyển này Cự Cơ cũng có những dưới dạng scan file ảnh lên xem rất khó, nay có bản Word của Bạn xem rất dễ chịu.
Thanks !
__________________ Người may mắn, thẳng thắn trong ḷng b́nh yên th́ thường ít nói !
Thế gian việc như ư th́ ích, việc bất như ư lại nhiều;
người đắc chí chẳng có bao nhiêu, mà người bâấ đắc chí th́ hàng hà sa
số. Ngàn xưa như thế, ngày nay cũng vậy. Bất luận là phương Đông
hay phương Tây. Tại sao?
Đó là câu hỏi gắn liền với đời sống nhân loại ngay từ khi loài
người nhận thấy sự thọ yểu của mỗi sinh mệnh. Nó lại càng gây thắc mắc
hơn khi con người sống tụ thành xă hội và nhận thấy lẽ cùng thông trong
đời sống.
Phải chăng cùng thông thọ yểu là sự an bài của đấng tối linh
trời, phật, thượng đế như các tính ngưỡng tôn giáo lập luận.
Hoặc ngược hẳn
theo triết lí nhân văn (humanisme), khoa học, phương pháp học
(Decartes), ư chí quyền lực (volonté de puisance) - Nietche và Mác Xít -
tất cả là do con người định.
Vũ trụ chung quanh ta không chống lại ta
mà cũng không ban ân huệ cho ta. Nó quay cuồng, đảo lộn, không hề có mưu
định ǵ cả. Trong quay cuồng đảo lộn, chính con người tự điều khiển, tự
cai quản, vượt mọi trở ngại để chiến thắng.
Alain gọi là
"Ulysse nageant" (Ulysse, một nhân vật tượng trưng cho sự chiến đấu của
con người trong sử ca của Homer, tác giả cổ xưa thời kỳ văn minh Hy Lạp.
Sức mạnh thiên nhiên biển cả sóng lớn đă không ngăn cản được Ulysse đến
chỗ ông định trốn).
Đọc bộ "Contédie humaine" của văn hào
Honoré de Balzac, ta thấy rất nhiều nhân vật tương tự: Vautrin, tên đầu
trộm đuôi cướp sau trở thành tổng giám đốc công an, Rátignac, tên điếm
đàng làm thủ tướNG Pháp trong khi nhưữg người như Louis Lambert,
Rabourdin tài giỏi, đức độ lại ngậm đắng nuốt cay, thất bại ê trề. Không
phải Balzac đă tưởng tượng mà ông đă kể lại toàn chuyện thực của Paris
thời ấy, thời cực thịnh của chủ nghĩa hănh tiến ăn may. Có biết bao
nhiêu Ulysse chiến đấu nhưng không chống lại bọn "ariviste" nghĩa là bọn
có thời vận, tốt số, may hơn khôn.
Đă tham gia: 21 May 2010
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 31
Msg 12 of 12: Đă gửi: 12 July 2010 lúc 10:11am | Đă lưu IP
Xem nốt ruồi sang hèn
Thiên Việt
Nốt ruồi là những chấm có màu sắc đen, nâu, xanh hay
đỏ hồng (nốt ruồi son), nổi trên toàn thân người, c̣n không nổi mà
bằng phẳng có những màu đen xám, xanh vàng, to gấp nhiều lần nốt
ruồi gọi là bớt.
Theo khoa học phân tích:
- Nốt ruồi màu nâu, đen là do những tế bào có sắc
tố tập trung lớp ngoài da tạo nên.
- Nốt ruồi xanh do những tế bào sắc tố dưới lớp
chân lông tạo thành.
- Nốt ruồi đỏ hồng do những vi huyết quản ph́nh lên
mà có, là những chấm nhỏ màu đỏ, thường xuất hiện nhiều ở vuùng
ngực, trên da mặt.
Chúng ta có thể tẩy dễ dàng những loại nốt ruồi
màu nâu, đen v́ ở ngoài da. C̣n màu xanh hay đỏ, nếu tẩy sẽ gây ra
những vết thẹo nhỏ. Nhiều người v́ mê tín mà đem tẩy những nốt
ruồi to xuất hiện trên khuôn mặt, nhưng không hiểu tính chất của từng
loại nốt ruồi đâm làm tổn thương đến chính bản thân.
Trong tướng pháp nói rằng: - Con người sinh ra những
nốt ruồi như núi sinh ra cây cỏ, đất nổi đồi g̣. Núi đẹp th́ cây
đẹp, đất xấu th́ g̣ đồi xấu xí. Nên người có tố chất đẹp th́ sẽ
sinh ra những nốt ruồi đẹp đẽ, duyên dáng, c̣n có tố chất xấu th́
nốt ruồi biểu hiện tính chất xấu của nó.
Cho nên những cái xấu cần phải ẩn nơi kín đáo, không
đê lộ và đôi khi trở thành nốt ruồi ẩn tướng, mọi người khó có thể
suy đoán ra tính t́nh, cốt cách. C̣n những nốt ruồi son mà ẩn thuộc
quư tướng. Nốt ruồi đen mà lộ quá nhiều là điềm hung, ẩn nơi kín
đáo là kiết. Mọc trên mặt nhiều là hại bất cập lợi; nốt ruồi đen
th́ phải thật đen tránh màu nâu hay xám tro, c̣n nốt ruồi son phải
đỏ như chu sa mới tốt.
Đen pha đỏ là nâu, chủ về người thích tranh căi,
biện luận; pha màu trắng thành màu xám tro, chủ về tai nạn, bệnh
tật; pha màu vàng ra xanh đục, chủ về đăng trí.
Sách "Thần tướng toàn biên" khi nói về nốt
ruồi: - Mọc ở đầu và mặt: mọc ngay giữa trán là chủ phú quư, gần
thiên đ́nh là cực quư. Trên trán có 7 nốt ruồi đen chủ đại phú, đại
quư. Mọc ngay Thiên trung th́ hại cha, ngay Ấn đường là hại mẹ, ở Tư
không th́ hại cả cha lẫn mẹ.
- Mọc hai bên vành tai chủ về trí tuệ, thông minh,
trong tai là chủ sống thọ, nếu bên tai trái chủ về tiền của.
- Mọc ở khoé mắt làm tướng lục lâm thảo khấu, trên
con mắt mọc nhiều là khốn khổ, dưới con mắt là có lộc bất ngờ,
trong lông mày chủ về công danh, phú quư.
- Mọc ở Sơn căn chủ về nghiệp binh đao "sinh nghề
tử nghiệp"; mọc bên mũi đau khổ đẫm lệ, trên sống mũi suốt đời
truân chuyên, tŕ trệ; ở chuẩn đầu mũi đề pḥng chết v́ súng đạn,
gươm đao.
- Mọc ở Nhơn trung dễ cưới vợ lấy chồng giàu sang,
bên mép miệng khó giữ được của cải, mất địa vị. Trên môi chủ về
lộc ăn, dưới môi là phá của. Trên lưỡi là hay loạn ngôn...
Trong tướng pháp cho rằng, nốt ruồi mọc trên thân thể
con người được chia làm ba phần: Một ở đầu và mặt, hai ở tay chân và
ba ở hai phần trên dưới hạ bộ.
Về phần đầu và mặt lại chia ra những vùng nhỏ phức
tạp, như cùng với tóc, nốt ruồi mọc trong tóc là ẩn, chủ về giàu
sang phú phú, trường thọ, càng lên đỉnh đầu càng quư tướng. Trên trán
có "thất tinh" chủ về đại phú, đại quư...
Đây là phần quan trọng, chủ yếu trong cách xem nốt ruồi,
c̣n tay chân không quan trọng, chỉ nên thêm phần trên dưới hạ bô, tức
từ rún (rốn) trở xuông bẹn là cần xem.
- Toàn thân mỗi người thường hiện ra những nốt ruồi
nhỏ, trong đó biểu hiện nốt ruồi son là tốt, c̣n đen tùy theo điểm
mọc mới biết cát hung. Nốt ruồi ẩn là tốt, lộ ra là b́nh thường.
Nốt ruồi càng to càng thể hiện tính cách trong cuộc sống; nốt ruồi
càng rơ ràng là sự khẳng định, c̣n mờ nhạt là không chắc chắn
trong dự đoán. Thông thường nốt ruồi chỉ mọc thêm chứ ít khi lặn,
nếu phá đi chưa phải đă giải được hạn.
37 loại nốt ruồi được giải thích sau đây chỉ đại
diện cho hàng trăm nốt ruồi mọc trên thân thể.
Những nốt ruồi mọc trên thân thể (h́nh 1) up không lên được, vào link dưới xem
H́nh 1 bao gồm những nốt ruồi chủ yếu, nếu nằm
lệch hay sai vị trí chừng 5 mm, hoặc đối nhau mà không có số chú
giải được xem có cùng một tên:
- Số 1: Nốt ruồi có tên Trung tinh đ́nh (trán bên
phải), có quyền thế, tài lộc trên đường công danh sự nghiệp, sống
lâu, gặp tai ương cũng vượt qua.
- Số 2: Tả trung đ́nh (trán bên trái), sống không sung
sướng, thường dang dở về t́nh yêu và trong hạnh phúc gia đ́nh gặp bế
tắc.
- Số 3: Hoạt sào (trên mí mắt bên trái), là nốt
ruồi báo cho biết tâm lư thường hay đa cảm, đa sầu. Nhưng đường t́nh
cảm thường bộc lộ ra mặt.
- Số 4: Trung Thiên (ngay giữa trán), người chịu sửa
chữa, phục thiện sau khi gây ra lỗi lầm.
- Số 5: Dơng La (trên mí mắt bên phải), thường bi lụy
trước những hoàn cảnh bi ai của người khác, và cũng thường tự tủi
thân một ḿnh.
- Số 6: Tâm Hảo (dưới mắt bên trái), chịu đau khổ
một ḿnh, không muốn tâm sự cho ai biết.
- Số 7: La Thiên (dưới mép miệng trái), người có
duyên ăn nói, nhưng lại kín đáo trong bộc lộ t́nh cảm.
- Số 8: Nguyệt Lăo (trên vai trái), rất long đong lận
đận về t́nh duyên, gia đạo. Nhưng sợi dây tơ hồng đă buộc đành chấp
nhận khổ đau.
- Số 9: Hoa Sơn (g̣ má trái), có số chết bất đắc
kỳ tử, tính t́nh bí hiểm không bộc lộ cho người khác biết.
- Số 10: Tuyệt Luân (bên mép trái), có đường sát phu
thê, tâm tính lại nhẹ dạ tin người.
- Số 11: Tả Phận (tay trái cận nách), thường trở
thành "trai cô gái quả" sớm, nên đường t́nh duyên gặp trắc
trở cho đến chết.
- Số 12: Trung Phận (gần cổ tay trái), có nhiều tham
vọng, thường "đứng núi này trông núi nọ", tính t́nh thích
đua đ̣i, và thích hưởng thụ.
- Số 13: Hạ Phận (trên mu bàn tay trái), có tính bạc
t́nh, bạc nghĩa, sống lăng mạn, nhưng làm ra của cải vật chất cũng
nhiều.
- Số 14: Trung Sơn (bên ngực sát vú trái), đẻ con
nhiều nhưng vẫn sầu đau về đường gia đạo.
- Số 15: Đỉnh Sơn (trên ngực trái), thay chồng đổi vợ
dễ như thay áo.
- Số 16: Hoa Tư (bên hông trái), con người chịu luồn
cúi nịnh hót để đạt mục đích (theo dạng Hàn Tín), nhưng trong t́nh
cảm lại ít bộc lộ cho đối tượng biết.
- Số 17: Hiền Mẫu (năm ở ṿng eo trái), tính t́nh
hiền lành, chung thủy trong đời sống vợ chồng.
- Số 18: Trung Vĩ (ngay rún) có tính bảo thủ, hay đố
kỵ người hơn ḿnh, cuộc sống gian nan cực khổ.
- Số 19: Hạ Hôn (trên bẹn trái), hay ghen tuông, lăng
mạn, có đời sống t́nh dục mạnh mẽ.
- Số 20: Hoan Du (dưới bẹn trái) người can đảm, thích
khẩu chiến, hay nói lư lẽ.
- Số 21: Đăng Dục (ngay bộ phận sinh dục), người này
thường vui say hưởng thụ thú xác thịt. Nốt ruồi son nằm trong da quy
đầu lại sinh con quư tử.
- Số 22: Thiều Manh (nơi đầu gối trái), hay gặp tai
nạn, có người bị thành tật.
- Số 23 và 25: Hạ Giới (trên cổ chân trái và chân
phải), thích đi xa, phiêu lưu mạo hiểm.
- Số 24: Lầu Xanh (trên mu bàn chân trái), tâm hồn
trác táng, buông thả, cuối đời thân thể bệ rạc.
- Số 26: Hoàn Dục (nơi đầu gối phải), thường không
may mắn trên đường công danh, sự nghiệp.
- Số 27: Vĩ Trung (dưới bẹn bên phải), thường hay đau
ốm, t́nh cảm trở nên khô khan.
- Số 28: Hoại phu thê (ngay ức), có số đưa vợ hay đưa
chồng vào đường lầm lỗi.
- Số 29: Ngữu Vĩ (bên hông phải), phụ nữ sinh đẻ gặp
khó khăn, đàn ông gặp hiếm muộn.
- Số 30: Trung Ḥa (bên ngực gần vú phải), người có
nốt ruồi này chật vật mới đủ sống, "bôn ba không qua thời nốt
ruồi này.
- Số 31: Xuất Thể (trên mu bàn tay phải), thường lo
sợ viễn vông, nên có lúc như người mất định hướng.
- Số 32: Hạ Phận (dưới khủyu tay phải), hay gắt
gỏng, tính t́nh bất nhất.
- Số 33: Trung Phận (trên khủyu tay phải), t́nh cảm
vợ chồng như tạm bợ sống nhờ vào nhau, cho nên gia đ́nh không có hạnh
phúc.
- Số 34: Hữu Phận (trên vai bên phải), người đa t́nh,
tính tính lả lơi cợt nhă với người khác phái.
- Số 35: Bạc Hào (bên mép miệng phải), luôn nghĩ đến
tiền và danh phận hơn t́nh cảm.
- Số 36: Thiên Căn (g̣ má phải), người hiền hậu nhưng
không may mắn trong cuộc sống.
- Số 37: Hậu Vĩ (dưới mắt bên phải), tâm sự đa đoan,
thường phải khóc thầm.
Như đă nói 37 nốt ruồi trên đây chưa đại diện đủ
tính chất của mọi dự báo, về các điềm bí ẩn trên thân thể, như chỉ
trên khuôn mặt đă có ít nhất trên 40 nốt ruồi khác nhau xuất hiện.
H́nh 2 cho thấy khuôn mặt một người đàn ông thường
hiện ra khoảng 41 nốt ruồi tại những nơi:
1-
Hại cha mẹ,
2-
Thích làm quan,
3-
Làm quan to,
4-
Chết v́ tai nạn,
5-
Không hợp nghề vơ,
6-
Số mất của,
7-
Cuộc sống đầy phiền năo,
8-
Đi sông biển hăy coi chừng,
9-
Mọi sự hanh thông,
10-
Chuyện làm ăn hay gặp thất bại.
11-
Quư tướng,
12-
Giàu có,
13-
Có địa vị̣,
14-
Không nên đi sông biển,
15-
Không tốt,
16-
Tán tài,
17-
Sát thê,
18-
Ít con,
19-
Hay tủi thân,
20-
Mất cha.
21-
Khổ v́ vợ,
22-
Mê cờ bạc nên tự hại ḿnh,
23-
Điềm con cái mất trước cha,
24-
Tuyệt tự,
25-
Ít con cái,
26-
Xảo quyệt,
27-
Thường gặp tai nạn,
28-
Khi chết xa quê hương,
29-
Không nên nuôi thú vật,
30-
Ách giữa đàng mang vào cổ.
31-
Gặp tai nạn từ sông nước,
32-
Có của hoạnh tài,
33-
Thông minh, lanh lẹ,
34-
Thường rượu chè say sưa,
35-
Gặp chuyện tốt đẹp,
36-
Người hiền lành,
37-
Số làm quan to (nếu ẩn dưới cằm),
38-
39 - 40 và 41
đều tốt mọi sự (nếu nốt ruồi son, hay ẩn được hưởng phúc đức ba
đời).
H́nh 3 là khuôn mặt một phụ nữ, có 42 nốt ruồi
được diễn giải như sau:
1-
Số làm mệnh phụ,
2-
Thường chán chồng nhưng không đi t́m của lạ,
3-
Hại cha mẹ,
4-
Không người phục dịch,
5-
Có từ hai đời chồng, sanh con ít,
6-
Hại người thân,
7-
15, 19, 27, 37- Hại chồng,
8-
Chết xa nhà,
9-
Bị chồng phụ t́nh bỏ rơi,
10-
Sanh khó.
11-
Có tài lộc,
12-
Chồng thường xa nhà,
13-
17- Vượng phu ích tử,
14-
Số có "thiên la địa vơng" giăng coi
chừng tù tội,
Bạn không thể gửi bài mới Bạn không thể trả lời cho các chủ đề Bạn không thể xóa bài viết Bạn không thể sửa chữa bài viết Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ