Tác giả |
|
ngoctrongdda Hội viên
Đă tham gia: 26 November 2006
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 142
|
Msg 101 of 585: Đă gửi: 06 December 2006 lúc 5:57pm | Đă lưu IP
|
|
|
Vậy nếu sấm Trạng đúng ,Sao Ngưu chủ tinh của vi đại nhân xuất hiện trên Bảo giang ǵ đó, th́ các bác nhớ là có Ngọc trong đá đă từng giải mă Trâu phá điền là Thiên tử nhé. &n bsp; &n bsp; Cám ơn bác Thiênnhân đă chịu khó viết bài ,xin cho hỏi sách này cũ hay mới ,đang bán ở đâu...... để em giữ 1 quyển làm vốn ,kẻo các cao nhân ở ngoài chỉ chờ cơ hội là tấn công luận thuyết Phá điền là Trâu của em ngay.
Nói chưa có đọc sách nào th́ cũng không đúng. Khoảng hơn nủa năm trước mới biết 2 cái website này ,thấy các bác ở đây quảng cáo sách sấm Trạng Tŕnh của ông Phạm Đan Quế , tôi mới ra hiệu sách t́m mua th́ ông chủ sách nói là hết rồi chỉ c̣n cuốn sấm Trạng tŕnh của nhà tiên tri đương thời tại hải ngoại , họ ḱ củng ǵ đó không nhớ ,bèn mua về.Tôi là cái loại nhanh nhẩu đoảng ,bỏ ngay phần rườm rà vô ngay phần luận giải. Thế là từ ấy trong tôi bừng nắng hạ, 2 chữ Phá điền ở trong tim . Phá điền là phá đồng ,đồng tức là đồng chí đồng bào ,bọn cộng sản hay gọi nhau là đồng chí đồng bào ,tức là phá cộng sản Ngài ra đời.....phương pháp c̣n hấp dẫn hơn gán ghép chữ nhé.Đọc đến đây chả hiểu sao sách nó bay vô góc nhà ( nơi mà vợ tôi hay để thùng rác).Sáng hôm sau dẫn vợ con đi ăn quà sáng ,đĩa trứng ốpla& bánh ḿ vừa được bưng lên bàn ,coffee nhấp được 1 ngụm ,thằng bé vô t́nh hất tay rớt mất đĩa trứng...thế là vợ tôi làu nhàu con chỉ phá hoại đĩa trứng người ta mất bao nhiêu công làm ra lại đánh đổ ,chắc hôm qua mày rục cuốn sách của ba mày vào thùng rác chứ ǵ ,sách người ta mất bao nhiêu công lao tham khảo học giả này ,học giả nọ & tiền của về Vn thăm quan chụp h́nh đền Trạng ,đúng là không biết quư trọng đồng tiền.Thằng bé nhỏ biết ǵ đâu ,khổ chưa các bác chỉ v́ chục đồng bạc quà sáng mà vợ mỉa mai tôi là dùng tiền không đúng chỗ !
Bạn nào muốn ủng hộ hay quyên góp từ thiện ai th́ cứ việc , nhào vô đây cùng bác Thiên nhân,tôi & các cao thủ khác b́nh giải xem đúng thời này đoạn kết của sấm Trạng không nhé
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 102 of 585: Đă gửi: 06 December 2006 lúc 8:38pm | Đă lưu IP
|
|
|
Bạn Ngoctrongda đoán trâu phá điền cũng có lư đấy !, tôi trích trước một đoạn nói về Trâu phá điền cho Ngoctrongda xem, nhưng ư hơi khác 1 tí
Code:
Đă bao bút mực đổ ra giải nghĩa chữ mật Phá Điền, nhiều người cho là chữ điền với nét phá là chữ Thân, thiên tử xuất vào năm Thân ! Lối đoán không cơ sở này sai hoàn toàn và làm Sấm Trạng Tŕnh mỗi ngày một mù mờ thêm. Dựa vào ư chính chủ đề của Sấm Trạng là thánh nhân xuất ở phương Tây, núi Tản, có thể diễn dịch chữ điền phá ra bốn bờ ruộng th́ lộ ra chữ thập, nhân thập là tên Thánh Tản(xin xem phần giải ở trên). |
|
|
Tôi sẽ cố gắng đưa lên nhanh cho các bạn xem, nhưng phải dàn trang để không nhẩy quá nhiều ḍng làm khó đọc, qua đoạn phong thủy sẽ tới phần giải của các cao nhân sẽ làm các bạn vỡ lẽ ra nhiều giữa Sấm thật và Sấm giả.
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 103 of 585: Đă gửi: 06 December 2006 lúc 8:44pm | Đă lưu IP
|
|
|
Code:
CÁC THIỀN SƯ TIÊN PHONG
Thật ra Cao Biền không phải là nhà phong thủy đầu tiên trên đất Việt. Trước Cao Biền hơn một trăm năm các thiền sư thuộc Thiền Phái Mật tông Tỳ Ni Đa Lưu Chi đă am tường phong thủy, sấm vĩ, chiêm tinh, và biết trước cả việc Cao Biền sang trấn yểm long mạch nước Nam ta.
Thiền sư Định Không (730-808) từ năm 785 đă nh́n thấy "đất tŕnh pháp khí ...họ Lư hưng vương" tại làng Dịch Bảng quê ông. Nhân lấy điềm rửa mười chiếc khánh, một chiếc ch́m, mà đặt tên địa linh ấy là Cổ Pháp. Sư c̣n dặn ḍ đệ tử là Đinh Hương, Thông Thiện, phải canh giữ đất kết phát này v́ sợ có dị nhân đến yểm phá về sau. Thông Thiện ghi lời thầy trên tháp chùa Lục Tổ và truyền lại cho đệ tử là La Quư An (852-936). La Quư An đủ tài năng để chống lại thuật yểm phá của Cao Biền vào năm 865. Khi Cao Biền đào đất Cổ Pháp 19 điểm trấn áp cho đứt long mạch đế vương th́ sư La Quư An cho lấp lại cả 19 điểm để bảo vệ khí mạch. Sư biết đất Cổ Pháp huyệt kết chân mạng đế vương nên đă quyên góp đúc một pho tượng Lục Tổ bằng vàng chôn sát tam quan, rồi dặn ḍ đệ tử phải cất dấu cho tới thời thánh quân minh ra đời th́ mới được đào lên ủng hộ chân chúa. Sư c̣n dặn sau này nên xây tháp (để tụ khí mạch) và cho trồng một cây gạo ở chùa Minh Châu để trấn giữ mạch.
Năm 936 trồng cây gạo sư để lại bài sấm trước khi tịch :
Đại sơn long đầu khởi
Xà vĩ ẩn minh châu
Thập bát tử định thành
Miên thọ hiện long h́nh
Thỏ kê thử nguyệt nội
Định kiến nhật xuất thanh.
Nghĩa :
Đại sơn đầu rồng dậy
Đuôi rắn ẩn minh châu
Họ Lư tất định thành
H́nh rồng hiện gốc gạo
Tháng chuột ngày gà giờ thỏ
Thấy mặt trời lên giữa mây xanh.
(Thập bát tử ghép lại thành chữ Lư; Miên thọ chỉ loại cây bông gạo, bông g̣n). Bài sấm này vừa nói về phong thủy đại sơn long đầu - vừa là loại sấm đoán ngày tháng họ Lư hưng nghiệp, vừa t́m điềm lành nơi thiên nhiên - miên thọ long h́nh - để tiên tri sự việc xẩy ra 70 - 80 năm sau (nhà Lư khởi nghiệp năm 1010).
Xem sự kiện các nhà sư Mật tông rất am tường phong thủy, sấm vĩ, chiêm tinh, lư số... có thể đưa ra giả thuyết là các khoa này không phải từ bên Tầu sang mà do các nhà sư từ Ấn Độ đem tới nhân việc tùy thời khế cơ mà hoằng pháp. Ngay cả bên Tầu có thể ngoài kinh Dịch, các khoa lư số khác cũng có thể chịu ảnh hưởng nặng nề từ Thiên Trúc, nhưng v́ tinh thần quốc gia hẹp ḥi đă cố che lấp đi.
Thật vậy từ 2000 năm trước Tây lịch, nền văn minh Vệ Đà đă có khoa chiêm tinh rất cao cộng thêm các khoa lư số khác kể cả bói bài, xem chỉ tay, phong thủy, thôi miên (xưa kia gọi là bí mật thuật, người Tầu công nhận do các nhà sư Ấn đưa sang - theo Nguyễn Đổng Chi tr.121), ngay cả vơ thuật như Thiếu Lâm có thể do Bồ Đề Đạt Ma (đến Quảng Châu năm 520 khi ngài 80 tuổi) trong 9 năm ngồi quay mặt vào tường tại chùa Thiếu Lâm mà truyền tâm pháp. Các phép thuật như đi trên mặt nước, phi thân, độn thổ, làm hổ phải nép, làm tắc kè phải rơi của các nhà sư có thể đă bắt đầu từ pháp tu Yoga của đạo học Hy Mă Lạp Sơn mà người ta c̣n thấy đậm nét qua các Lạt Ma Tây Tạng và các đạo sĩ "ḿnh trần ngồi tu trên tuyết" hoặc các vơ sư Mông Cổ "ḿnh đồng da sắt, dao chém không đứt", pugilistes, mà Marco Polo đă thuật lại từ thế kỷ XIII.
Bài kệ tiên tri của Bồ Đề Đạt Ma trước khi tịch c̣n phảng phất trong ngôn từ sấm kư của các nhà sư Mật Tông sau này
Nhất hoa khai ngũ diệp
Kết quả tự nhiên thành
hoặc :
Ngũ khẩu tương cộng hành
Cửu thập vô bỉ ngă
(Ngũ khẩu ghép lại thành chữ Ngô là Ta, Cửu Thập là ngày 9 tháng 10 vô bỉ ngă là chẳng c̣n ta ! đúng ngày ấy Sư tịch diệt). |
|
|
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 104 of 585: Đă gửi: 06 December 2006 lúc 8:54pm | Đă lưu IP
|
|
|
Code:
Số Tử Vi tương truyền do Trần Đoàn nhà Tống soạn ra (thế kỷ X), nhưng theo La Luân th́ do một nhà sư núi Hoa Sơn tên là Vạn sáng tác (Phan Kế Bính tr.282), Lê Quí Đôn th́ cho là nhà Nho đặt ra rồi thác danh là Trần Đoàn. Nguồn gốc số Tử Vi lờ mờ như vậy là v́ có sự che đậy gốc tích Ấn Độ từ các nhà sư sang truyền đạo pháp từ thế kỷ II - III.
Đem so sánh một lá số Tử Vi của "ta" với một lá số Vệ Đà miền Nam (South Indian Chart) ta thấy y hệt nhau trong cách tŕnh bầy: 12 cung xếp theo h́nh chữ nhật (lá số Vệ Đà miền Bắc - North Indian Chart - xếp đặt hơi khác, hai h́nh vuông lồng nhau cũng thành 12 cung chéo).
Nguyên khoa đẩu số chiêm tinh Vệ Đà (khoảng 500 trước Tây lịch tới 300 năm sau Tây lịch) gọi là Vedic Jyotish (chữ Sanskrit có nghĩa gốc là ánh sáng, thiên văn, toán số ) dựa trên Âm lịch c̣n truyền tới ngày nay, cùng với khoa chiêm tinh Thổ nhĩ kỳ, Ba Tư... có nhiều liên quan. Trong truyền thống Yoga, các luân xa (chakras) từ cuối xương sống tới đỉnh đầu đều tương ứng với các tinh tú như :
Luân xa I tương ứng với sao Saturn
Luân xa II tương ứng với Jupiter
Luân xa III tương ứng với Mars
Luân xa IV tương ứng với Venus
Luân xa V tương ứng với Mercury
Luân xa VI tương ứng với Thái Âm
Luân xa VII tương ứng với Thái Dương
Từ khởi điểm đó khoa chiêm tinh Chakric lập lá số theo h́nh tṛn giống như lá số của chiêm tinh Tây phương hiện tại. Điều đáng ghi nhận là truyền thống Ấn Tuyết Sơn rất cao về toán học (ngay tiểu sử Thích Ca Mâu Ni cũng ghi ngài rất giỏi về Toán học khi mới mười mấy tuổi) trong phép làm lịch, thiên văn. Lịch Ấn tuy dựa trên Nguyệt kỳ gồm 27 ngày 43 phút, 27 ngày lại tương ứng với 27 Nguyệt hạn (Nakshatras), nhưng khi tính Năm th́ lại dựa trên ngày Thái Dương phục phát Mùa Đông (winter solstice), v́ thế lịch pháp Ấn vừa Âm vừa Dương (soli-lunar). Khoa Chiêm tinh Vệ Đà khác Chiêm tinh Tây phương ở chỗ chỉ dùng 9 Chính tinh: Nhật, Nguyệt, Mercury, Venus, Mars, Jupiter, Saturn, Rahu (Thiếu Âm Bắc), Ketu (Thiếu Âm Nam) mà không dùng tới 3 sao Uranus, Neptune và Pluto.
Các nhà sư đi hoằng pháp thường phải mượn các khoa "huyền bí thần thông" để qui phục người địa phương, dùng tới công phu vơ thuật cao cường (có thuyết cho rằng đời Lư tướng sĩ Đại Việt có vơ thuật cao nhờ luyện tập vơ công từ Thiền môn nên đă có thể sang đánh Tầu dễ dàng), cũng có khi phải uyển chuyển như phối hợp kinh Dịch với vũ trụ quan Phật giáo (Buddhist I Ching) để dung thông , không câu chấp Thánh, Tiên hay Bụt...miễn là giác ngộ và giác tha, tên tuổi nhiều khi cũng không để lại mà c̣n cố ư xóa mờ, cho nên đời sau rất khó truy tầm dấu tích. Các đền đài trụ tháp vĩ đại như Angkor, như Borobodur bên Nam Dương (thế kỷ VIII) kiến tạo h́nh vũ trụ ba chiều, xác định khoa chiêm tinh, phong thủy... đă có trong văn minh Phật giáo từ lâu.
Bán đảo Ấn-Trung (Indo - China) nằm giữa hai nền văn minh rất cổ và rất lớn là Ấn Độ và Trung Hoa, thật ra đều phát từ nguồn Hy Mă Lạp Sơn. Ba con sông Hoàng Hà, Dương Tử, Cửu Long , các rặng núi cao Côn Lôn, Tần Lĩnh... đều từ cao nguyên Tây Tạng đổ xuống... cho tới các rặng Hoăng Liên Sơn, Trường Sơn...cũng bắt " long mạch " tự đấy. Cho nên việc tiếp nhận ảnh hưởng từ hai nền văn minh đó là một diễn tŕnh thâu hóa sáng tạo tự nhiên của xă hội trong môi trường gần gụi liên bang láng giềng. Từ thế kỷ I, II, trung tâm tôn giáo Lạc Dương, Bành Thành đời Hán đă được thiết lập thờ cả Lăo lẫn Phật, trung tâm Luy Lâu tại Thuận Thành, Giao Chỉ đă có tăng đoàn , các nhà sư Thiên Trúc lui tới các trung tâm đó hẳn mang theo không những kinh điển mà c̣n mang theo các môn khác như thiên văn, lịch pháp và lư số, vốn là những bộ môn không thể tách rời. Có tài liệu cho thấy thời đó, các đất Hồ, Việt không theo lịch Tầu mà theo lịch Ấn (xem Nguyễn Lang tr.41). Như vậy khó có thể tin rằng măi tới thế kỷ X Trần Đoàn mới đặt ra khoa Tử Vi (Lê Quí Đôn trong VĐLN cũng luận rằng Hi Di Trần Đoàn không viết sách Tử Vi Đẩu Số, sách này xuất hiện vào đời Minh), là v́ đời Tống, Lương, Tùy, Đường, các khoa lư số, phong thủy, chiêm tinh... đă phát triển sâu rộng, nên thế kỷ VIII - IX mới có được những tay nghề như sư Định Không, La Quư An, và Cao Biền. Sau này, thế kỷ XV với Trạng Tŕnh, thế kỷ XIV với Hoàng Phúc của nhà Minh... đều có liên hệ rất nhiều với nhà chùa.
Từ Sư Định Không tới Sư Vạn Hạnh là một thời gian dài non 300 năm (730-1018) và sau Sư Vạn Hạnh (xem phần Vạn Hạnh) phải đợi 500 năm nữa mới lại có một thiên tài lư số là Trạng Tŕnh phát sinh trên đất Việt (xem phần Trạng Tŕnh). |
|
|
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 105 of 585: Đă gửi: 07 December 2006 lúc 1:32am | Đă lưu IP
|
|
|
Code:
Trước Trạng Tŕnh 100 năm, trong 20 năm thuộc nhà Minh, một phong thủy sư nổi danh của Tầu là Hoàng Phúc đă đến quan sát địa lư nước ta vào khoảng 1407-1427. Hoàng Phúc xuất thân Tiến sĩ, mang chức Thượng Thư, giữ việc Bố chính và Án Sát trong chiến dịch cai trị đồng hóa Việt Nam. Hoàng Phúc bắt khắp nơi lập đền miếu thờ bách thần, thổ thần, sơn thần, thần sông, thần gió... bên cạnh văn miếu. Lập Tăng cương ty và Đạo kỳ ty để truyền bá đạo Phật và Lăo cùng với đạo Nho...Ngay tại Đông Quan (Thăng Long), Hoàng Phúc cũng lập nhà học để chiêu dụ nhân tài, nơi đây Nguyễn Trăi đă gặp Hoàng Phúc sau khi đi tiễn cha là Nguyễn Phi Khanh bị bắt về Tầu cùng với cha con Hồ Quí Ly.
Sử liệu cho thấy Hoàng Phúc đă can thiệp để Nguyễn Trăi không bị quân Minh hạch tội, và trong thời gian từ 1407 - 1416 đă bị quân Minh giam lỏng ở Đông Quan. Sau này khi cùng Lê Lợi kháng chiến thành công, Nguyễn Trăi bắt được Hoàng Phúc và đă đối xử tử tế với Hoàng Phúc, một kẻ thù trí thức đă biệt đăi ḿnh khi trước. Truyện kể lại rằng Nguyễn Trăi biết Hoàng Phúc có biệt tài về phong thủy nên đă mời Hoàng Phúc tới xem đất Nhị Khê là quê quán của ḍng họ Nguyễn. Hoàng Phúc nh́n ra vườn sau nhà ở Nhị Khê rồi từ tốn nói: "Số tôi có phúc dầy nên có hạn cũng chỉ bị hạn ít ngày, chứ g̣ đất sau nhà ông, đâm vào trong nhà thế kia, th́ ông sẽ bị mang họa mấy đời !" Quả đúng như lời Hoàng Phúc, ít lâu sau các quan quân nhà Minh đều được thả về Tầu để giữ giao hảo hai nước, c̣n Nguyễn Trăi th́ 15 năm sau (1442) bị chu di tam tộc v́ vụ Thị Lộ. Khi nghe Hoàng Phúc nói về g̣ đất đâm vào nhà, Nguyễn Trăi không dám tin hẳn và không cho phạt đi như lời Hoàng Phúc khuyên v́ nghi bị họ Hoàng thâm gạt.
Nguyên Hoàng Phúc khi sang đất Việt đă mang theo cuốn Địa Lư của Cao Biền đời Đường để làm bản đồ nghiên cứu địa h́nh địa vật nước ta. Thời xưa, sách Địa Lư đúng là một tài liệu quân sự, ghi rơ h́nh thể sông, núi, đồi, g̣, cao điểm, hạ lưu, mạch núi, thời tiết...nên Hoàng Phúc đă tới những tới những linh địa mà Cao Biền đă ghi nhận. Một trong những linh địa ấy là Tam Đảo gần đền Hùng. Núi Tam Đảo gồm ba ngọn cao thẳng đột khởi gần như đối xứng với ba ngọn Ba V́ (Tản Viên) bên kia sông Hồng, hợp với Thăng Long, thành ba đỉnh tam giác đều. Tam Đảo tay long, cao hơn Ba V́ 300 mét (1591m) với ngọn cao nhất là Phù Nghĩa, ngọn giữa cao vót gọi là Kim Thiên hay Thạch Bàn có bia Cao Biền dựng, ngọn bên tả là Thiên Thị. Trên đỉnh núi có ngôi chùa Đồng đúc toàn bằng đồng rất cổ, sườn núi có chùa đá khắc chữ Địa Ngục Tự, suối nước vàng chói từ khe cửa chảy ra nhập vào suối Giải Oan. Trên tầng núi khá cao, khoảng 3 dặm, có một khoảng đất bằng phẳng, với ba nền đất dài, tám phiến đá vuông và một tấm bia lớn khắc vỏn vẹn bốn chữ lớn "La Thành Bất Loạn" bên cạnh có ḍng chữ nhỏ "Minh Thượng Thư Hoàng Phúc cẩn đề".
Cả Cao Biền lẫn Hoàng Phúc, hai danh thủ Phong thủy Trung Hoa, cách nhau hơn 500 năm đều dựng bia ở Tam Đảo, vậy có thể suy diễn là về phương diện địa lư hẳn nơi đây kết long mạch đặc biệt. Điều này tác giả Vũ Trung Tùy Bút, Phạm Đ́nh Hổ, từ thế kỷ XVIII đă luận giải như sau:
"...Mạch núi Côn Lôn chạy vào ( Trung Hoa ) chia làm ba cán Long : một đằng theo sông Hoàng Hà chạy về phía Bắc, ... một đằng theo núi Mân Sơn chạy về phía Đông,...một đằng theo sông Hắc Thủy chạy về phía Nam...phía Đông sông Hắc Thủy là những tỉnh Vân Nam, Quí Châu, Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây và Lăo Qua kéo dài tới tận núi Tiểu Côn Lôn lại biệt làm một chi thiếu tô. Chi này chạy sang nước ta lại chia làm ba :
- Chi bên hữu chạy qua sông Đà Giang là những tỉnh Hưng Hóa, Sơn tây, Sơn Nam, rồi chạy vào Nghệ An, Thanh Hóa, cho đến Thuận, Quảng th́ tản ra các cù lao gần biển...
- Chi bên tả th́ qua Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Yên rồi qua đến biển là Hồng Đàm, đảo Đại Nhân...
- Chi giữa th́ tự núi Tam Đảo trở xuống, mênh mông liên tiếp thành ra những tỉnh Thái Nguyên, Kinh Bắc, Trung Đô, Hải Dương, Sơn Nam ...(tr. 46 - 47).
Tác giả kết luận "địa thế nước ta, toàn thể cũng giống Trung Hoa, chỉ có nhỏ hơn mà thôi".
Nh́n tổng quát như vậy ba ngọn Tam Đảo là chi giữa, làm tổ sơn cho toàn châu thổ Hồng Hà, là mạch xuất phát đổ khí lực vào Thăng Long, trong khi núi Ba V́ thuộc chi hữu mà Nguyễn Trăi, tác giả Dư Địa Chí và mọi nhà lư số, đều gọi là tổ sơn của cả nước. Tại sao lại có hai quan điểm không đồng nhất về tổ sơn ? Theo suy luận, núi Ba V́ h́nh tṛn như cái lọng, sườn núi thoai thoải, đó là h́nh núi thuộc Kim, núi Tam Đảo thẳng đứng cao ngất, đỉnh phẳng lẫn đất đá, cây cối um tùm.. xây được chùa Đồng, như vậy có thể là h́nh dạng Mộc. Cao Biền biết Sơn thần núi Tản rất thiêng nên không dám xâm phạm, c̣n ở Tam Đảo không thấy nói tới sơn thần (mặc dù có vườn Tiên rất linh thiêng cầu đảo rất ứng, tương truyền thờ Quốc Mẫu là một Âm Thần, Trần Nguyên Hăn có lần ngủ đêm nghe Thần hiển linh nói về Lê Lợi và Nguyễn Trăi kháng Minh), hoặc có thể Cao Biền đă dùng pháp thuật chế khắc được nên mới dám dựng bia xây thành ?
Vả lại, thế kỷ IX, khi chống quân Nam Chiếu ở Vân Nam đổ xuống, th́ Tam Đảo là một cao điểm chiến lược ở tuyến đầu che cả miền châu thổ sông Hồng. khi Hoàng Phúc sang đất Việt, ông phải nhận là "La Thành Bất Loạn" để tán dương cái thế đất quân b́nh Âm Dương, Long Hổ của Đại La. Thời Minh các núi Tam Đảo, Tiên Du... tổng cộng 21 quả núi danh tiếng của An Nam, được nhà Minh tế tại giao đàn cùng với sông núi Trung Hoa (đời Hồng Vũ nhà Minh, Đại Nam Nhất Thống Chí). Nhưng khi nh́n tới bối cảnh của Tản Viên th́ thấy tổ sơn này tụ long mạch của cả một rặng núi dài và cao là rặng Hoàng Liên Sơn song hành với sông Đà khí lực mạnh mẽ, lại nằm ở vị thế kín đáo, nên có phần trường viễn hùng hậu hơn Tam Đảo.
Sau Hoàng Phúc và Trạng Tŕnh, mấy trăm năm sau mới lại xuất hiện các nhà Địa Lư danh tiếng như Tam nguyên Lê Quí Đôn (1726 - 1784), Tiến sĩ Ḥa Chính, Tả Ao Nguyễn Đức Huyên... cả ba đều ở vào đời Lê Trịnh. Lê Quí Đôn là một nhà bác học nên không bỏ qua bất cứ môn nào mà không bàn luận ghi chép, kể cả môn chiêm tinh, lịch pháp, phong thủy... tập Vân Đài Loại Ngữ cho ta các tài liệu của Tầu bàn về phong thủy nước Nam (phần Khu Vũ Loại), sách Phủ Biên Tạp Lục soạn năm 1776 khi ông làm Hiệp Đồng Kinh Lư Quân Sự hai đạo Thuận Hóa, Quảng Nam, biên chép địa dư, phong tục miền đất đàng trong. Chính trong thời kỳ này ông đă nh́n thấy cuộc đất phát Tây Sơn và đă dâng sớ mật tấu lên Chúa Trịnh phải đề pḥng ngôi sao đang lên Nguyễn Huệ.
Ông cũng là tác giả một tập phú đoán Tử Vi được truyền tụng rộng răi nhưng không thấy ghi trong Văn Học Sử.
Những câu nôm na như :
Trai bất nhân Phá Quân Th́n Tuất
Gái bạc t́nh Tham Sát nhàn cung
là của Lê Quí Đôn làm ra. Cứ xem luận bàn của ông th́ thấy các khoa lư số chiêm tinh đ̣i hỏi một đầu óc thông minh toán học mới thông hiểu nổi, v́ thế khi lối học từ chương khoa cử choán hết đầu óc kẻ sĩ, th́ các khoa này bị bỏ rơi thành các môn bói toán độ nhật cho hàng thứ dân mù ḷa hoặc các nhà Nho lỡ vận. Xưa kia, các môn phong thủy, chiêm tinh, lư số... là môn cao học của hàng "quân sư" chiến lược gia khai quốc như Khương Tử Nha, Quản Trọng, Tôn Tẫn, Trương Nghi, Trương Lương, Gia Cát Lượng...
Tới đời Minh (1368 - 1644) Chu Nguyên Chương lập nên đế nghiệp nhờ đạo sĩ quân sư họ Lưu (Liu Po Hun), vị đạo sĩ quân sư này dựa trên chiêm tinh để bầy binh bố trận đánh Mông Cổ. Sau khi thành công, Minh Thái Tổ cho giết ngay các công thần, tuy đạo sĩ họ Lưu trốn thoát, nhưng các đạo sĩ khác đều bị tiêu diệt và suốt 50 năm Đạo học phương thuật bị khai trừ khiến từ đây các khoa “huyền bí học” phải tản mát vào dân gian để tồn tại. Môn phong thủy địa lư rơi từ "quân sư chi học" xuống nghề tầm long để đất nhỏ nhặt, cuối đời Minh các sách về khoa phong thủy thiên về h́nh thể đất đai, bàn nhiều về âm phần - để mộ, dương cơ - cất nhà, mà không bàn luận về đại thế sách lược non sông nữa.
Từ đời Thanh trở đi (1644 - 1911), thấy rơ ảnh hưởng của Phật giáo Lạt Ma trong khoa phong thủy như "tiên tích đức, hậu tầm long", lấy sao bản mệnh phối với nghiệp và phúc đức của đương sự để chọn đất và chú trọng tới giờ giấc sinh khắc mà khởi công đắp nền hoặc hạ huyệt. Cũng như Đông Y, lương sư th́ ít mà lang băm th́ nhiều, nên các khoa cổ học mỗi ngày một tàn lụi đi, đến nỗi quần chúng phải mỉa mai :
Ḥn đất mà biết nói năng
Th́ thầy địa lư hàm răng không c̣n !
Có lẽ v́ sự đứt đoạn giữa Cổ học (thời Kim Tự Tháp, thời Maya, thời Vệ Đà, thời Phục Hi...) với Đạo học (hơn 2000 năm nay), nên căn bản tinh lư của cổ học bị phai mờ và thất truyền. Cho tới hiện tại người ta vẫn chưa giải thích được những bí mật kỳ diệu của khoa kiến trúc Kim Tự Tháp vậy mà những môn "huyền bí học" khác lại bị phỉ báng ngay là mê tín dị đoan lạc hậu, th́ quả là thiếu thẩm định khách quan, cũng không khác chi gặp lang băm rồi kết luận tất cả Đông Y Dược là vô giá trị !
Nhưng hậu quả của sự thất truyền là từ sau Trạng Tŕnh chỉ c̣n thấy hai người là Ḥa Chính và Tả Ao, cả hai nhà phong thủy này tuy có danh tiếng nhưng chuyên về dương cơ âm phần, để mồ để mả, mà không c̣n tầm học cao rộng của môn "quân sư chi học" nữa. Tiến sĩ Ḥa Chính và Tả Ao đều sang Tầu học được nghề địa lư. Ḥa Chính dường như có viết sách lưu truyền nhưng không thấy để lại nhiều giai thoại như Tả Ao.
Nhà địa lư Nguyễn Đức Huyên người làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh bây giờ. Tương truyền khi học xong nghề thầy, ân sư người Tầu thử tài môn đệ trước khi "tốt nghiệp" ông thầy chôn 100 đồng tiền xuống mô h́nh băi cát rồi bắt Tả Ao cắm kim vào đúng lỗ mỗi đồng. Tả Ao châm đúng giữa 99 đồng, chỉ có hơi lệch một đồng. Thầy Tầu than: "Thôi nghề của ta từ nay truyền sang nước Nam rồi !"
Một trong những giai thoại nổi tiếng nhất của Tả Ao là chữa thế đất cho làng Hành Thiện ở Nam Định: thầy đi tới làng Hành Thiện thấy đất làng h́nh con cá chép bơi ra biển, phù sa mỗi ngày một bồi thêm đất làm làng hưng phát, chỉ hiềm con cá chép không có mắt nên không phát khoa danh. Dân làng nghe thầy nói bèn hậu đăi trà rượu và khẩn khoản xin thầy đặt lại hướng làng. Thầy Tả Ao thấy dân làng tử tế liền chỉ cho làng đào một cái giếng lớn làm mắt cho con cá chép, từ đấy dân làng bắt đầu phát khoa danh, nhất là họ Đặng. Thầy Tả Ao đi xem đất suốt từ Nghệ Tĩnh ra các làng mạc ở khắp miền Bắc và trong gia phả của nhiều gia đ́nh c̣n ghi lại những công tŕnh địa lư phong thủy của thầy. Nhiều chuyện khôi hài do quần chúng thêm thắt như chuyện thầy Tả Ao thấy dân làng kia rất xấu tính mà lại xin thầy để kiểu đất nào có thể "đè đầu thiên hạ", thầy liền t́m cho làng một kiểu đất khiến dân làng dần dần theo nghề "húi tóc" có thể "đè đầu vít cổ thiên hạ" đúng như ư nguyện !
Tương truyền thầy đang đi chơi ngoài băi biển thấy sóng gió nổi lên ầm ầm biết là hàm rồng năm trăm năm mới há mồm một lần ở biển Đông, liền chạy về nhà mang cốt mẹ ra định ném xuống hàm rồng, nhưng v́ thương tiếc chần chờ nên hàm rồng đóng lại, biển khép êm sóng lặng như trước ! Lúc sắp chết, thầy dặn con cháu khiêng ḿnh ra miếng đất đă định trước là đất địa tiên "nhất khuyển trục quần dương" (một con chó đuổi đàn dê), nhưng không kịp đành dừng lại nửa đường phân kim lựa cho chính ḿnh một miếng đất phúc thần đời đời ăn hương hoa mà thôi.
Xem cách t́m đất của thầy Tả Ao và tập sách Địa Lư Tả Ao để lại, th́ thấy đó là khoa phong thủy thời Minh, Thanh, giới hạn vào việc tầm long phân kim t́m huyệt trường, thiên về H́nh gia học (đất h́nh con voi, con cá, lục long tranh châu, phượng hoàng ẩm thủy...) và Pháp gia học (âm dương ngũ hành sinh khắc chế hóa) hơn là khoa Nhật gia học (dựa trên tương quan giữa tinh tú và địa phận để đoán thời gian đất kết phát). H́nh gia học giản dị dễ hiểu hợp với đầu óc Tầu, Việt.. thiên về trực giác, tưởng tượng. Pháp gia học uyên bác hơn đ̣i hỏi thông hiểu Dịch lư, không phải nhà Nho nào cũng nắm vững biện chứng bát quái. Nhật gia học dường như rất ít người thông suốt và đây là khoa chiêm tinh tiên đoán thịnh suy cả trăm, cả ngàn năm, mà một số đầu óc cực kỳ thông minh như Gia Cát, Vạn Hạnh, Trạng Tŕnh... mới rút ra được những tương quan phức tạp toán học, giải được những hàm số giữa thiên thể biến dịch theo đa chu kỳ với địa thế sông núi khí mạch. Ở thời đại chưa có máy tính, chưa có điện toán, tính vận hành của 120 vị sao như số Tử Vi, ứng hợp tùy biến số Nam, Nữ, Năm sinh, Tháng đẻ, Giờ sinh, phương hướng...có lẽ phải làm tới cả trăm con tính ! không phải ai cũng có thể hiểu được và làm được chính xác (xem phần Trạng Tŕnh). |
|
|
|
Quay trở về đầu |
|
|
nganhong Hội viên
Đă tham gia: 25 October 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 71
|
Msg 106 of 585: Đă gửi: 07 December 2006 lúc 2:04am | Đă lưu IP
|
|
|
VẬY có thể đă thấy "thiên tử" ở ngôi sửu(sao ngưu).sinh ra vào thời điểm "phá điền".cũng là lúc ứng với tượng trên trời : "sao ngưu hiện ra trên sông QUÍ (bảo) ".tượng trên trời--đất ứng theo sẽ có "phá điền".đúng khi ấy "nhân" sẽ xuất ! ứng hợp trên sông "QUÍ".NGƯỜI sẽ có cái tên ứng với nghĩa "đại nhân".C̉N ĐỒNG NGHĨA ="NHÂN THẬP".sinh ra nơi địa danh có con sông "QUÍ".năm sinh ứng với ngôi sửu (sao ngưu ).tất yếu "người" sẽ rất giỏi khoa học thần bí (dịch học ) như :kỳ môn..thiên văn...vv.đặc biệt có ḷng NHÂN TỪ bao la như lời sấm vĩ (là thánh nhân).nên rất có thể "người" có ngộ được "phật pháp".bởi quyền năng của "người" thuộc về TÂM LINH nên đạt tới cái vô hạn.(cái hữu h́nh th́ hữu hạn-thuộc về vô h́nh tất vô hạn ).& "500 năm sau ngày ta mất thiên hạ tất thái b́nh" như lời thánh tŕnh để lại c̣n xa lắm không???như vậy h́nh bóng "người "đă thấp thoáng hiện ra rồi ! cũng xin cảm ơn THIENNHAN cùng quí nhân phản biện cho "bật" ra v/đ đang thảo luận... thật có lư ! &nb sp;
__________________ -N.H-
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 107 of 585: Đă gửi: 07 December 2006 lúc 5:57am | Đă lưu IP
|
|
|
Code:
CÁC NGÔI ĐẤT ĐẾ VƯƠNG VÀ THẾ VƯƠNG ĐẠO ĐẤT NƯỚC
Mộ Vua Hùng thứ VI (phá giặc Ân) trên đền Thượng núi Hùng. Đời vua Hùng được đại địa Phong Châu Bạch Hạc bền vững ít nhất ngũ bách niên, qui phục thiên hạ, vỗ về trăm họ yên vui, con dân hưng phát đời đời, măi tới thế kỷ III trước TL mới suy vi. Lạc Long Quân vị vua đầu của Lạc Việt mở nước bằng bốn Vĩ tích: diệt Ngư Tinh biển Đông (trị Thủy), phá Mộc tinh Xương Cuồng giả dạng cây Chiên đàn ngàn năm (khai Rừng phá núi), lấy Âu Cơ từ phương Bắc mang về Nam (chống Bắc phương), triệt Hồ tinh chín đuôi giả dạng Bạch Y Tản Viên Quốc Thần dụ dỗ thiếu niên trai gái sa đọa vào hang Cáo (diệt yêu tinh ma quỷ). Nhà Thục tiếp nối rời đô xuống Cổ Loa được có 50 năm th́ mất. Sau hơn một ngh́n năm, măi tới đời Ngô Quyền (939 - 944) mới giành lại được độc lập, quốc đô lúc này vẫn ở Cổ Loa.
Phải chờ tới năm 968 Đinh Bộ Lĩnh mới thật sự dựng lên Đế nghiệp tiếp nối sự nghiệp vua Hùng. Truyền thuyết phong thủy kể rằng vua Đinh được ngôi huyệt kết đế vương "mă đầu đới kiếm hữu sát" bộc phát nhưng không bền. Nguyên động Hoa Lư có một cái đầm ban đêm ánh hồng quang bốc lên chiếu thẳng vào sao Thiên Mă, thầy địa lư Tầu đi ḍ long mạch từ Tuyên Quang, Hưng Hóa xuống tới phủ Đại Hoàng thấy sông sâu nước xoáy mạnh biết dưới đầm kết huyệt quí liền nhờ cậu Đinh Bộ Lĩnh lặn xuống xem xét, khi lặn xuống đáy cậu sờ thấy h́nh một con ngựa đá đứng dưới đầm liền lên nói lại với thầy địa lư, thầy cả mừng đưa cho Bộ Lĩnh một nắm cỏ bảo lặn xuống lần nữa đưa bó cỏ non nhử vào mồm ngựa xem sao. Bộ Lĩnh lặn xuống đưa bó cỏ trước mồm ngựa liền thấy nó há miệng ngoạm lấy. Khi lội lên nói rơ chuyện thầy Tầu biết chắc là huyệt đại quí thủy mă đang linh liền trọng thưởng cho Bộ Lĩnh rồi hẹn ngày khác trở lại. Bộ Lĩnh rất tinh khôn liền trở về nhà mang bó xương cha vẫn để trên gác bếp rồi bí mật lặn xuống táng vào mồm ngựa. Từ đấy mỗi ngày Bộ Lĩnh một khôn lớn mạnh mẽ phi phàm, đánh đâu thắng đấy. Ít năm sau thầy Tầu trở sang thấy Đinh Bộ Lĩnh đă trở thành thủ lĩnh anh kiệt biết ngay là họ Đinh đă đoạt ngôi huyệt quí, thầy rất căm tức liền dụng mưu trả thù. Thầy nói với Bộ Lĩnh là ngựa phải có gươm mới toàn mỹ nên bảo Bộ Lĩnh lặn xuống đặt một thanh gươm bên cổ ngựa. Bộ Lĩnh không nghi ngờ liền lặn xuống đầm gác gươm lên cổ ngựa. Quả nhiên từ đấy Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp hết 12 sứ quân xưng là Vạn Thắng Vương rồi lên ngôi Hoàng đế. Được đúng 12 năm th́ cả hai cha con đều bị ám sát chết v́ kiếm để đầu ngựa tất sinh sát khí !
Câu chuyện sau khi tước bỏ huyền thoại, có thể c̣n lại điểm đất Hoa Lư có h́nh con ngựa gọi là "thủy mă huyệt", sau này mộ vua Đinh đặt trên núi Mă Yên có nghĩa là trên yên ngựa . Cũng có thể các đời vua Đinh, Tiền Lê (Lê Hoàn), Hậu Lê (Lê Lợi), Chúa Trịnh, Nguyễn, đều phát xuất ở miền đất gần nhau: Hoa Lư, Lam Sơn, không cách xa sông Mă (cũng lại là ngựa), đều gốc người Mường, nên hưởng long mạch sông Mă chăng ? Tới đời nhà Lư th́ khoa phong thủy đă rất thịnh hành qua các nhà sư Mật tông. Đất Cổ Pháp do sư Định Không đặt tên là đất phát Đế vương lâu bền, nhà Lư với tám vị vua (Lư Bát Đế) là triều đại liên tục dài nhất trong Việt sử sau đời Hùng, được 215 năm (1010 - 1225).
Có hai thuyết ngoại sử về đại địa họ Lư: một là ông thân sinh Lư Công Uẩn ngă xuống giếng trong khu rừng Báng bị chết, sau mối đùn lên thành ngôi huyệt đại phát; hai là bà mẹ Lư Công Uẩn đi quanh quẩn trong rừng Cổ Pháp hốt nhiên chết, kiến mối xông lên kết thành mả cao 7 thước được chỗ đất tốt chung linh. Khi lên ngôi vua về yết lăng, Lư Thái Tổ trông thấy cây cối xanh tốt, loài chim bay liệng cảm động rơi nước mắt, Vua sai đo quanh mỗi bên vài mươi thước làm cấm địa, sau gọi là Thọ lăng (Việt Sử Tiêu Án). Có lẽ chuyện bà mẹ chửa hoang nhẩy xuống giếng tự tử sau khi sinh Công Uẩn th́ hợp t́nh lư hơn, dù sao ngôi huyệt ở giếng trong rừng Báng là một huyệt kết, có tám g̣ ở chung quanh nở ra như h́nh hoa sen tám cánh nên nhà Lư truyền được tám đời vua.
Công Uẩn được sư Lư Khánh Vân nuôi (xưa nay con hoang mang gửi gấm nhà chùa là chuyện thường, ngoại truyện lại nghi là một sa môn tư t́nh làm bà Phạm thị mang thai, có thuyết nói sa môn nặng nghiệp ấy chính là sư Vạn tức Vạn Hạnh !), sau lại được theo học với sư Vạn Hạnh nên trở thành một vị vua hiền đức. Có thể tin rằng sư Vạn Hạnh có ân t́nh sâu nặng với nhà Lư nên đă để đất tái phát cho họ Lư sau một ngàn năm (xem phần Sấm Vạn Hạnh), "Lư đi rồi Lư lại về" là câu đồng dao chỉ có thể truyền ra sau khi Vạn Hạnh để đất Bảo sơn thiên tử xuất. Chữ Lư gồm ba chữ thập, bát, tử, hợp thành, Lư Công Uẩn ở ngôi 18 năm (thập bát) 1010 - 1028, sinh ra ở chùa Ứng Tâm nên chùa có tên nôm na là Chùa Dặn (dặn đẻ !), tại làng Đ́nh Bảng bây giờ.
Sách Đại Việt Sử Lược là cuốn sử cổ nhất của Việt Nam, được viết vào đời Lư, chép nhiều chuyện rồng xuất hiện trong cung bên cạnh việc rồng hiện với mây ngũ sắc khi thiên đô ra Thăng Long. Đời Lư Nhân Tôn (1066, mẹ là Nguyên phi Ỷ Lan) vua là con cầu tự, sử chép ngài có tướng "Nhật giác long nhan" tức xương trán nổi lên như như h́nh chữ nhật, hai tay buông dài quá đầu gối, là tướng thiên tử. Trong đời vua Lư Nhân Tôn, 56 năm ở ngôi, vua làm lễ tắm tượng Phật (giống như pháp môn Tây Tạng), tế núi Tản Viên (tổ sơn), lại có đại danh tướng Lư Thường Kiệt phạt Tống, b́nh Chiêm (số Tử Vi Lư Thường Kiệt có sao Thái Dương bị Triệt nên là số hoạn quan), Chân Lạp triều cống... là một thời đại vinh quang của Đại Việt. Vua Nhân Tôn không có con nên lập cháu là Dương Hoán làm Thái Tử, ngày Dương Hoán chào đời là ngày sư Đạo Hạnh hóa thân, nên có chuyện cho rằng Thái tử là Từ Đạo Hạnh hóa sinh.
Tiếp theo nhà Lư là nhà Trần, một ḍng họ xuất thân từ nghề đánh cá, trên sông nước từ vùng duyên hải Hạ Long đến Nam Định, trước ở vùng An Sinh, Đông Triều (sau này các vua Trần trở về đây tu hành tại núi Yên Tử), sau rời xuống Tức Mạc, gần cửa Tuần Vường, ngă ba sông Cái, huyện Mỹ Lộc. Theo truyền thuyết, một thầy địa lư Tầu đi tầm long từ tổ sơn Tam Đảo, qua đất Thăng Long rồi xuống phương Nam, thấy g̣ đống tụ tập biết là đúng hướng nhưng rồi không thấy vết tích long mạch đâu nữa ! Thầy địa lư đi tiếp đến một con sông mạch nước chẩy xiết , qua bên kia sông thấy một ngọn núi đột ngột hiện lên, thầy vui mừng nói "ai ngờ đất đế vương lại lạc xuống quăng b́nh điền !". Sau đó thầy để cuộc đất quí ấy cho Nguyễn Cố nhưng Nguyễn Cố là người bất nhân lật lọng đem trói thầy địa lư ném xuống sông để khỏi trả 100 quan tiền.
Đúng lúc ấy thuyền đánh cá họ Trần t́nh cờ đi qua vớt lên được. Để cảm ơn cứu mạng thầy địa lư mang mộ tổ họ Trần táng thay vào. Đây là đất phát đế vương, mặt trước minh đường ngă ba sông mênh mông mặt nước, đằng sau gối vào voi phục, hai bên cờ kiếm la liệt, huyệt nằm vào đúng phương vị "Thổ phúc tàng kim", ngồi phương Càn trông chữ Tốn, kiểu đất này thầy địa lư đoán rằng "Phấn đại yên hoa đối diện sinh, tất dĩ nhan sắc đắc thiên hạ" nghĩa là "son phấn yên hoa bày trước mặt, hẳn v́ sắc đẹp lấy giang sơn" (Công Dư Tiệp Kư tr. 75). Măi ba đời sau, đất mới ứng phát ra Trần Cảnh có tướng mũi rồng mắt phượng, Trần Cảnh lấy Lư Chiêu Hoàng rồi lên ngôi mở đầu nghiệp vua 188 năm (1225 - 1407). Người sau nói long mạch họ Trần bị đứt v́ mang đào một con sông từ cửa sông Cái xuống tới xă Đại Đường; cuối cùng vua Trần Nghệ Tôn nằm mơ thấy Xích Chủy (chữ Nho tên Hồ Quí Ly là xích chủy có nghĩa là mỏ đỏ) sẽ đoạt ngôi vua v́ Nghệ Tôn sinh năm Dậu là Bạch kê (gà trắng) tất bị mỏ đỏ hồ tinh cắn chết !
Họ Trần phát ra những nhân vật xuất chúng như Hưng Đạo, Quang Khải, những ông vua hiền triết (philosopher kings) như Thái Tôn, Nhân Tôn...biết đem cái b́nh dị thực tế của lớp dân đánh cá lồng vào cái cao siêu của đạo pháp đại hùng đại lực, nên trước đại thắng Mông Cổ, sau chiếm gần hết Chiêm Thành bằng đạo binh nhân nghĩa gọi là đô "Tỏa Kim Cương" vừa hàm ư sắc bén của kim cương vừa hàm ư lan tỏa Phật pháp kim cương thừa. Chính vua Nhân Tôn đă đi chân đất mà giảng giải Thập Thiện cho dân chúng, lại lập nên thiền môn Trúc Lâm Yên Tử khai phát và quy kết tinh thần dân tộc. Vua c̣n nạp phi con gái pháp sư người Tây Tạng, một vị sư "đă 300 tuổi, có thể đi trên mặt nước, thu lục phủ ngũ tạng lên ngực...", đời vua Minh Tông cũng có sư Bồ Đề Thất Lư từ Ấn qua, vị này cũng có thể ngồi nổi trên mặt nước... Xem như thế tới đời Trần, thiền phái Mật Tông, Yoga vẫn c̣n ảnh hưởng và Phật giáo chưa bị Tống Nho làm suy yếu lệch lạc như thời Hậu Lê trở về sau.
Một vấn đề luân lư thường được nêu ra về nhà Trần là vấn đề loạn luân, trong họ lấy lẫn nhau để giữ cơ nghiệp không cho lọt vào họ khác, thậm chí Trần Thủ Độ ép cả vua Thái Tông lấy vợ của anh đang mang thai để chắc chắn có người nối nghiệp. Có thể họ Trần rất tin số Tử Vi và chắc có người tinh thông khoa này nên xắp xếp việc vợ chồng theo lư số, bất chấp liên hệ gia tộc, miễn là hợp tuổi để sinh quư tử.
Khoa Tử Vi nhà Trần c̣n truyền đến bây giờ, môn phái này đoán số rất chính xác, dựa trên ṿng sao Thái Tuế, Lộc Tồn... để tính đại tiểu sự. Đức Trần Hưng Đạo, người anh hùng được thờ cúng ngay từ lúc c̣n sống (đền Sinh Từ) cho tới sau khi chết, như một bậc Thánh, sinh ngày 8 tháng 4 năm Mậu Tuất, giờ Ngọ, và qui thần vào ngày 20 tháng 8, năm Canh Tư (1300). Số Tử Vi của ngài Hỏa mệnh, Thân Mệnh đồng cung ở Mùi, vô chính diệu, đắc Nhật Nguyệt chiếu Mệnh, hội Thiếu Âm Thiếu Dương, thêm Tả Hữu Khoa Quyền Khôi Việt, Thanh Long, Long Đức, là số siêu nhân, đứng giữa trời đất thanh thiên bạch nhật, uy quyền chỉ huy vạn dặm, tuyệt đỉnh thông minh.
Tới đời Lê, từ thế kỷ XV (1428 - 1527) tới vua Lê chúa Trịnh chúa Nguyễn (1674 - 1775) thế kỷ XVII - XVIII, đất nước chuyển sang một đại chu kỳ 500 năm, lúc thịnh lúc suy, loạn lạc nhiều hơn thái b́nh, vương đạo vẫn c̣n nhưng thánh đạo th́ hết, anh hùng vẫn phát sinh nhưng trường thế th́ mất, cuộc đất Việt Tŕ Tam Đảo châu thổ sông Hồng bước vào chu kỳ suy và cuộc đất Nam phương bắt đầu thịnh. Lê Lợi, Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn... đều là người thiểu số Mường, một bộ tộc rất gần gũi với người Việt, không khác ǵ người Việt cổ thời Hùng Vương, cũng có huyền thoại một bọc trăm trứng, cũng có trống đồng, cũng có chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh và cũng thờ Thánh Tản Viên. Vùng tập trung người Mường kéo dài từ miền núi Ḥa B́nh, Ninh B́nh, Thanh Hóa tới Nghệ An, Quảng B́nh... Phùng Hưng, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Đại Hành đều gốc người Mường, cho nên người Mường là người Lạc Việt ở vùng núi non, c̣n người Việt là người Lạc Việt ở đồng bằng, cả hai đều chung một nguồn gốc lịch sử khởi đi từ vua Hùng.
Tằng tổ Lê Lợi là Lê Hối vốn làm nghề thầy cúng, đi chơi núi Lam Sơn thấy đàn quạ bay lượn tụ họp, cho là đất tốt liền dời nhà đến đấy. Tổ Lê Lợi tên Đinh, bà tổ tên Quách (Đinh, Quách, Bạch, Hoàng...là những tên thông thường trong tiếng Mường), thân mẫu họ Trịnh. Lê Lợi là con út, khi chưa sinh thường có con cọp đen gần làng, khi sinh ra rồi th́ con cọp đen biến mất, mọi người cho Lê Lơi là hóa thân cũa con cọp đen ! Trong sách Lam Sơn Thực Lục, Nguyễn Trăi ghi "vua Lê vai tả có bảy nốt ruồi, lông lá đầy người, tiếng như chuông lớn, ngồi như hổ..." có lẽ tướng lông lá như vậy nên mới có chuyện hổ thành người chăng ? Nhưng đất phát lên đại nghiệp lại nằm ở xứ Phật Hoàng, động Chiêu Nghi, h́nh quả ấn, tả có núi Chí Linh,, trong có g̣ Tiên Ban, trước có nước Long Sơn, Long Hồ nước xoáy...nhà sư họ Trịnh từ Ai Lao để cho họ Lê miếng đất quí đó, lại đoán rằng đất này con cháu phải phân cư, nếu cải táng th́ sẽ trung hưng năm trăm năm nữa. Trong giai đoạn kháng chiến chống quân Minh đầu tiên với 635 thủ hạ, Lê Lợi từng bị giặc đuổi phải chạy trốn vào bụi rậm, cầu xin "một vị thần áo trắng" (một người đàn bà mặc áo trắng, tay đeo xuyến vàng, thoa vàng, mới chết, hiển linh thành con chồn trắng làm lạc đường chó săn của quân Minh), lại vớt lưới được lá gươm "thuận thiên" và nhặt được cán vừa liền nhau, có lẽ là thanh gươm trời cho rồi sau này bị Thần Rùa đớp lại tại Hồ Hoàn Kiếm, Thăng Long.
Vua Lê Lợi sinh ngày 6 tháng 8 năm Ất Sửu, giờ Tí, Kim Mệnh. Số Tử Vi Mệnh Thân đồng cung ở Dậu, vô chính diệu, có Bạch Hổ tọa thủ (phải chăng v́ vậy có chuyện nói ngài là con hổ hóa thân ?), Thái Tuế ở Quan chiếu lên, Tứ Linh, Thanh Long Hóa Kỵ Âm Dương ở Quan Lộc, thêm Song Lộc Quyền hợp chiếu, đắc cách sát tinh độc thủ, anh hùng, không thọ (49 tuổi) và không hiền từ. Như vậy nhà Lê cũng bắt đầu với những huyền sử truyền kỳ dân tộc : một nhà sư để đất dấy phát, một vị nữ thần áo trắng (Quan Âm ?, Thánh mẫu ?...), một thần Kim Qui. Chỉ tiếc rằng công nghiệp của ông vua khai sáng triều đại này bị lu mờ v́ chuyện giết hại hầu hết các công thần gốc tích châu thổ sông Hồng như Phạm Văn Xảo, Trần Nguyên Hăn, ngay cả quân sư Nguyễn Trăi cũng bị tống giam, sau lại thả ra nhưng không được tin dùng. Đấy là lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc có sự căng thẳng mang màu sắc địa phương, giữa nhóm triều đ́nh hầu hết là gia tộc họ Lê, gốc Mường, ít học, vơ biền, và nhóm sĩ phu miền Hồng Hà.
Măi tới đời Lê Thánh Tôn, một ông vua hiền tài do chính Nguyễn Trăi lập kế nuôi dưỡng, bảo vệ cả mẹ (Ngô Thị Ngọc Dao) và con (Tư Thành) trong chùa chiền và thuyền bè tại vùng vịnh Hạ Long để tránh khỏi sự truy lùng của nhóm Thị Anh và Thái Tử Băng Cơ, nên nhà Lê mới lại thuần hóa vào ḍng sinh mệnh châu thổ sông Hồng và sau 38 năm tại ngôi vua Lê Thánh Tôn đă để lại một ấn tượng tốt trong dân chúng và sĩ phu khiến cuối đời Lê, dù suy yếu mà vẫn trung hưng lên được. Tuy vậy sau này xẩy ra vụ Kiêu binh (thế kỷ XVII), bọn lính Thanh Nghệ cậy công làm càn, là chuyện đă manh nha từ khoảng cách giữa hai khối dân từ hai địa vực khác nhau ấy. Vụ tru di tam tộc Nguyễn Trăi không những v́ ḷng ghen giữa mấy người đàn bà mà c̣n mang nặng thù hận của nhóm thân tộc địa phương họ Lê với bậc khai quốc trưởng thượng, nó không xẩy ra ở một hai đời mà c̣n xẩy ra ở nhiều đời vua Lê khác. Xét chung, triều Lê không có vương đạo như triều Lư, Trần và về sau đức độ c̣n thua kém cả nhà Mạc. Cuối đời Lê, các ông vua Quỷ như Lê Uy Mục, vua Lợn như Lê Tương Dực, làm cho sứ thần nhà Minh (vốn biết tướng số) phải phê b́nh :
An Nam tứ bách vận vưu trường
Thiên ư như hà giáng quỷ vương !
nghĩa là :
Bốn trăm năm vận nước Nam lâu dài
Sao ư trời lại giáng xuống quỷ vương ?
và biết trước loạn vong sẽ tới. Sứ thần nhà Minh nói vào khoảng năm 1505 - 1509, đă biết trước vận quân vương Việt Nam dài độ 400 năm nữa tức là vào khoảng 1900 là lúc mất nước vào tay Thực dân Pháp. Bốn trăm năm này không phải là hồng vận quốc gia, v́ trời giáng quỷ vương với trư vương ! lời nói có vẻ tiếc cho nước Nam. Nhưng 99 năm sau Lê Lợi, một kết tập cuối cùng của đất sông Lô núi Tản chung quanh nhà Mạc và Trạng Tŕnh lại mở ra một sách lược mới cho dân tộc nhằm phục hoạt lại tinh thần Lư, Trần.
Mạc Đăng Dung đoạt ngôi của vua quỷ vua lợn không phải là chuyện bất nhân, hay quá lắm, cũng chỉ như Trần Thủ Độ lấy ngôi vua nhà Lư cho nhà Trần. Nhưng v́ họ Mạc là quan vơ, xuất thân từ nghề đánh cá (giống họ Trần) nên bị khối quan văn Tống Nho khinh thường và chống đối : nhà Lê, dù vua Lê Thánh Tôn rất anh minh, đă đi lạc sang Nho giáo độc tôn, quên cái gốc "văn ôn vơ luyện" từ đời Hùng đến Đinh, Lê, Lư, Trần, để ch́m đắm vào cái học khoa bảng từ chương "tiên học lễ hậu học văn" làm sa đọa cả hàng ngũ trí thức.
Nhưng gốc tích Mạc Đăng Dung là gốc văn học chói lọi của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, mà chính Mạc Đĩnh Chi lại là ḍng dơi Trạng Nguyên Mạc Hiển Tích nguyên Lại Bộ Thượng Thư triều Lư. Như vậy về huyết thống Mạc Đăng Dung không có ǵ thua kém nhà Lê. Mạc Đĩnh Chi (tổ 7 đời của Mạc Đăng Dung) có bà mẹ đi qua khu rừng cây um tùm vùng Chí Linh, Hải Dương, bị con khỉ lớn hiếp nên đẻ ra ông mặt mũi xấu xí như khỉ, thân phụ tức quá vào rừng giết được con khỉ đực, sau thấy xác khỉ bị mối đùn lên thành một cái mồ rất lớn biết là đúng huyệt phát nên khi chết dặn con cháu táng ḿnh vào chính mộ con khỉ đó. Về sau Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi cũng được táng ngay ở chân mộ khỉ đực, bên cạnh mộ của hai ông bố ! Khi đi sứ sang Tầu, Mạc Đĩnh Chi tuyệt đích thông minh linh lợi nên vua Tầu nhà Nguyên phải khen tặng cho ông chức lưỡng quốc Trạng nguyên, sứ thần Hàn quốc phải phục và mời ông sang chơi nước Hàn, lại t́m một cô gái nước Hàn gả cho ông làm thiếp. Nh́n tướng mạo quan Trạng quá xấu, người Tầu quyết t́m ra ẩn tướng, và họ đă theo dơi ông vào tận cầu tiêu để khám phá ra ẩn tướng là cục phân Mạc Trạng Nguyên h́nh vuông như quân cờ ! Họ lại gửi thầy địa lư sang xem mộ tổ tiên họ Mạc và khi tới mộ "khỉ đực" th́ thầy điạ lư nói đấy chính là ngôi đất kết phát ! chỉ tiếc là thủy không tụ mấy, thiếu hổ thủy, nên phát quí chứ không phát phú.
Trong thời gian đi sứ Tầu, văn quan Trung Quốc ra câu đối
An, nữ khứ : thỉ nhập vi gia
Chữ An bỏ chữ nữ thay chữ thỉ là heo vào th́ thành chữ gia.
Ông đối lại :
Tù, nhân xuất : vương lai thành quốc
Chữ Tù bỏ chữ nhân, cho chữ Vương vào th́ thành chữ quốc.
Người Tầu dựa vào Mai Hoa Bốc chiết tự mà đoán rằng con cháu sau này tất có người làm vua, nhưng v́ chữ vương viết chữ đơn (王) nên giữ nước không được bền.
Khi Mạc Đăng Dung lên ngôi, phong ông tổ Mạc Đĩnh Chi làm Linh Khánh Đại Vương, xây điện Sùng đức lên nền nhà cũ, lại đắp đàn cao để vua quan tế lễ. Khi c̣n là một anh chàng đánh cá, dung mạo Mạc Đăng Dung rất phi phàm nên bà mẹ Nguyễn Bỉnh Khiêm vốn giỏi tướng số phải đoán là người thanh niên đó sau này công danh tột bực. Chữ Mạc theo chữ Nho có chứa chữ Đông nên bài Sấm của sư Vạn Hạnh có câu: Chấn cung kiến nhật tức: Phương Đông mặt trời mọc chỉ nhà Mạc lên ngôi thiên tử (xem phần Vạn Hạnh). Nếu đúng ư như vậy th́ nhà Mạc là một triều đại có vận số sau nhà Lê, mà ngay nhà Nguyễn về sau cũng không được sấm Vạn Hạnh nhắc tới.
Nhà Mạc làm vua tại Thăng Long được 65 năm, chạy lên Cao Bằng được 75 năm nữa, tổng cộng 140 năm, không phải là ngắn ngủi. Nhà Lê bị dứt tới 65 năm, quanh quẩn ở một vùng Thanh Hóa từ 1543 - 1592, vậy mà các sử sách sau này lại coi là chính thống liên tục, th́ quả là bất công cho nhà Mạc. Nếu lại nói Mạc Đăng Dung tự trói ḿnh để cầu ḥa với nhà Minh là nhục quốc thể (như Trần Trọng Kim kết án trong VN Sử Lược), th́ lúc đó ông không phải là vua, chỉ là Thái Thượng Hoàng dùng khổ nhục kế dâng mấy động núi tượng trưng để tránh họa xâm lăng do chính nhà Lê sang Tầu cầu cứu ! Hành vi đó không nhục nhă tai hại bằng việc vua quan Lê Chiêu Thống sang van lậy nhà Thanh viện binh sau này ! Hơn nữa nhờ tránh voi mà nhà Mạc mang lại yên ổn cho đất nước, chỉ v́ nhóm thủ cựu pḥ Lê và phe địa phương xứ Thanh cát cứ gây loạn tranh dành liên miên nên nhà Mạc mất hẳn cơ hội phục hồi một Đại Việt theo truyền thống Lư, Trần. Nhà Mạc biết trọng người hiền như Nguyễn Bỉnh Khiêm, biết giữ gốc dân bản thực dụng b́nh dân qua việc xây cất các đ́nh làng trên toàn quốc, đào tạo nhân tài với tỷ lệ nhiều nhất trong lịch sử Nho học Việt nam: 22 khóa thi Đ́nh với 485 vị Tiến sĩ trong 65 năm, khôi phục chùa chiền trong tinh thần Tam giáo đồng tôn (mà nhà Lê đă đánh mất), đă có thời thịnh trị "của rơi không ai nhặt" như đời anh quân Mạc Đăng Doanh (1530 - 1540) v..v..
Những đời sau, Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn, rồi Triều Nguyễn, không thấy nhiều tư liệu về mồ mả phong thủy. Họ Trịnh được ngôi đất "phi vương phi bá, quyền khuynh thiên hạ" nhưng chỉ được 8 đời rồi sẽ bị tai họa. Nguyên ngôi đất này là cái hố, mẹ Trịnh Kiểm bị dân làng trừng phạt ném xuống v́ Trịnh Kiểm mỗi ngày đều đi ăn trộm gà để nuôi mẹ. Bà mẹ bị chết t́nh cờ lại nằm đúng huyệt phát ! Lọt vào giữa Trịnh, Nguyễn, có ngôi sao Nguyễn Huệ rực lên ít năm, có người như Lê Quí Đôn cho là được đất phát ở Tây Sơn, B́nh Định, nhưng 4 đời trước họ Nguyễn Tây Sơn gốc họ Hồ ở Nghệ An, vậy có thể vẫn thừa hưởng long mạch đất Hồng Lam, long mạch vùng này vốn không lâu bền. Bắc B́nh Vương Nguyễn Huệ sinh ngày 5 – 5 - Nhâm Thân, giờ Tuất, số Tử Vi Kim mệnh. Thất sát và Thái Tuế đường đường đóng tại Mệnh, thêm Tử Phủ, Tham Phá, Tứ Linh, Quyền, Mă.. hợp chiếu, là số thành công vũ băo, Phúc bị Tuần, Đà La, Hóa kỵ, Mệnh Song Hao, nên không thọ.
Họ Trịnh phát xuất từ Bồng Thượng, miền trung du Thanh Hóa, Trịnh Kiểm từng đánh thuốc độc giết bố vợ là Nguyễn Kim, lại tàn nhẫn giết luôn anh vợ là Nguyễn Uông, sau này con cháu dường như tản mát về làng Cự Đà gần Hà Nội, đ́nh làng này có hai pho tượng quay lưng vào nhau nên tương truyền người trong làng không thân thiết tương trợ.
Họ Nguyễn được đất ở Gia Miêu Thanh Hóa, tổ họ này là Nguyễn Kim, người đứng ra t́m con cháu nhà Lê để phục hưng triều đại, vợ Nguyễn Kim người Hải Dương cùng quê với Trạng Tŕnh, nên Trạng Tŕnh đă nể t́nh chỉ đường sống cho con Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng vào đất "Hoành sơn" dung thân để tránh lưỡi gươm của Trịnh Kiểm. Biết rằng phong thủy vùng này có thể hưng vượng một cơi nên họ Nguyễn đă nghe Trạng Tŕnh kéo nhau vào Thuận Quảng lập nghiệp.
Một chi họ Mạc chạy trốn Lê Trịnh cũng theo vào, con gái Khiêm Vương Mạc Kính Điển trở thành bà Chúa Săi (1613 - 35). Măi tới ông vua cuối cùng là Bảo Đại long mạch họ Nguyễn mới tận. Năm 1945 Bảo Đại kể lại "cây xà ngang nóc điện tự nhiên gẫy đổ rơi xuống" là điềm rất độc, báo hiệu một triều đại chấm dứt và chấm dứt luôn ngh́n năm quân chủ Việt Nam.
Từ sau 1945, sử Việt đi vào giai đoạn chuyển tiếp, giai đoạn nhiễu nhương chiến tranh, mạt pháp. Đứng về phương diện phong thủy lư số, vẫn tiếp tục khí mạch độc loạn đi về phương Nam từ đời Lê - ông CT *** (1954 - 69) gốc Nghệ An cùng các pḥ tá đều đa số phát tích từ đất Trường Sơn, miền Nam các ông TT Ngô Đ́nh Diệm (9 năm), TT Nguyễn Văn Thiệu (9 năm) người Quảng B́nh, người Phan Thiết, đều khởi từ khí mạch vùng núi, đất hẹp sông ngắn, nên không được lâu bền. Ông Nguyễn Văn Thiệu ở đuôi chót Trường Sơn, là huyệt phát cuối cùng của giải đất này, chấm dứt một chu kỳ long mạch Nam tiến trên đất Chiêm Thành cũ. Từ sau, long mạch đất Việt lại khởi sang một chu kỳ khác, phương hướng khác, báo hiệu đại hồng vận "thiên tử xuất tại Bảo Sơn Bảo Giang", phục hoạt vương đạo Hùng Vương Viêm Việt. |
|
|
Nước Việt Nam bị Trung Quốc xâm chiếm, đánh đuổi và đô hộ hàng ngàn năm, cho nên nền văn minh Lạc Việt đă bị ăn cắp và rồi bị Hán hóa, cho lẫn sử Việt cũng bị bôi nhọ, sai lạc như thân mẫu vua Đinh bị con rái cá, của trạng nguyên Mạc Đỉnh Chi bị con khỉ...và biết bao câu chuyện bậy bạ khác. Sau này khi nước Việt đă hùng mạnh, sự thật sẽ được sáng tỏ, và sử Việt sẽ được viết lại cho đúng ư nghĩa và khoa học.
|
Quay trở về đầu |
|
|
linhlinhlinh Hội viên
Đă tham gia: 25 November 2006
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 140
|
Msg 108 of 585: Đă gửi: 07 December 2006 lúc 8:16am | Đă lưu IP
|
|
|
theo ḍng "Việt sử siêu linh "& ư kiến các cao nhân tôi thấy từ từ hiển linh vóc dáng "thiên tử ".người này đă được sinh ra & trưởng thành...có điều khó biết được "định mệnh" của bản thân.cũng như chúng ta chỉ là "phán" thôi.nếu biết rơ như nhật - nguyệt th́ c̣n ǵ là sấm vĩ & hẳn người sẽ là sương khói thoát lên trời cao mà bảo toàn sinh mệnh! lúc người xuất - như rồng xuất!cóđâu cho chúng ta vốn đă vướng bụi trần tục được biết.vậy nhưng cứ hiếu kỳ...nên cứ xin tiếp tục được đọc bài của các bạn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
NhapMon Hội viên
Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 607
|
Msg 109 of 585: Đă gửi: 07 December 2006 lúc 1:20pm | Đă lưu IP
|
|
|
Sông Qúi là "sông ngân hà" nào đó, để
Sao Ngưu tụ Sông Quí
Đại nhân ở chính giữa
Ngoài ra, theo các bài bác TN pốt trên kia th́ sông Qúi có lẽ là mấy con sông nằm từ khoảng Thanh Hóa ra đến Thăng Long, trong đó sông Hoàng Hà nên có mặt .
Mệnh tọa Sửu cung (tháng, giờ), biết đâu là sinh năm "Qúi" hay giờ "Qúi" ǵ đó !
Thầy "Nhân Thập" phá điền bỏ nghề làm ruộng, chắc đổi qua "công nghệ thông tin" lém !
Càng ngày càng hấp dẫn đó bác TN ơi!
__________________ NhapMon
|
Quay trở về đầu |
|
|
NhapMon Hội viên
Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 607
|
Msg 110 of 585: Đă gửi: 07 December 2006 lúc 2:38pm | Đă lưu IP
|
|
|
"Có thầy nhân thập đi về
Tả phụ Hửu tŕ cây cỏ làm binh
Giốc hết sức sửa sang Vương nghiệp
Giúp vạn dân cho đẹp ḷng trời
Ra tay điều chỉnh hộ mai
Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
Lọ là phải nhọc kéo quân
Thấy nhân ai chẳng mến nhân t́m về"
Mệnh tọa Sửu cung (tháng, giờ), sinh ngày "Qúi" hay năm "Qúi", thêm Tả Hữu hội họp!
Thầy ở xa về nhưng gốc gác đâu đó ở b́nh nguyên sông Lam, sông Hồng (Hoàng Hà)
__________________ NhapMon
|
Quay trở về đầu |
|
|
NhapMon Hội viên
Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 607
|
Msg 111 of 585: Đă gửi: 07 December 2006 lúc 6:50pm | Đă lưu IP
|
|
|
NhapMon đă viết:
"Có thầy nhân thập đi về
Tả phụ Hửu tŕ cây cỏ làm binh
Giốc hết sức sửa sang Vương nghiệp
Giúp vạn dân cho đẹp ḷng trời
Ra tay điều chỉnh hộ mai
Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
Lọ là phải nhọc kéo quân
Thấy nhân ai chẳng mến nhân t́m về"
Mệnh tọa Sửu cung (tháng, giờ), sinh ngày "Qúi" hay năm "Qúi", thêm Tả Hữu hội họp!
Thầy ở xa về nhưng gốc gác đâu đó ở b́nh nguyên sông Lam, sông Hồng (Hoàng Hà) |
|
|
"Xem ư trời ngỏ hầu khải thánh
Dốc sinh ra điều chỉnh hộ mai
Song thiên nhật nguyệt sáng soi
Thánh nhân chẳng biết th́ coi cho tường
Thông minh kim cổ khác thường
Thuấn Nghêu là trí, Cao Quang là tài
Đấng hiên ngang nào ai biết trước
Tài thao lược yêm bác vũ văn"
Bác TN hoặc bác nào giải thích giùm hai chữ "song thiên" trong câu
Song thiên nhật nguyệt sáng soi
có ư nghĩa ǵ vậy ?
C̣n Nhật Nguyệt chắc là mệnh cung có Nhật Nguyệt chiếu !
Cám ơn các bác.
__________________ NhapMon
|
Quay trở về đầu |
|
|
ngoctrongdda Hội viên
Đă tham gia: 26 November 2006
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 142
|
Msg 112 of 585: Đă gửi: 07 December 2006 lúc 7:48pm | Đă lưu IP
|
|
|
Công nhận cụ Trạng giỏi thiệt bạn Nhập môn nhỉ cái ǵ cũng biết ngay cả Sấm để lại cũng giải nghĩa theo Tuvi luôn
Sửa lại bởi ngoctrongdda : 07 December 2006 lúc 7:49pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 113 of 585: Đă gửi: 07 December 2006 lúc 9:27pm | Đă lưu IP
|
|
|
Code:
VÀI NHẬN ĐỊNH TẠM KẾT
1 - Từ đời Hùng Vương tới 1945, các triều đại đều xuất phát từ miền Sông Mă (Thanh Hóa) trở ra miền Bắc. Hai đời vua rất ngắn Hồ Quí Ly (6 năm), Hồ Thơm (tức Nguyễn Huệ, 4 năm), nếu kể thêm *** nữa (15 năm), th́ cả ba đều mang họ Hồ, đều phát tích từ Nghệ An, và đều vào thời ly loạn mạt pháp.
2 - Đời Hùng Vương, Lư, Trần, được đại địa kết phát ở miền đất sông Hồng, có đủ sông dài, núi cao, đất rộng, âm dương quan b́nh, nên cơ nghiệp lâu dài, đạt vương đạo, là thời đại căn bản huy hoàng của dân tộc.
3 - Từ thế kỷ XVI tới thế kỷ XX, chu kỳ 500 năm, mạch phát về phương Nam, loạn nhiều hơn b́nh, dữ nhiều hơn lành, ác sát lực (force du mal) của bọn Mộc tinh, Ngư tinh, Hồ tinh nổi lên vào thời mạt pháp, đúng như Trạng Tŕnh tiên đoán :
"Ngă bát thế chi hậu, binh qua khởi trùng trùng".
Đă binh đao th́ chết chóc, đă chết chóc th́ oán oán trùng trùng, ma khí vây bủa, tộc Việt phải trả giá cho những chiến dịch diệt Chiêm, tuyệt Chân Lạp, Phù Nam, để rồi đánh Tây, hay đánh Tầu, rút cuộc máu Việt cũng thấm ngập cả đất Việt, xác Việt cũng nằm kín Trường Sơn và biển Đông ! Cuộc chiến cuối thế kỷ XX vừa qua với 3 triệu con Rồng cháu Tiên bỏ mạng, là dấu chấm hết của một đại chu kỳ tai họa. Với số lượng bom thả xuống tập trung vào xương sống Trường Sơn, các mạch đất (cả thiện lẫn ác) vùng này bị triệt phá, long mạch phải đứt đoạn. Trong 4000 năm lịch sử, nội chiến Trịnh, Nguyễn và Quốc, Cộng, là hai thương tích sâu nhất trên cơ thể dân tộc, gây ra bởi những người đi lệch khỏi truyền thống dân bản hữu lễ Hùng Vương.
4 - Thiên, Địa, Nhân, cả ba đều có vận kỳ. Sao có chu kỳ dài, ngắn, mạch có mạch trường mạch đoản, người có vận tốt vận xấu, nước có lúc thịnh lúc suy. Chu kỳ ngắn 60 năm (nhà Mạc), dài 180 năm (nhà Lư, nhà Trần), dài hơn là 360 năm, 500 năm, 1000 năm... như họ Hùng. Đại kỳ 500 năm đang chấm dứt để nhân loại và Việt Nam tiến bước sang đại vận mới. Đại vận mới, nh́n theo phong thủy, hoặc phải khởi từ miền Cửu Long, hoặc từ miền Núi Tản Sông Đà, là hai vùng c̣n khí lực mănh liệt để dấy phát, chưa bị chấn yểm của Cao Biền và của bom đạn.
5 - Trong trường kỳ lịch sử, ta không sợ Bắc phương Hán tộc mà nên đề pḥng long mạch tái phát của dân Phù Nam, Chân Lạp tức dân Miên ngày nay. Đất Cao Miên có đại địa Cửu Long Biển Hồ, đă từng có văn minh Angkor, đă từng là đế đô của cường quốc đầu tiên Đông Nam Á là Phù Nam, đất này c̣n có chu kỳ dấy phát.
6 - Nếu nước Việt gồm thâu cả ḍng Cửu Long , Hoàng Liên Sơn, Trường Sơn làm âm dương song hành, cao nguyên Pleiku, Đà Lạt và b́nh nguyên miền Nam làm đại minh đường nh́n ra biển Đông, th́ mới có đại thế để trở thành một đại cường quốc, ngồi vào ghế Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, nếu không, ta chỉ có thể thành cường quốc vùng Đông Á mà thôi.
7 - Xuất phát từ mảnh đất Giao Châu, có long mạch đại địa ngang với Trung Hoa, nước Việt nằm ở thế hợp tung hơn là đối kháng, cùng với Hàn quốc, Nhật Bản, làm tứ trụ Viễn Đông, phát huy nền văn minh cầm đũa nhân bản liên quốc, Bắc ḥa, Nam tiến. Cuộc Nam tiến đă xong, ta phải hồi tâm về truyền thống “Hữu Lễ Văn Ôn Vũ Luyện” mà đời Hùng, đời Lư, đời Trần đă thắp đuốc mở đường.
8 - Cuộc Nam Tiến hoàn thành với diện tích đất nước gấp hai đất cũ, với sự sát nhập các sắc dân với văn hóa đa diện, không thể không chấp nhận t́nh trạng phân hóa địa phương. Muốn t́m thế ḥa b́nh nội bộ lâu dài, phải áp dụng câu kinh tuyệt tác của Bụt: "Cách chăn giữ đàn ḅ hay nhất là thả chúng trên cánh đồng mênh mông". Nói khác đi, phải địa phương tự trị phân quyền, phải dựa trên địa lư thiên nhiên và văn hóa khu vực để chia làm các Châu, Bộ với hệ thống quản trị dân chủ. Từ Nam Sông Mă vào đến Hoành Sơn, Thừa Thiên, không thể gạt bỏ văn hóa Chàm, càng vào phía Nam, càng không thể phủ nhận vết tích lâu bền của Phù Nam, Chân Lạp với Tiểu Thừa và Ấn Độ Giáo kết hợp. Người Việt phát xuất từ Bắc bộ, quanh châu thổ sông Hồng sẽ chuyển hóa theo những yếu tố văn hóa xă hội mới - khoảng 300 năm - đang đi vào chu tŕnh tổng hợp ṇi giống. Có thế th́ các long mạch kết phát ở địa phương nào cũng mang lại quả tốt cho toàn quốc, bằng không th́ mạch phát ở Đông có thể làm hại cho Tây, huyệt kết ở Bắc e gây họa cho Nam ...
9 - Nh́n trên bản đồ Thế giới, nước Mỹ và Viễn Đông gồm Tầu, Việt, Hàn, Nhật nằm ở vị thế đối chiếu, cách nhau 12 - 13 múi giờ, nên đă có liên hệ và đă xẩy ra nhiều xung đột luận theo Dịch lư: chiến tranh Mỹ - Nhật, Mỹ-Hàn, Mỹ - Việt và xung đột Mỹ - Tầu. Khi bom nguyên tử giết hại hơn 100,000 người ở Nhật năm 1945, th́ những năm sau Mỹ cũng trả mạng gần đúng con số đó ở Hàn và Việt ! Bàn về phong thủy nước Mỹ, cụ Dương Thái Ban, một nhà địa lư nổi danh (mất tại Hoa Kỳ khoảng thập niên 80) nhận định như sau: Ngũ đại hồ kết tụ khí mạch cực lớn, sông Mississippi chẩy ra biển hướng Đông Nam thuộc cung Th́n (long cung), giống sông Cửu Long, hùng viễn như rồng lượn. Thủ đô Hoa Thịnh Đốn bên ḍng Potomac, sông mạch cuộn nhiều ṿng như vành tai giống sông Nhĩ Hà bên ta, chỉ hiềm v́ mưa nhiều (hơn 150 ngày một năm), âm dương ngũ hành bất quân, nên cũng như Huế, không lâu bền ngàn năm bằng đất Thăng Long, Trường An, Paris. |
|
|
Nguồn Sinh lực của dân tộc Việt rất mạnh, trải qua hàng ngàn năm bị Hán tộc xâm chiếm, đánh đuổi, đô hộ, rồi lại trải qua hàng ngàn năm nội chiến liên miên, chết chóc thiên tai, đói khổ mà vẫn không bị hao ṃn nguyên khí bao nhiêu, nay không c̣n chiến tranh dân Việt lại sinh sản lên đến gần trăm triệu dân, dân c̣n th́ nước c̣n dân kiệt th́ nước mất, như dân Chiêm Thành nay c̣n lại chỉ là thiểu số không thể khôi phục lại dất nước, dân Phù Nam, Chân Lạp cũng vậy, dân Miên th́ không phát triển bằng dân Việt, ít nhân tài và c̣n lạc hậu.
Sau phần này là phần Sấm Trạng, sẽ giải thích rơ ràng Sấm thật Sấm giả để các bạn không bị hoang mang.
|
Quay trở về đầu |
|
|
NhapMon Hội viên
Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 607
|
Msg 114 of 585: Đă gửi: 07 December 2006 lúc 10:52pm | Đă lưu IP
|
|
|
ngoctrongdda đă viết:
Công nhận cụ Trạng giỏi thiệt bạn Nhập môn nhỉ cái ǵ cũng biết ngay cả Sấm để lại cũng giải nghĩa theo Tuvi luôn
|
|
|
Cụ Trạng th́ không cần đến lời khen của chúng ta, chỉ với một qủe Dịch cộng thêm với Chiêm tinh Thái Ất mà "động" cả một quăng thời gian dài 500 năm . Phe ta mới gio?i, dám "reverse engineering" Sấm ra Tử Vi!
__________________ NhapMon
|
Quay trở về đầu |
|
|
linhlinhlinh Hội viên
Đă tham gia: 25 November 2006
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 140
|
Msg 115 of 585: Đă gửi: 08 December 2006 lúc 12:17am | Đă lưu IP
|
|
|
"bắc hữu kim thành tráng!nam tạc ngọc bích thành"! ư nói : 1-phương đông có thanh long,phải có tướng quân (bạch hổ ) giúp.2-nhờ cao nhân nào dịch rơ chữ"hữu"&"tạc".NGƯỜI-có thể sinh ra bởi hợp nhất của 2 ḍng sinh khí hồng hà& cửu long nên có được sự dung hoà của 2 miền nam-bắc? 3-cũng có thể sinh ngôi sửu = cung cấn-dần?sinh ra trên vùng sinh khí của sông :hồng?cửu long?-sông QUÍ?nhưng thường xưa kia hoàng đế ngồi ở BẮC nh́n về NAM + Thanh long - bạch hổ ở tả- hữu!vậy nên nghi vấn sinh ở BẮC có lẽ hợp lư hơn.mặt khác gần núi th́ trí - gần thuỷ th́ hiền? nên tốt nhất sinh ra vừa có núi có thuỷ & có đồng ruộng bao la cho có tấm ḷng bao dung nhân hậu(hữu -hựu =bao dung ,nâng đỡ ).đôi ư bàn thêm xôm tụ ! tôi thấy bác nhapmon nhiệt t́nh vui vẻ & "phán" có lư đấy! bác thien nhan siêng năng-tâm huyết với diễn đàn.c̣n ngoc trong đa th́ rất lạc quan & hơi "tếu táo".mong có thêm quí nhân đông đảo tham gia mục này cho nhộn nhịp hơn !
|
Quay trở về đầu |
|
|
thiennhan Hội viên
Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 634
|
Msg 116 of 585: Đă gửi: 08 December 2006 lúc 12:47am | Đă lưu IP
|
|
|
Code:
CHƯƠNG HAI: SẤM KƯ VIỆT NAM
Người xưa rất trân trọng việc bói toán bốc phệ: đặt ra cả chức quan Thái Bốc chuyên về lư số chiêm tinh giải điềm... Thời thượng cổ bên Tầu, nhà vua có việc ǵ nghi ngờ lớn th́ trước tự suy xét, sau hỏi khanh sĩ, thứ nhân, không giải được th́ "mưu cập bốc phệ" tức hỏi tới quỷ thần để biết cát hung. Cả hai loại quan cố vấn cho triều đ́nh là Chúc quan, coi việc chiêm tinh lư số, và Sử quan, coi việc ghi chép ôn cố tri tân. Sử lo việc người với người, Chúc lo việc người với Trời. Truyền thống này c̣n tồn tại ở vài nước quân chủ như Bhuttan, Tây Tạng ... gần đây.
Bốc phệ đặt trên Dịch lư âm dương ngũ hành: lư này áp dụng cho vạn vật, người là tiểu vũ trụ tương quan đồng nhất thể với đại vũ trụ trăng sao gió khí... tương quan này lại dựa trên chiêm nghiệm của Sử : có sao chổi th́ có binh biến, có động đất th́ ắt có nguyên thủ từ trần...điềm trời, thế đất, mạch sông... chính là chiều kích mở rộng của con người sinh tử trong vũ trụ. Quan điểm này nh́n vạn vật toàn diện và hợp với vũ trụ quan khoa học hiện đại.
Muốn bốc phệ th́ phải có phương pháp. Phương pháp ấy là lư số: "Cực số tri lai, chi vị chiêm" (dùng số tính đến cùng là bói ). Mỗi nền văn minh đều có khoa lư số riêng, Do Thái có khoa Kabbalah, Ấn Độ có khoa Chiêm tinh Vệ Đà (Jyotish), Trung đông có khoa Chiêm tinh Chaldée là nguồn chiêm tinh lư số Tây phương hiện thời. Bốc phệ tiên tri nhiều khi phải kín đáo, "thiên cơ bất khả lậu" v́ lời tiên tri có thể ảnh hưởng rộng lớn, thuận hay nghịch với vua quan, phe phái quần hùng. Thế nên nhà bốc phệ phải nói lời xa gần, dùng mật ngôn ẩn ngữ để người khác suy đoán ra. Đấy là lư do phải dùng Sấm để tiên tri, Sấm kư (ghi lời Sấm), Sấm vĩ (bàn lời Sấm), vừa có tác dụng bảo mật, vừa có tác dụng bảo tồn lời tiên đoán, khó bóp méo thay đổi. Lời Sấm lại dễ truyền khẩu, bia miệng vẫn trơ trơ ngh́n năm hơn giấy bản và bia đá ! Trong Lịch sử Việt Nam, có ba bậc Tiên tri siêu quần là Vạn Hạnh, Trạng Tŕnh và Liễu Hạnh Thánh Mẫu. Cả ba vị đều để lại những lời Sấm và tiên tri liên quan tới tương lai vận nước. Chương này lược giải những lời tiên tri đó.
Sư VẠN HẠNH với SẤM VỸ và TỔNG TR̀ TAM MA ĐỊA
Nhà sư dựng nước của ba triều Đinh, Lê, Lư, là người đầu tiên để lại những lời Sấm tiên tri biến cố lịch sử dân tộc, những lời sấm này có trước Sấm Trạng Tŕnh khoảng 500 năm.
Sư Vạn Hạnh họ Nguyễn, không rơ sinh năm nào, nhưng mất vào năm 1018 dưới Triều vua Lư Thái Tổ. Về sau vua Lư Nhân Tông 1072 - 1127 truy tặng một bài kệ thâu tóm thân thế tư tưởng Vạn Hạnh như sau :
Vạn Hạnh dung tam tế
Chân phù cổ sấm ky
Hương quan danh Cổ Pháp
Trụ tích trấn vương kỳ
tạm dịch :
Vạn Hạnh thông ba cơi
Chính hợp lời sấm xưa
Quê hương tên Cổ Pháp
Chống gậy giữ kinh kỳ
Sư Vạn Hạnh chẳng những dung thông ba cơi quá khứ, hiện tại, tương lai, ung hợp Phật, Khổng, Lăo, lại c̣n dung hóa pháp môn Tổng Tŕ Tam Ma Địa thành lời Sấm, như một khế cơ huyền vi vào việc trị nước an dân vào buổi đầu của thời đại độc lập quốc gia.
Thuở nhỏ Sư tu ở chùa Lục Tổ , thuộc ḍng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, tinh thông Tam Tạng, Bách Luận, Bát Nhă, Hoa Nghiêm...chú trọng về Mật Tông "bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền" giản dị, gọn, nhẹ, rất hợp với tâm tính của khối dân xứ nóng Đông Nam Á. Sư lại chuyên về khoa Tổng Tŕ Tam Muội, nói ra lời nào là thành lời tiên tri được người đời tin tưởng. Nguyên Kinh Tổng Tŕ được chính Tỳ Ni Đa Lưu Chi dịch tại chùa Pháp Vân vào khoảng 580-594. Nhà sư Đa Lưu Chi từ Thiên Trúc sang Trung Hoa rồi sang Việt Nam tu 14 năm là sư tổ thiền phái Mật tông tại đất Việt với nhiều thế hệ thiền tăng xuất sắc như sư Pháp Hiền (thế hệ II), Định Không (thế hệ VIII), La Quư An (thế hệ X), Vạn Hạnh và Đạo Hạnh (thế hệ XII), Minh Không thế hệ XIII)...
Sau giai đoạn Đại thừa Bát Nhă, tới Đại thừa Duy thức là những cao điểm phát triển của của đạo Bụt nghiêng về trí huệ cao siêu, tới giai đoạn Đại thừa Mật giáo là chặng đường lan tỏa, sâu vào tàng thức cộng thể, rộng vào siêu lực ẩn tàng trong tâm thức, mênh mông bao bọc các tín ngưỡng thần linh khắp cơi mà không chấp vọng. V́ thế từ thế kỷ thứ IV tới thứ VIII Mật giáo đă phát triển nhanh chóng vững vàng thành Kim Cang Thừa lan ra khắp Viễn Đông, từ Tây Tạng sang Trung Hoa, Việt Nam...
Tổng Tŕ tiếng Phạn là Đà La Ni, có nghĩa là duy tŕ thiện pháp và ngăn ngừa ác pháp phát sinh. Một trong bốn loại Đà la ni (pháp, nghĩa, chú, nhẫn) là thần chú , một cánh cửa mở ra từ thiền siêu thức, một gạch nối từ tâm thức bay lên cơi phi – phi - tưởng, với những mật ngữ như ngôn ngữ giao cảm giữa những loài khác nhau trên những quốc độ khác nhau của tam thiên đại thiên thế giới.
Thần chú của Mật tông với hiệu lực linh nghiệm đă là thần lực gia hộ Triều Đinh, Lê và Lư. Cả trăm trụ bia đá vùng Hoa Lư c̣n ghi khắc kệ và chú từ thế kỷ thứ X, các cột kinh này lấy chú "Phật đỉnh Tôn thắng Đà La Ni" làm chủ yếu như "muôn ngh́n ánh sáng làm chúng sinh kinh động mà giác ngộ", người niệm chú này sẽ được tăng tuổi thọ và được chư thần Bồ tát phù hộ.
Ngay từ thế kỷ thứ VIII các nhà sư Mật tông Ấn đă sang Trung Hoa và đă dùng Mật ngôn thần chú phù trợ Triều vua Đường. Trong những thế kỷ sau, IX, X, XI... trung tâm Luy Lâu vùng Kinh Bắc đă là nơi qua lại gập gỡ của các danh tăng Ấn, Hoa, Chiêm Thành...lại thêm các nhà sư Việt sang Ấn du học như Sùng Phạm (thế hệ XI Tỳ Ni Đa Lưu Chi) du học chín năm, sau về chùa Pháp Vân truyền dậy đệ tử là Đạo Hạnh. Đạo Hạnh rất giỏi pháp thuật thần thông, đă từng tụng đủ 1 vạn 8 ngàn lần Đại Bi Tâm Đà La Ni, dùng gậy quăng xuống ḍng nước chẩy xiết, gậy dựng đầu lội ngược, nhờ đó diệt được tà sư Đại Điên là kẻ đă giết cha ḿnh, sau dốc chí tu tập, pháp lực càng cao, có thể điều phục muông thú, cầu mưa cầu gió, niệm chú trị bệnh. Đệ tử của Đạo Hạnh là Minh Không cũng có phép thổi một niêu cơm cho cả thuyền quân ăn không hết, có phép "rút không gian" chốc lát đưa thuyền từ xa tới kinh thành chữa bệnh cho vua Lư Thần Tôn (1136) đang bị chứng hóa ra hổ, lông lá đầy người, kêu gào ghê rợn...
Vạn Hạnh cùng thế hệ tu học với Đạo Hạnh, hẳn không lạ ǵ những pháp thuật thần thông ấy. Cùng với sư huynh Pháp Thuận, hai vị quốc sư này đă dùng sấm vĩ, độn số, pḥ trợ vua Lê Đại Hành (980 - 1005) trong việc trị quốc. Chính sư Pháp Thuận đă giả làm người lái đ̣ đối đáp thi văn với sứ thần nhà Tống là Lư Giác. Khi sư Pháp Thuận mất (991) th́ vua Lê Đại Hành chỉ c̣n Vạn Hạnh để tham vấn việc nước. Ngay từ năm 980 sư Vạn Hạnh đă đoán trước "nội trong ba bảy ngày quân Tống sẽ rút lui", quả nhiên vua Lê dụng mưu ly gián, quân Tống phải rút v́ nội biến. Tự đấy vua Lê Đại Hành rất kính trọng Sư và khi nhà vua muốn đánh Chiêm Thành để cứu sứ giả (Từ Mục) ta về cũng tới hỏi Sư trước, Sư nói trận này đánh tất thành công không phải do dự. Quả nhiên việc b́nh Chiêm thành công lừng lẫy, vua Chiêm là Parame bị chém tại trận.
Sau khi bậc anh quân thăng hà, Ngọa Triều Lê Long Đĩnh tàn bạo bệnh hoạn, Sư Vạn Hạnh đă v́ nước vận động đưa người hiền Lư Công Uẩn lên ngôi. Thuở thiếu thời Lư Công Uẩn tới học ở chùa Lục Tổ và gập Sư Vạn Hạnh tại đây, Sư thấy họ Lư tướng mạo phi phàm đă lấy làm lạ biết là bậc chân nhân thiên tử. Sư dùng nhiều phương pháp như viết chữ "thiên tử" trên lưng một con chó trắng ở làng Cổ Pháp rồi truyền rộng lời đoán rằng chó tượng trưng năm Tuất, bậc thiên tử sinh vào năm Tuất (Lư Công Uẩn sinh năm Giáp Tuất 974) và xuất hiện vào năm Tuất (Canh Tuất 1010) sẽ mang lại thanh b́nh thịnh trị.
BÀI SẤM CÂY GẠO
Khi cây gạo (do thiền sư La Quư An trồng ở chùa Minh Châu năm 936 để trấn giữ ) bị sét đánh tróc vỏ, một bài sấm hiện ra và được ghi vào chính sử như sau :
1 - Thụ căn yểu yểu
Mộc biểu thanh thanh
Ḥa đao mộc lạc
Thập bát tử thành
2 - Đông a nhập địa
Dị mộc tái sinh
Chấn cung kiến nhật
Đoài cung ẩn tinh
3 - Lục thất niên gian
Thiên hạ thái b́nh
Dịch nghĩa :
1 - Gốc cây thăm thẳm
Ngọn cây xanh xanh
Cây ḥa đao rụng
Mười tám hạt thành
Sư Vạn Hạnh tự đoán rằng: Căn là gốc tức là vua, diễu đồng âm với yểu, là vua chết non. Mộc biểu là ngọn cây tức bầy tôi, thanh thanh là xanh, đồng âm với thịnh, như vậy là một quần thần sẽ phát lên. Ḥa đao mộc, ba chữ hợp lại thành chữ Lê, vậy là Lê rơi rụng. Thập bát tử, ba chữ hợp lại là chữ Lư, như vậy là họ Lư tất thành.
2 - Cành Đông vào đất
Cây khác lại sinh
Cung Đông trời mọc
Cung Tây ẩn tinh
Đông A kết lại thành chữ Trần, nhập địa là vào đất của nhà Lư. Dị mộc tái sinh tức nhà Lê khác lại sinh. Câu này tiên đoán sau họ Lư đến họ Trần, rồi nhà Hậụ Lê (Lê Lợi). Chấn cung (Đông) xuất nhật là thiên tử xuất ở phương Đông, phương Tây lại có một ngôi sao c̣n ẩn dạng. Có sách bàn là nhà Mạc xuất ở phương Đông (Hải Dương) v́ chữ Mạc chứa chữ Đông, Tây sơn ẩn ở phương Tây.
Trong Đại Việt Sử Lược không thấy 2 câu Đông A nhập địa, dị mộc tái sinh, nhưng trong Việt Sử Tiêu Án (Ngô Thời Sĩ) và nhiều tài liệu khác lại chép hai câu ấy. Có thể vào thời Lư không dám chép lời tiên đoán sau Lư họ Trần sẽ vào, và đời Trần lại không dám chép câu sấm họ Lê khác tái sinh thay thế họ Trần ! Cung Đông có thể chỉ nhà Mạc xuất từ miền Đông, nhưng Đoài cung là phương Tây sao ẩn mà đoán là nhà Tây sơn th́ gượng ép v́ vào thế kỷ X - XI vùng Tây sơn c̣n thuộc Chiêm Thành ! Phải đoán là một vị sao c̣n ẩn ở phương Tây tức vùng Sơn Tây núi Tản sông Đà, sau này Trạng Tŕnh cũng nh́n thấy một Ngưu tinh cư chính cung, xuất ở Khảm phương và hướng Tây (Đoài phương thực có chân nhân...), như vậy không c̣n nghi ngờ ǵ nữa. Hai câu này và hai câu cuối tác giả Việt Sử Tiêu Án cũng cho là "có ư huyền diệu ǵ khác, không chịu nói lộ hết ra". Đă là lời Sấm th́ làm sao nói rơ ràng như văn suôi được !
3 - Khoảng sáu bẩy năm thiên hạ thái b́nh Phần nhiều các sử liệu giải là sáu bảy năm sau khi Lư Công Uẩn lên ngôi (1010), khoảng 1016 - 1017, thiên hạ sẽ thái b́nh. Giải như vậy mất ư nghĩa rộng lớn của một bài Sấm mà Ngô Thời Sĩ (nhà Nho này vốn không ưa Sấm kư, cho là mê hoặc làm hại) cũng phải viết là "Sét đánh vào cây thành bài Sấm chỉ có 40 chữ mà đủ hết cả hưng vong của các đời trong thời gian hơn ngàn năm". nếu đă đủ hết hưng vong ngàn năm th́ hai câu cuối phải hiểu dính liền với câu Đoài cung ẩn tinh, và lục thất niên gian có thể phù hợp với câu Sấm Trạng Tŕnh: "tới chiều lục thất xuất thánh nhân". Nếu giải lục thất là chữ Nguyễn th́ rất gượng ép và không hợp v́ lục thất niên gian rơ ràng muốn nói lên mốc thời gian. Nhưng nếu bài Sấm thâu tóm lịch sử ngàn năm tại sao không nói đến triều Nguyễn ? Có lẽ Nguyễn cũng như Trịnh chỉ là hai nghiệp Chúa thuộc nhà Hậu Lê, cho dù sau này Nguyễn Gia Long có lên ngôi cũng không đủ ứng hợp với một vận hội tinh đẩu riêng biệt chăng ?
Cứ xem bài Sấm ngắn gọn hàm chứa cả ngàn năm lịch sử này cũng đủ thấy Vạn Hạnh là một nhà tiên tri của dân tộc, có tầm nh́n không phải "ngũ bách niên" mà là "thiên niên". Sư có thể nh́n cuộc thịnh suy từ đời Đinh (968-980) cho tới hiện đại hơn ngh́n năm. Căn cứ trên Việt Sử Lược khi Vạn Hạnh nói bài Sấm ấy với Lư Công Uẩn th́ Sư đă ngoài 70 tuổi: "Gần đây tôi thấy bài Sấm lạ, biết nhà Lê đương xuống mà nhà Lư đương lên... nay tuổi của tôi đă hơn 70, chỉ sợ không kịp thấy sự thịnh trị..." (ĐVSL 113). Năm ấy là năm 1009, măi tới năm 1018 Sư mới hóa, vậy Sư thọ khoảng 90 tuổi. V́ tấm ḷng đối với họ Lư và Đạo pháp chân thành như vậy nên truyền thuyết cho rằng Sư đă t́m đất kết long mạch tái phát cho nhà Lư hưng khởi một ngàn năm sau - vào thời gian hiện đại 2000 ? - để "Lư đi rồi Lư lại về" là điều có thể tin được. Hơn nữa với thiên nhăn nh́n cả ngàn năm, lại đủ tài phong thủy sấm vĩ, độn số, chắc hẳn Sư không thể không thấy cuộc thịnh suy và đă t́m ra đại địa Bảo sơn Bảo giang rồi cho xây trụ tháp trấn giữ long mạch. Năm trăm năm sau Trạng Tŕnh cũng nh́n thấy đại địa ấy và viết Sấm tiên đoán.
Thật ra, trước Vạn Hạnh 200 năm, Sư Định Không cũng đă nh́n phong thủy làng Cổ Pháp và tin tưởng là một bậc chân nhân họ Lư sẽ xuất hiện , Sư viết như sau :
Địa tŕnh pháp khí
Phẩm chất tinh đồng
Tŕ Phật pháp chi hưng long
Lập huơng danh chi Cổ Pháp
Pháp khí xuất hiện
Thập khẩu đồng chung
Lư hưng vương, tam phẩm thành công
Dịch nghĩa :
Đất dâng pháp khí
Phẩm chất tinh đồng
Đưa Phật pháp đến thời rồng lên
Làng Cổ Pháp đặt lấy tên
Pháp khí xuất hiện
Mười miệng chuông đồng
Họ Lư hưng vương, tam phẩm thành công.
(khi Sư dựng nền chùa làng Đ́nh Bảng, đào được 10 chiếc khánh và một chiếc lư hương, mang ra sông rửa, một chiếc khánh ch́m xuống nước. Sư bàn: mười chiếc khánh là thập khẩu hợp lại là chữ Cổ, một chiếc ch́m đi là thủy khứ, hợp lại là chữ Pháp, vậy đặt tên linh địa này là Cổ Pháp).
Khi Vạn Hạnh nói bài Sấm tiên đoán vận hưng long của nhà Lư với Lư Công Uẩn, Lư Công Uẩn sợ tiết lộ nên cho người dấu Sư Vạn Hạnh vào núi Tiêu Sơn. Ngày Lư Công Uẩn lên ngôi Sư Vạn Hạnh đang ở chùa Lục Tổ đă nói trước "khoảng một ngàn ngày nữa, Công Uẩn sẽ được cả thiên hạ", rồi Sư lại viết một bài kệ treo bên đường đi rằng :
Cỏ Lê ch́m biển Bắc
Hạt Lư nẩy phương Nam
Bốn phương binh đao hết
Khắp nước hưởng b́nh an
Mọi người vào Hoa Lư thăm ḍ th́ đúng như vậy, ai nấy đều lấy làm lạ về tài tiên tri của Sư (thời xưa từ Cổ Pháp tới Hoa Lư tuy cách xa có 100 cây số nhưng đường đi khó khăn chắc phải mất hàng ngày).
Trong bài sấm khác, Sư cũng đoán trong ba tháng nữa Lư Công Uẩn sẽ lên ngôi :
Cái tam nguyệt chi nội
Thân vệ đăng trụ xă tắc
Lạc trà ấn quốc tự...
(trong ṿng ba tháng Thân Vệ lên làm chủ xă tắc cây đa in chữ quốc...)
Ngoài ra các lời Sấm khác cũng có thể do chính Sư viết như "Bát phương hội Nữ thường xuất quân" (Sao Nữ hiện tám phương trời th́ vua xuất), hoặc "Chính Bắc Phù Cầm dương bạch hổ, an lạc nam nữ thường vô khổ.." (hướng Bắc đất Phù Cầm bạch hổ đứng, trai gái an lạc hết khổ tai).
Trải qua ba triều Đinh, Lê, Lư, Sư Vạn Hạnh đă cống hiến trọn đời cho dân tộc và Đạo pháp hành nghiệm. Ngay cả việc rời đô từ đất Hoa Lư chật hẹp, vận số ngắn ngủi ra Thăng Long với thế đất rồng quấn hổ phục, ở giữa Đông Tây Nam Bắc, muôn vật rất thịnh và phồn vinh, Sư là nhà chiến lược đặt trường kế non sông. Chính Sư đă viết ra những lời Sấm đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà 500 năm sau Trạng Tŕnh đă dùng làm khởi điểm cho tập Sấm kư. Vừa là thầy dậy dỗ Lư Công Uẩn từ nhỏ, vừa làm quốc sư cho vị vua sáng nghiệp nhà Lư, Sư Vạn Hạnh đă tận dụng kiến văn và trí huệ tới mức siêu đẳng, nghĩa là vận động lịch sử bằng cách đi vào đáy sâu tàng thức quần chúng, từ đó dấy lên ḷng tin vào hồng vận hưng long của triều đại, khi quần chúng đă tin, nhân tâm đă định, tức là đạt 80 - 90% thành công.
Năm 1018 Sư già không bệnh mà hóa, trước khi hóa Sư chỉ dậy cho đệ tử: "Các con nên trụ ở đâu ? thầy không trụ ở nơi có thể trụ mà cũng không trụ ở nơi không thể trụ", đây là triết lư hành nghiệm không nương tựa vào đâu ngoài ḿnh mà phải tự ḿnh thắp đuốc lên mà đi, rồi Sư đọc bài kệ :
Thân như điện, ảnh, hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
Tạm dịch :
Thân như chớp nhoáng, có rồi không
Cây cỏ xuân tươi, thu tàn khô
Theo vận thịnh suy đừng lo sợ
Thịnh suy đầu cỏ hạt sương phô
Câu "nhậm vận thịnh suy vô bố úy" kết tinh tinh thần Tam giáo, sống theo vận trời, nh́n thịnh suy như chu kỳ thiên nhiên tất yếu mà không lo sợ, an nhiên tự tại hành nghiệm. Đấy chính là khởi điểm của 500 năm quân chủ nhân quốc (X - XIV) bằng chủ đạo Nhập thế tích cực trong tinh thần xuất thế cao thượng vậy. |
|
|
|
Quay trở về đầu |
|
|
ngoctrongdda Hội viên
Đă tham gia: 26 November 2006
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 142
|
Msg 117 of 585: Đă gửi: 08 December 2006 lúc 12:55am | Đă lưu IP
|
|
|
Cám ơn bác Thiennhan nhé ,cuốn sách này cũng bổ ích 1 chút kiến thức.Tác giả chắc mơi' viết trong những năm gần đây. Đọc lướt qua th́ thấy ông đă diễn giải :sau 1000 năm thống khổ từ khi Lư Công Uẩn lên ngôi là hiền sĩ duy nhất với thanh gươm không dính máu ,th́ sau năm 2010... sẽ có 1 sự trùng hợp tương tự & sự trỗi dậy của dân tộc Việt ,cái ư này chắc giống bác Thiên sứ với sự trỗi dậy của nền văn hóa phương Đông....và 1 vài ư như :sẽ chia Tứ cường dùng đũa là VN,TQ,HQ,NB ( chắc c̣n quên 1 dân tộc ăn bốc đó là Ấn Độ) ,lấn chiếm thêm diện tích th́ mới đủ phong thủy & long mạch đưa VN lên hùng cường như ghế ngồi ở HDBA LHQ...Nhưng tôi nghĩ với 1 thế giới phẳng điều đó không thể xẩy ra , phải có 1 dao động lớn như WW3 th́ vị lănh tụ này mới xuất hiện đưa đường chỉ lối cho dân tộc thoát khỏi chiến tranh tiến lên hùng cường đúng với câu
Sông quí lănh tụ xuất
Khỏi chiến tự nhiên hùng cường
Sấm thật hay giả chưa biết ,chắc ǵ các nhà tiên tri đă đúng ! Tán dóc với các bác. NTD
|
Quay trở về đầu |
|
|
ngoctrongdda Hội viên
Đă tham gia: 26 November 2006
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 142
|
Msg 118 of 585: Đă gửi: 08 December 2006 lúc 12:58am | Đă lưu IP
|
|
|
em typing chậm quá... bạn linhlinh giải thich < tếu tao>?
|
Quay trở về đầu |
|
|
linhlinhlinh Hội viên
Đă tham gia: 25 November 2006
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 140
|
Msg 119 of 585: Đă gửi: 08 December 2006 lúc 1:37am | Đă lưu IP
|
|
|
theo"việt sử siêu linh" :lư đi rồi lư lại về là đúng! rất tốt thôi cũng v́ "quốc thái dân an" mà thôi! vậy họ lư ở đâu đó (nội-ngoại) có được cao nhân thông suốt DỊCH LƯ & ngộ suốt MẬT TÔNG chĂNG?hoặc chờ VẠN HẠNH tái sinh ra sức giúp đỡ?nhưng trong sấm vĩ?sấm kư?tương truyền của trạng tŕnh th́ :..thuỷ trung tàng baỏ cái ! hứa cập thánh nhân hương ! mộc hạ châm châm khẩu ! danh thế xuất nan lường ! danh vi NGUYỄN gia tử? (danh vi LƯ GIA TỬ)?TINH BẢN TẠI NGƯU LANG ! mại dữ lê viện dưỡng ! khởi nguyệt bộ đại giang !hoặc kiều tam lộng ngạn-hoặc ngụ kim lăng cương !(có phải nghĩa đang ngụ ở HÀN quốc chăng?).rất cám ơn thien nhan! theo ngu ư của tôi đến đây : "lư hay nguyễn "kể như đă sáng!thỉnh ư các cao nhân !
|
Quay trở về đầu |
|
|
linhlinhlinh Hội viên
Đă tham gia: 25 November 2006
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 140
|
Msg 120 of 585: Đă gửi: 08 December 2006 lúc 1:47am | Đă lưu IP
|
|
|
to NTD : tạm giải :đủa-giỡn-nói theo trạng thái :nửa đùa-nửa thật = "tếu-táo ".đại ư như vậy!
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|